Connect with us

Sách hay

Ngục tù nhân danh tình yêu

Được phát hành

,

“Căn phòng của Giovanni” khước từ tham vọng đem đến một định nghĩa về tình yêu. Ngược lại, nó là câu chuyện của sự cảnh tỉnh cho những lầm tưởng về tình yêu.

“Thiên hạ muôn hình vạn trạng, sao có thể bị đối đãi hời hợt. Tôi đây muôn hình vạn trạng, sao có thể đáng tin” (trích Căn phòng của Giovanni, James Baldwin).

Thế còn tình yêu, tình yêu liệu rằng cũng muôn hình vạn trạng như cái cách mà F.Scott Fitzgerald đã nói trong Đại gia Gatsby: “Trên thế gian này, tình yêu muôn hình muôn vẻ, nhưng cái tình yêu năm xưa ấy thì không trở lại bao giờ”?

Vậy là, tình yêu muôn hình muôn vẻ, là không thể tin, tình yêu là một đi không trở về. Rốt cuộc, làm sao chúng ta biết được đó là tình yêu chứ không phải một điều gì khác, không phải bất kỳ điều gì “trông giống như tình yêu”?

Can phong cua Giovanni anh 1

Sách Căn phòng của Giovanni. Ảnh: Sách Tao Đàn.

Lời cảnh tỉnh cho những lầm tưởng về tình yêu

Là một câu chuyện viết về tình yêu với tất cả nghịch lý và mâu thuẫn của nó, Căn phòng của Giovanni khước từ tham vọng đem đến một định nghĩa về tình yêu. Ngược lại, nó là câu chuyện của sự cảnh tỉnh, cảnh tỉnh trước cho những lầm tưởng về tình yêu.

Gọi là Căn phòng của Giovanni bởi lẽ đây là sân khấu cho sự hiện thân của tất cả nhân vật, những bản ngã và sự lột trần. Trong căn phòng đó, một tình yêu đã nảy mầm, rồi tình yêu đó lớn lên từng ngày, cùng những đổi thay nếu không muốn nói rằng đó là những vỡ mộng, tan vỡ.

Và khi nó chết đi, người ta không thể ngừng đặt câu hỏi rằng liệu từng có một tình yêu nào tồn tại ở đây hay chưa, ngay trong căn phòng này từng có tình yêu? Hay ngay từ đầu nó vốn dĩ là những lầm tưởng, những thứ méo mó mạo nhận những điều tươi đẹp, âm thầm dồn ép con người ta rơi vào bế tắc và lạc lối?

Trong chính những hoài nghi, bi quan như thể muốn phủ nhận tất cả về tình yêu ấy, Căn phòng của Giovanni tình cờ lại chất vấn mọi người, dùng chính những chất vấn đó để… dạy người ta một cách yêu, dạy người ta cách vượt thoát khỏi những nhầm lẫn về tình yêu.

Tình yêu, đó không phải là học cách chấp nhận đối phương mà hơn hết, là học cách chấp nhận chính mình. Chấp nhận chính mình trước hết là hiểu rõ ràng về bản thân, hiểu được trái tim mình, hiểu được những rung động của nó và không bị đánh lừa bởi những nhịp đập loạn lạc vô cớ vô duyên.

Thách thức lớn nhất của tình yêu nằm ở chỗ: Bản thân ta phải ngừng chạy trốn chính mình, ngừng lừa dối và ngừng chối bỏ chính mình!

Để ngừng ngụy biện với bản thân, con người ta bằng cách này hay cách khác đi tìm đến những sự thật, những điều bên ngoài mình, dùng những phép thử, những tấm gương soi để xem cho rõ diện mạo của bản thân, trả lời cho câu hỏi “Tôi là ai?”.

“Nhưng buồn thay, người ta đâu thể nào chế ra cột neo, chế ra tình nhân và bạn hữu, giống như họ đâu thể chế ra cha mẹ mình. Đời trao những thứ này rồi lại lấy chúng đi và điều khó khăn ghê gớm là nói ‘vâng’ với đời” (James Baldwin).

Người ta làm gì có những cột neo để bám vào? Làm gì có một thứ gì để ta nương tựa mà vượt qua những chông chênh của thế gian này? Cũng như chẳng có một điều gì giúp ta mượn nó để nhận ra bản ngã tiềm tàng. Một tấm gương soi? Bạn tin rằng một tấm gương soi sẽ giúp ta nhìn thấy chính mình ư? Bạn đã quên rằng những gì nhìn được trên tấm gương kia là những ảo ảnh hay sao?

Người ta không thể và cũng không có một chiếc neo nào để dựa dẫm rồi băng qua cuộc đời này. Tương tự, những chiếc gương soi không thể giúp ta nhìn thấu chính mình, một chiếc gương không giúp được ta điều đó, và một tình yêu lại càng không.

Can phong cua Giovanni anh 2

Nhà văn James Baldwin. Ảnh: Getty Images/Oprahdaily.

Những nghịch lý cuộc đời

Tình yêu không phải và không thể là cách để con người ta nhìn thấy chính mình, tìm ra bản thân. Bởi lẽ, tình yêu không tìm ra tôi mà là chính tôi đi tìm lấy tình yêu của mình. Tâm hồn tôi nhờ có tình yêu mà đẹp đẽ nhưng nó không được làm nên chỉ bằng tình yêu.

Tình yêu có thể lấp đầy tôi nhưng tôi chắc chắn sẽ không là một sự trống rỗng nếu vắng bóng đi tình yêu trong cuộc đời mình.

Biết đâu được, ngay cả khi có lấy một tình yêu trong đời, nội tâm vẫn đầy những mông lung và rạn nứt. Ngay cả khi Giovanni ngỡ rằng mình có được tình yêu ấy, ngay cả khi cậu thấy rằng tình yêu ngập tràn cả căn phòng mình thì sự thật rằng căn phòng của cậu vẫn là một mớ hỗn độn, ngột ngạt còn trái tim cậu thì ngổn ngang bao nỗi bất an, lo sợ.

Chúng ta có dám như Giovanni, ngoan cố tin rằng tình yêu là một chiếc neo hay cố chấp bám víu vào những ảo ảnh tình yêu để mong chờ một ngày tìm ra được chính mình như David để rồi nhận lấy một kết cục thê thảm? Vậy thì, tình yêu có là sự cứu rỗi của ta hay chính ta mới là sự cứu rỗi cho bản thân mình?

Các nhân vật của James Baldwin đã lang thang khắp những nẻo đường châu Âu, đã ngược xuôi giữa hai bờ đại dương, đã dọc ngang nam bắc để rồi mỗi giờ phút đều chìm trong sự bất định, đều mông lung không một nơi trở về. Họ tìm kiếm một tình yêu để rồi nhận ra những gì mình đã ngỡ là tình yêu thực chất là sự trái ngược của tình yêu.

Họ nhìn về một mái nhà để rồi ý thức rằng “Anh không có một mái nhà cho đến khi anh rời bỏ nó, rồi khi đã rời bỏ nó, anh sẽ không bao giờ có thể trở về”. Hết thảy là một sự đánh lừa!

Thứ bất biến duy nhất lại là cái tôi mà người ta vẫn hoài loay hoay chẳng sao thấu hiểu. Người ta thường ngỡ rằng tự do để tìm kiếm và khám phá mọi điều mà không biết rằng mình “bị kết án phải tự do” (từ dùng của Jean Paul Sartre). Mình phải tự do, tự do cùng nỗi cô đơn không bao giờ được xoa dịu!

Cũng từ những hành trình mà các nhân vật trong Căn phòng của Giovanni đi qua, dù ít hay nhiều, họ đã nhìn ra được bản chất đầy nghịch lý của cuộc đời này.

Căn phòng của Giovanni đã được viết bằng những nỗi sợ, nỗi hoang mang, bằng sự bất tin và cả những lạc lối. Không thể phủ nhận, đó là câu chuyện của những lầm tưởng, của sự sụp đổ niềm tin, của sự chạy trốn và của cả những tan hoang, vụn vỡ.

Thế nhưng, đó cũng là câu chuyện của niềm tin, của những nỗ lực xây dựng niềm tin bất thành. Có thể, Giovanni đã nhận lấy một cái kết bi thảm, nhưng đó là kết quả sau một chuỗi những ngày tháng cậu trượt dài trong sự tuyệt vọng.

Có thể, David đến sau cùng đã đánh mất tất cả, đã cô độc đến đáng thương, nhưng đó cũng là hậu quả từ những năm tháng “không nhìn vào vũ trụ, không nhìn vào bản thân mình, không ngừng chuyển động”.

Niềm tin, suy cho cùng, có thể không được xây dựng trên một nền tảng vững vàng nhưng nó luôn đủ sức khiến cho con người ta vững vàng bước qua những cơn giông tố của cuộc đời mình, một cách chậm rãi, an yên.

Nguồn: https://zingnews.vn/nguc-tu-nhan-danh-tinh-yeu-post1195769.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1
Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2
Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Bảo vệ bản thân khỏi các mối quan hệ độc hại

Được phát hành

,

Bởi

Tác giả Angela Sen, với kinh nghiệm hơn 15 năm trong lĩnh vực tư vấn điều trị tâm lí sẽ đưa ra những lời khuyên hữu ích, hướng độc giả đến những lối sống bền vững, cân bằng về cảm xúc và hiểu bản thân mình hơn.

Giao tiếp lành mạnh là một kỹ năng mà mỗi người nên học hỏi và bồi đắp thường xuyên. Nó sẽ giúp bạn xây dựng được những mối quan hệ chất lượng, tạo lòng tin với đối phương.

Giao tiep lanh manh anh 1

Bình đẳng và tôn trọng đối phương là nguyên tắc quan trọng trong quá trình giao tiếp. Ảnh: T.N.

Giao tiếp lành mạnh có thể được định nghĩa là “sự trao đổi hiệu quả những suy nghĩ và cảm xúc giữa con người với nhau, và truyền đạt một cách trung thực, rõ ràng những yêu cầu, đồng thời là sự tôn trọng quyền lợi của nhau”. Theo định nghĩa này, có thể chia thành ba yếu tố chính sau đây:

– Giao tiếp lành mạnh là bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc, nhu cầu của bản thân và tự chịu trách nhiệm về chúng.

– Giao tiếp lành mạnh tôn trọng quyền thể hiện bản thân của chính mình và của cả đối phương.

– Giao tiếp lành mạnh là một kỹ năng, không phải là tính cách.

Yếu tố đầu tiên trong giao tiếp lành mạnh là bày tỏ rõ ràng và độc lập những gì mình nghĩ, mình cảm nhận và cả những điều mình mong muốn. Ở đây, suy nghĩ của tôi là của tôi, cảm xúc của tôi là của tôi và nhu cầu của tôi là của tôi. Tôi có quyền tự do lựa chọn, tôi chịu trách nhiệm về điều đó và đối phương cũng vậy.

Yếu tố thứ hai là thừa nhận rằng đối phương có quyền nói những gì họ muốn, cũng như bạn có quyền nói những gì mình muốn nói mà không bị giao động. Ở đây, sự quan tâm và tôn trọng quyền lợi của đối phương không có nghĩa là bạn phải thay đổi mọi thứ của bạn để phù hợp với họ.

Cũng không phải là việc đồng ý một cách vô điều kiện hoặc bị cuốn theo những suy nghĩ cho rằng đối phương là đúng, để rồi phải thay thế họ gánh vác cảm xúc và chịu trách nhiệm cùng họ.

Càng không phải là không thể từ chối hoặc chấp nhận tất cả các yêu cầu của họ. Trong trường hợp đó, bạn chỉ đang tôn trọng quyền lợi của đối phương mà quên mất đi quyền lợi của chính mình.

Đơn giản, bạn chỉ cần thừa nhận rằng đối phương cũng có suy nghĩ, cảm xúc, nhu cầu của riêng họ, họ cũng như quyền bày tỏ chúng ra bên ngoài, đây chính là bước khởi đầu trong giao tiếp lành mạnh. Giao tiếp lành mạnh không nhất thiết phải là đồng tình, thông cảm và giải quyết ngay lập tức.

Yếu tố quan trọng thứ ba chính là cần phải hiểu rõ việc giao tiếp không phải tính cách hay tài năng sẵn có mà đó là kỹ năng do con người tích lũy được. Cũng có nghĩa là khả năng giao tiếp lành mạnh không phải là khả năng bẩm sinh, chắc chắn sẽ có những lúc bạn không thể nói được điều mình muốn nói, để rồi cuối cùng phải hối hận. Điều này cũng giống như một vận động viên có thể mắc lỗi ngay cả khi họ đã luyện tập cùng một động tác hàng chục nghìn lần.

Hơn nữa, trong cuộc sống, có thể chúng ta sẽ gặp rất nhiều tình huống giống nhau, nhưng không phải lúc nào cũng xử lý theo một cách rập khuôn. Vấn đề giao tiếp cũng vậy, nó giống như một bài toán tìm cách giải mới nên không thể giải quyết chỉ bằng cách nhìn vào đáp án được.

Nói cách khác, vì đây là một quá trình không ngừng học hỏi và trau dồi thông qua việc thử nghiệm và mắc sai lầm nên bạn không cần phải quá khắt khe với bản thân nếu như bạn có lỡ mắc lỗi.

Và cho dù bạn có “tài năng” đi chăng nữa, nhưng nếu không trau dồi thì mãi mãi không thể phát triển được kỹ năng này, nếu chăm chỉ học hỏi và luyện tập thì ai cũng có thể tốt lên. Dù vậy thì không ai là không mắc sai lầm. Kỹ năng giao tiếp cũng không ngoại lệ.

Nguồn: https://znews.vn/bi-quyet-de-giao-tiep-lanh-manh-post1511519.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng