Connect with us

Sách hay

‘Khôi phục diện mạo văn học một thời’

Được phát hành

,

Nhiều tác phẩm nổi tiếng của nền văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX được độc giả trẻ đón nhận. Để có được bản in chất lượng, nhóm biên soạn đã mất nhiều công sức sưu tầm, đối chiếu.

Viet Nam danh tac anh 1

Bộ sách “Việt Nam danh tác” tập hợp nhiều tác phẩm nổi tiếng của nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Với mong muốn giúp độc giả trẻ tiếp cận các tác phẩm bày một cách trọn vẹn nhất, những ấn bản trong bộ sách “Việt Nam danh tác” sẽ được in theo bản in lần đầu. Vậy nên, việc tìm kiếm, sưu tầm và tuyển chọn bản in phù hợp không phải điều đơn giản.

Là người tham gia tuyển chọn và thực hiện một số tác phẩm trong bộ sách này, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đã có cuộc trò chuyện xung quanh những tác phẩm “vang bóng một thời” của nền văn học Việt Nam.

Mỗi lần in là một lần tác phẩm nảy sinh dị bản

– Theo ông, giá trị lớn nhất của bộ “Việt Nam danh tác” là gì?

– Theo tôi, chỗ được nhất của bộ sách “Việt Nam danh tác” là đem lại cho bạn đọc thế kỷ XXI một loạt tác phẩm được xem là hay nhất, khá nhất trong các thể truyện, ký, tiểu thuyết, thơ, xuất hiện vào những năm nửa đầu thế kỷ XX, một thời kỳ văn học sử mà công chúng quen gọi là “văn học tiền chiến”. Ở đây chỉ những tác phẩm ra đời trước Chiến tranh Thế giới thứ II (1939-1945).

– Vì sao các tác phẩm được sáng tác ở giai đoạn 1930-1945 lại xuất hiện nhiều dị bản?

– Việc cho rằng xuất hiện nhiều dị bản trong các tác phẩm văn học giai đoạn 1930-1945 còn lại đến nay, là nhận định sai. Các tác phẩm thời trước, như truyện thơ Nôm, Truyện Kiều, Thạch Sanh, Trê cóc, Nhị độ mai, các khúc ngâm như Chinh phụ, Cung oán… còn nhiều dị bản hơn gấp bội.

Các tác phẩm đó không chỉ có văn bản trên giấy, mà còn có các bản in khắc gỗ, lẫn chép tay; lưu truyền bằng việc đọc, nghe, học thuộc lòng rồi truyền miệng. Các tác phẩm Nôm thậm chí chỉ có “ngôn bản” chứ không có “văn bản”.

Có biết bao nhiêu dị bản, tức là những chỗ sai khác nhau về câu chữ? Phải nói là vô số! Chỉ xem những kê cứu “khảo dị” ở các cuốn biên khảo truyện Nôm, ta đã thấy tình trạng dị bản ở đó ra sao rồi. Đó chỉ là khảo tả trên các bản in, tức là có người ghi lại, chứ trên truyền miệng thì dị bản còn nhiều hơn nữa, không kể xiết!

Văn chương thời kỳ 1930-1945 đều là sách chữ quốc ngữ, in trên máy in. Một tác phẩm in một lần dù hàng nghìn bản thì văn bản vẫn chỉ có một, không hề có dị bản. Các tác phẩm, từ lúc xuất hiện, rồi được in đi in lại, qua các cửa kiểm duyệt, cấp phép, qua tay các chủ xuất bản, tất yếu nảy sinh dị bản, do hai loại tác nhân.

Một là ngẫu nhiên, những tác động không chủ ý của thợ sắp chữ, thợ sửa in…Hai là có chủ ý của tác giả, hay nhà xuất bản, hoặc kiểm duyệt. Có thể khái quát: Mỗi lần in là một lần ở tác phẩm nảy sinh dị bản! Thế nhưng dù sao, do chỉ gắn với sách báo in, các tác phẩm thời kỳ 1930-1945 cũng ít dị bản hơn so với truyện thơ Nôm.

Viet Nam danh tac anh 2

Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân. Ảnh: FBNV.

– Điều quan trọng nhất trong quá trình khảo cứu và biên soạn những tác phẩm như “Việt Nam danh tác” là gì?

– Điểm mấu chốt trong việc thực hiện các cuốn trong bộ “Việt Nam danh tác” là làm sao đưa tới bạn đọc những văn bản đáng tin cậy của mỗi tác phẩm.

Ban biên tập tủ sách này và những người cộng tác đều phải có hiểu biết sơ bộ lịch trình in và tái bản mỗi cuốn, phải tìm đến bản in lần đầu (hoặc bản in gần nhất với bản in lần đầu), rồi quyết định chọn sử dụng bản in nào đáng tin cậy nhất.

Tôi có cộng tác, đưa vào tủ sách này hai cuốn Giông tốSố đỏ của Vũ Trọng Phụng, văn bản do tôi hiệu chỉnh, từ những bản in báo và in sách lần đầu. Ở cả hai cuốn đó đều có những “dị bản” mà nếu không nhận rõ và xử sự hợp lý thì có thể sẽ gây ra những sai chệch đáng kể cả cho người nghiên cứu phê bình lẫn người thưởng thức.

Viet Nam danh tac anh 3

Các tác phẩm trong tủ sách “Việt Nam danh tác” nhận được sự quan tâm của nhiều độc giả trẻ. Ảnh: Nhã Nam

Khẳng định giá trị lâu bền của danh tác

– Ông nghĩ gì về việc thời nay phát hành lại danh tác xưa?

– Việc tủ sách “Việt Nam danh tác” ra đời và đến nay đã in và phát hành được trên 40 tác phẩm, đúng là một tín hiệu vui. Hiện nay ở Việt Nam, sách in đang là một thị trường phồn tạp, đa sắc.

Riêng ở mảng sách văn học, bên cạnh sáng tác mới của các nhà văn đương đại, sách dịch, những tác giả tác phẩm của quá khứ, xa và gần, đang có cơ bị lép vế, thậm chí bị lãng quên.

Thế nên cần có những dạng thức kích hoạt tích cực. “Việt Nam danh tác” là kiểu kích hoạt như thế! Ta hãy thoáng nhìn sang khu vực hội họa để thấy tranh của lớp họa sĩ “trường mỹ thuật Đông Dương” đang lên giá ra sao tại các cuộc đấu giá quốc tế.

Nhân thể, hãy nhớ rằng những tác phẩm hội họa kia là cùng thời, cùng khí hậu nghệ thuật với đa phần cuốn sách đã hoặc sẽ xuất hiện trong tủ “Việt Nam danh tác” này.

Khi mà những sản phẩm sáng tạo của người Việt thời những năm 1930-1945 đang đến lúc bộc lộ sự kết tinh của mình, những hoạt động của các đơn vị phát hành sách như cho ra đời tủ sách “Việt Nam danh tác”, có thể sẽ tác động vào quá trình tiếp nhận của độc giả.

Ngoài ra, nó còn góp phần khẳng định giá trị lâu bền của các tác phẩm này. Một số trong đó sẽ dần dần trở thành kinh điển, cổ điển, thành một phần không thể thiếu trong vốn liếng căn cốt của văn học Việt!

– Việc tìm đến các bản in lần đầu, hay chính là giá trị nguyên bản của tác phẩm, là việc làm cần thiết. Phải chăng cần có sự bắt tay giữa đơn vị phát hành và giới sưu tầm, nghiên cứu để làm được điều này?

– Có những tác phẩm như đã tìm được thông tin rồi, ví dụ thông tin cho thấy nó nằm ở kho lưu trữ nào đó, chỉ cần một số tấm vé máy bay, một số phòng khách sạn lưu trú cho chuyên gia mình đến sao chụp mang về… thì vẫn còn là chuyện đơn giản.

Hóa ra chuyện lại không phải thế! Có những thứ đã hoặc sẽ mất hẳn. Không biết rằng có thì cũng coi như mất hẳn. Đấy là những câu chuyện dài.

Tạm nói về một số tác phẩm văn chương Việt 1930-1945 được cho là thất lạc. Vấn đề chính là “phát hiện” ra rằng tác phẩm này khác đã thất lạc. Phải có người phát hiện, kêu lên, thông báo cho đồng nghiệp, cho công chúng, như thế mới kích hoạt việc tìm kiếm. Đôi khi sẽ thấy một vài tiếng reo “Ơ-rê-ca” rồi hóa ra lại cụt hứng, là vì vớ phải một ngụy tác, hoặc một lầm lẫn. Dù vậy, vẫn phải tìm, rồi còn thẩm định cái tìm được.

Chuyện giới xuất bản phát hành cần “bắt tay” với giới nghiên cứu sưu tầm thì dễ thôi, vì xuất bản luôn luôn khát nguồn bản thảo. Chủ yếu vẫn phải trông vào nghiên cứu, sưu tầm. Người ta chờ đợi ở các viện nghiên cứu như: Viện Hán Nôm, Viện Văn học, các khoa xã hội nhân văn của các đại học, chờ đợi giới chuyên nghiệp cũng như các tay chơi sách báo cũ.

Hiện nay ở nước ta sách in đang là một thị trường phồn tạp, đa sắc.

Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân

Có một thị trường sách báo, thị trường văn vật, cổ vật, sẽ dễ dàng hơn cho sự tái phát hiện. Cái bị thất lạc, có khi vẫn nằm đâu đó trong các tủ sách báo tư nhân.

Năm 2006 tìm thấy bản in sách Giông tố. Năm 2012 chỉ tìm thấy tập thơ Gái quê dưới dạng bản đánh máy lại (nghe nói là) theo đúng bản in 1936, chứ không phải đích thị bản in 1936.

Năm 2019, giữa mùa đại dịch Covid-19, giới chơi “sách xưa” lại tìm thấy bản in sách Số đỏ lần đầu (1938), nghe nói sách đã nằm đấy, trong tủ sách một tay chơi từ lâu rồi.

Có thể nói, hiện người ta cũng chưa biết hết những cuốn nào đang mất, đang cần tìm lại, trong vốn liếng tác phẩm văn học đã in thời kỳ 1930-1945. Chỉ khi biết cái gì đã mất mới có thể có mục tiêu kiếm tìm cụ thể. Chính thế, đi tìm những gì mất mát, cũng là một cách tìm lại diện mạo văn học một thời đã qua.

Nguồn: https://zingnews.vn/khoi-phuc-dien-mao-van-hoc-mot-thoi-post1176155.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng