Connect with us

Sách hay

Nhiều giá trị thời đại trong nhật ký của Virginia Woolf

Được phát hành

,

“The Diary of Virginia Woolf” là tác phẩm vô song mang tính sử thi về cuộc đời, trải nghiệm và quá trình sáng tác của một trong những tác giả hiện đại quan trọng nhất thế kỷ 20.

“Tôi đã muốn viết về cái chết…”, Virginia Woolf viết vào ngày 17/2/1922, khi bà vừa tròn 40 tuổi. Nhật ký của Virginia Woolf tràn đầy nỗi đau về cái chết, sự mất mát, bệnh tật, nỗi đau, sự chán nản, nỗi thống khổ và sợ hãi. Nhưng trên mỗi trang giấy, hơi thở sự sống tràn vào với nguồn năng lượng đáng kinh ngạc, sự thích thú và hân hoan.

Di sản của Virginia Woolf không mất đi sau khi bà tự sát

The Diary of Virginia Woolf là bản ghi chép rất đặc biệt về những trải nghiệm của bà, những quan sát về thế giới sống động, một cuộc tự kiểm điểm can đảm về bản thân, chia sẻ về quá trình sáng tạo văn học, những cảm xúc gần gũi với thiên nhiên, nhiều chiêm nghiệm về cuộc sống, tình yêu, hôn nhân, tình bạn, sự cô độc, các mối quan hệ xã hội và cả sự tử vong. Theo đánh giá của trang The Guardian, đây là một trong những cuốn nhật ký vĩ đại từng được viết và việc tái bản tác phẩm này là một quyết định đúng đắn.

Phần đầu tiên trong cuốn nhật ký của bà (còn lưu lại tới nay) được Woolf viết vào năm 1897, khi bà gần 15 tuổi và phần cuối cùng bà viết là vào ngày 24/3/1941, bốn ngày trước khi bà qua đời.

Virginia Woolf anh 1
Virginia Woolf năm 1939. Ảnh: Researchers.

Bà lưu giữ những ghi chép đặc biệt của mình suốt 42 năm trong những cuốn sổ bìa mềm không kẻ dòng và được bà bọc trong giấy màu. Bà thường đọc chúng để nhắc nhở bản thân về quá khứ của mình và bà cũng dựa vào đây để viết cuốn hồi ký Sketch of the Past vào năm 1939. Khi ngôi nhà ở London của bà bị đánh bom vào tháng 10/1940, đây là những tài liệu bà quan tâm đầu tiên.

Vào ngày 28/3/1941, trước khi tự tử, bà đã để lại một bức thư cho chồng mình là Leonard yêu cầu ông tiêu hủy tất cả giấy tờ của bà. Thay vì làm điều đó, ông bắt đầu phân loại và lưu trữ một khối lượng lớn tài liệu, bao gồm các bản thảo tiểu thuyết, bài tiểu luận, bài phê bình và những ghi chép về bản thân của bà. Tất cả đã được đưa vào Bộ sưu tập Berg trong Thư viện Công cộng New York.

Năm 1953, Leonard đã chọn một số đoạn trích để xuất bản. Được đặt tên là A Writer’s Diary, tác phẩm này tập trung vào sự cống hiến của Virginia Woolf cho sự nghiệp viết lách. Và phải mất khoảng 20 năm, việc xuất bản toàn bộ nhật ký và thư từ của bà mới giúp độc giả có một góc nhìn toàn cảnh hơn về Virginia Woolf.

Sau khi Virginia Woolf qua đời, danh tiếng của bà như một nhân vật khổng lồ trong văn học thế kỷ 20 được thúc đẩy nhờ phong trào nữ quyền của những năm 1960 và 1970. Vào thời điểm đó, các tác phẩm của bà được biên tập và xuất bản đều đặn, cùng nhiều cuốn tiểu sử và ghi chép của những nhà văn khác về bà.

Vị thế của Virginia Woolf trong nền văn học thế giới cũng phần nào nhờ vào cháu trai bà, nhà sử học nghệ thuật Quentin Bell. Ông đã viết cuốn tiểu sử dài đầu tiên về bà vào năm 1972 và vợ ông, Anne Olivier Bell, góp công biên tập nhật ký của bà từ năm 1977 đến 1984.

Nhiều giá trị đặc biệt trong các ghi chép của Woolf

Một điều nổi tiếng trong nhật ký và các bức thư của Woolf là những nhận xét gay gắt của bà. Giọng điệu của bà có thể cay nghiệt và dường như mang lại sự khó chịu cho độc giả thời đại đó. Chính điều này đã khiến một số nhà phê bình lên án bà.

Tuy nhiên, dù giọng điệu của bà có thể khó nghe nhưng vẫn thể hiện được những quan điểm tiến bộ và hiểu biết nhiều hơn về chính trị so với những người cùng tầng lớp.

Virginia Woolf anh 2
Độc giả có thể tiếp cận được nhiều giá trị trong tác phẩm này. Ảnh: Abebooks.

Và chính bản thân Woolf cũng nhận ra những thiếu sót của mình. Bà tự phê bình bản thân một cách mãnh liệt và khao khát thay đổi sự ích kỷ, hướng đến “chúng tôi” thay vì chỉ riêng “tôi”. Có một cuộc đấu tranh gay gắt xuyên suốt những ghi chép của bà giữa thuyết duy ngã (“Tôi quan tâm đến bản thân mình như thế nào!”) và khao khát hướng đến cộng đồng và tính khách quan.

Trong ghi chép của mình, bà cũng ghi lại đầy đam mê về phong cảnh xung quanh và sự khao khát kết nối với người khác. Cuốn nhật ký là một kho tàng về các nhân vật, từ những người đàn ông và phụ nữ nổi tiếng trong thế giới văn học mà Woolf biết (như Hardy, Wells, Yeats, Sackville-West, Mansfield, Eliot) đến hàng nghìn bức chân dung sống động về những cuộc đời ít người biết đến hơn.

Ngoài việc hiểu thêm về bản thân Woolf, những ghi chép của bà cũng rất giàu tính lịch sử khi bà đặc tả về thế giới xung quanh, nêu chi tiết những thời điểm nóng bỏng, về cuộc tổng đình công, cuộc khủng hoảng thoái vị hay những trải nghiệm của dân thường về chiến tranh thế giới thứ hai.

Các nhà văn thế hệ sau cũng có thể học hỏi rất nhiều từ ghi chép của bà, đặc biệt là về cách lấy cảm hứng từ những điều giản dị trong cuộc sống để tạo nên nhiều chất liệu văn học đặc biệt. Chẳng hạn khoảnh khắc vui vẻ trong bồn tắm khi bà đột nhiên nghĩ ra ý tưởng cho bài luận Three Guineas hay diễn biến của To the Lighthouse được bà phát triển từ suy nghĩ đầu tiên: “phải hoàn thành trọn vẹn nhân vật người cha trong đó, cả các bà mẹ, Thánh Ives và những điều thông thường như sự sống, cái chết,…”.

Bà cũng ghi lại trong nhật ký những phản hồi và đánh giá của độc giả về tác phẩm của mình và thường tự nhủ “tôi có rất nhiều cuốn sách thú vị và phong phú!”.

Khi nhìn lại, The Diary of Virginia Woolf không chỉ là một tác phẩm về ký ức của Virginia Woolf mà còn là một cuốn sách về giá trị của cái chết, biết rằng cái chết đang đến gần để tận dụng tối đa những khoảnh khắc đang sống. Bà viết: “Tôi vui vì được sống và nuối tiếc cho những người đã chết”.

Nguồn: https://zingnews.vn/nhieu-gia-tri-thoi-dai-trong-nhat-ky-cua-virginia-woolf-post1442647.html

Tiếp tục đọc
Nhấn vào đây để bình luận

You must be logged in to post a comment Login

Leave a Reply

Sách hay

Con người hiện đại có thể học được gì từ Quỷ Cốc Tử

Được phát hành

,

Bởi

Trong thế giới hiện đại, “Quỷ Cốc Tử mưu lược toàn thư” không chỉ là một di sản văn hóa mà còn là “Trí tuệ kỳ thư” mang tính ứng dụng cao.

Trong thế giới hiện đại, “Quỷ Cốc Tử mưu lược toàn thư” không chỉ là một di sản văn hóa mà còn là “Trí tuệ kỳ thư” mang tính ứng dụng cao.

Con người hiện đại có thể học được gì từ Quỷ Cốc Tử

Trong thế giới hiện đại, “Quỷ Cốc Tử mưu lược toàn thư” không chỉ là một di sản văn hóa mà còn là “Trí tuệ kỳ thư” mang tính ứng dụng cao.

Audiobook

Nguồn: https://znews.vn/con-nguoi-hien-dai-co-the-hoc-duoc-gi-tu-quy-coc-tu-post1512001.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Dám nghi, dám nghĩ, dám nghỉ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách này ghi chép những câu chuyện nhỏ về cuộc sống của tác giả quanh vấn đề Dám Nghi – Dám Nghĩ – Dám Nghỉ ở ba nơi: Mekong – Sài Gòn – San Francisco.

Thấy trên bảng có hai bài toán thống kê, chàng sinh viên nghĩ rằng chúng là bài tập về nhà. Vài ngày sau, anh nộp bài cho giáo sư với lời giải thích “bài tập lần này hơi khó hơn bình thường” nên anh nộp trễ.

Truyền thông nói gì về giới hạn?

Họ nhắc đến những trải nghiệm thương đau như là nấu hỏng, chi phí tốn kém, hay phải lau dọn bếp khá là mệt đằng sau. Kiểu là như vậy đấy.

Tôi bảo với cô nhà báo rằng, tôi sẽ ái ngại nếu những người thân quen quanh tôi, người mà biết hết mọi nốt thăng, nốt trầm, nốt lỗi trong đời tôi đọc bài báo này. Tôi hỏi cô có cách nào chỉnh sửa được không. Cô cười giải thích với tôi rằng, chúng ta nên nghĩ ở góc độ người đọc.

Người đọc báo mạng cần thông tin chính xác (tức không đưa thông tin sai), nhưng súc tích ngắn gọn và họ sẽ tiếp tục đọc thêm nhiều bài khác. Người đọc báo mạng không cần tôi giải thích mọi ngóc ngách ưu khuyết về cuộc đời tôi, tôi đâu phải là nhân vật của công chúng. Cô nhà báo gợi ý tôi xem bản nháp có chỗ nào chưa đúng thì sửa chữa, chứ chưa đủ thì rất khó để viết thành đủ.

Gioi han anh 1
Ảnh minh hoạ. Nguồn: BBC.

Bên cạnh nhu cầu đọc nhanh của độc giả, việc thuyết phục tòa soạn cho nhiều “đất” để viết dài là một vấn đề khác. Tôi tuy vẫn ái ngại, nhưng thấy cô nói có lý. Tri thức của độc giả đến từ việc họ đọc đa dạng nội dung, và đọc nhiều mỗi ngày. Nếu tôi có duyên được đóng góp một bài đúng-tuy-chưa-đủ thì cũng là một vinh dự rồi. Vậy thôi tôi đồng ý cho đăng.

Nhân nói chuyện về báo, tôi muốn chia sẻ một bài báo tôi đọc gần đây. Năm 1939, tại giảng đường Đại học UC Berkeley, một sinh viên tiến sĩ tên là George Dantzig đến lớp trễ. Thấy trên bảng có hai bài toán thống kê, chàng sinh viên nghĩ rằng chúng là bài tập về nhà. Vài ngày sau, anh nộp bài cho giáo sư với lời giải thích “bài tập lần này hơi khó hơn bình thường” nên anh nộp trễ.

Ông giáo sư giật mình, không phải vì chàng sinh viên nộp bài trễ mà vì anh đã… nộp bài. Bài toán viết trên bảng hôm ấy không phải là bài tập về nhà. Chúng là hai bài toán thống kê nổi tiếng nhân loại chưa có đáp án. Ông giáo sư viết trên bảng cho lớp biết, và anh sinh viên George Dantzig đã… giải ra.

Nguồn: https://znews.vn/chang-sinh-vien-nham-de-toan-noi-tieng-nhan-loai-voi-bai-tap-ve-nha-post1511859.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1
Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2
Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng