Connect with us

Sách hay

‘Hoàng Lê nhất thống chí’ – tiếng cười trò hóa, hề hóa

Được phát hành

,

“Hoàng Lê nhất thống chí” viết bằng chữ Hán của nhóm tác giả Ngô gia văn phái là tác phẩm văn xuôi tự sự đầu tiên có quy mô như một bộ sử thi.

Những sự kiện quan trọng trong lịch sử Việt Nam từ cuối đời Lê Hiển Tông (1740-1786) đến đầu đời Gia Long (1802-1820) được ghi lại khá tỉ mỉ.

Không ghi chép lại một cách khô khan như một cuốn sử biên niên, các tác giả đã dựng lên những bức tranh sinh động, tạo được không khí và đi sâu vào bản chất lịch sử để nêu lên quá trình suy vong không gì cưỡng nổi của chính quyền phong kiến. Chất muối hài trào phúng góp phần đưa tác phẩm trở thành một trong những đỉnh cao của văn học trung đại.

Nhân vật tự mình đóng trò, dựng ra những màn trò để che mắt người khác hoặc che đậy bản chất thật của mình, tiêu biểu là vua Cảnh Hưng. Bị chúa Trịnh Sâm chèn ép mà chấp nhận an phận làm bù nhìn, khi bề tôi ta thán, ái ngại cho cảnh “Hoàng đế” bị mất thực quyền, chịu nhục thì vua mới bảo: “Các ngươi chỉ biết có một mà không biết hai, nhà vua đối với nhà chúa hiện nay đang vào ở cái thế bị ngờ vực nếu trẫm lấy việc mất quyền làm tức giận thì nhà chúa ắt ngầm tính chuyện chẳng hay. Vì vậy, trẫm phải mượn hứng vui chơi như thường để tránh tai vạ đó thôi”. Thì ra vua này “khôn” chứ cũng chẳng đến nỗi dại. Vua đóng trò để che mắt nhà chúa!

Nhưng đóng trò giỏi nhất là Đặng Thị Huệ. Mở đầu tác phẩm, người đọc đã thấy một cảnh tượng hài hước diễn ra ngay trong phủ Chúa. Nàng Thị Huệ “giận dỗi”, “nũng nịu” Trịnh Sâm. Một nét “xây xẩm” của nàng cũng khiến Chúa rối lòng. Một hành động ném viên ngọc xuống đất của thị cũng làm Chúa “phải tìm nhiều cách dỗ dành cho ả vui lòng”.

Một vị tướng tài ba đã lập bao nhiêu công trạng, được coi “là người cứng rắn, thông minh, quyết đoán sáng suốt, trí tuệ hơn người, có đủ tài về văn lẫn võ”, thế mà vẫn bị một ả xuất thân bần tiện đóng trò lừa dối để biến thành một vị quân vương mê muội chốn phòng the. Thị Huệ cũng chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến kết cục thảm bại của triều đình chúa Trịnh.

Hoang Le nhat thong chi anh 1

Tác phẩm trên nền cảnh thời vua Lê chúa Trịnh!

Hành động đóng trò của nhân vật này vừa lật tẩy con người thực của Chúa, vừa làm rõ cái gian manh ghê gớm của kẻ “đàn bà dễ có mấy tay”. Không ngẫu nhiên chi tiết này được đặt ở phần mở đầu, như muốn nói nhà Chúa “dột từ nóc”, từ trong cung cấm, từ chốn buồng the của Chúa.

Một màn trò hài hước mà đậm chất bi là sự gặp gỡ đầy nghịch cảnh của ba người Thị Huệ, Thánh Mẫu và Trịnh Sâm. Hai người đàn bà đóng trò diễn kịch còn Trịnh Sâm là nạn nhân đáng thương. Hai người, một là mẹ, một là vợ, đóng trò trước người con, người chồng sắp chết. Họ đều tỏ ra thương Chúa sắp băng hà nhưng thực chất là “thương” cái ngôi chúa.

Trước đó, mâu thuẫn giữa Trịnh Sâm và Thánh Mẫu cũng xuất phát từ cái ngôi chúa ấy. Thánh Mẫu bênh vực và muốn Trịnh Tông lên ngôi xuất phát từ cái lý và cái tình của người đàn bà, cũng là cái lý, cái tình của một người chủ gia đình truyền thống muốn lịch sử đi đúng theo “con đường ray” đạo lý là con trưởng nối ngôi. Bà chẳng ưa Thị Huệ cũng là tất nhiên, chỉ vì Chúa mê ả, nghe theo ả mà mọi chuyện trong phủ rối tinh cả lên.

Giây phút lâm chung của Trịnh Sâm là một bi hài kịch, mỗi người đeo đuổi một tâm trạng riêng. Trịnh Sâm khóc, xúc động vì ngỡ mẹ, vợ xót xa đau khổ vì mình. Ông ta còn lo sợ hai người thân yêu nhất vì quá đau đớn mà làm chuyện dại dột. Hết dặn mẹ lại quay ra dặn vợ, đừng quá đau lòng, đừng quá xót thương…!!!

Chúa đâu biết Thánh Mẫu khóc thương con thì ít mà lo nghĩ về ngôi Thế tử thì nhiều nên cứ dùng dằng không ra ngoài. Tất cả cử chỉ “nức nở, sụt sùi, ngập ngừng” kia đều là giả dối. Còn vợ thì khóc lóc, lại còn diễn trò cắt tóc thề, đòi chết theo chồng nhưng thực chất chỉ vì “tờ cố mệnh” tức tờ sắc phong Tuyên phi chưa xong. Mà có trở thành Tuyên phi thì ngôi chúa mới chắc vào tay con thị – Trịnh Cán. Có vậy thị mới thành Thánh Mẫu!

Đáng thương cho Trịnh Sâm đến chết vẫn cô đơn, đến chết vẫn bị lừa dối. Trong vở kịch ấy, chỉ có ông ta là nói và nghĩ thực lòng mình. Còn hai người kia chỉ là “nước mắt cá sấu”.

Với một hài kịch thường là có kẻ thua người thắng, người phải người trái, người mất kẻ được. Ở đây cả hai mẹ con Trịnh Sâm đều thua Đặng Thị Huệ, kẻ đóng trò giỏi hơn, ma mãnh hơn. Thị khóc để đóng trò, bên ngoài ả khóc mà bên trong thì hả hê. Thánh Mẫu đành chịu rút lui trong đau khổ, phẫn uất, tức tưởi. Đau khổ vì đứa con đã chết. Phẫn uất vì căm thù Thị Huệ. Tức tưởi vì ngôi chúa mất vào tay Trịnh Cán.

Nếu trò hoá thì nhân vật chủ động đóng trò nên mang tính chủ quan còn hề hoá là do khách quan bên ngoài phát hiện ra tính chất xấu xí mà có khi nhân vật không biết.

Hành động “mờ ám” của Quận Huy với Thị Huệ là một trò hề: “Trăm quan ít sáng nhiều mờ / Để cho Huy Quận vào sờ chính cung”. Nhưng bị hề hóa đến cao độ phải là nhân vật Lý Trần Quán. Ông ta đại diện cho kiểu nhân vật trung thành tuyệt đối với quan niệm tôn phù nhà Lê.

Hành động tự chôn mình để bảo toàn “khí tiết” của kẻ nho sĩ, tiếc rằng, vì là “ngu trung” nên trở thành trò cười cho thiên hạ. Những câu nói tưởng là biểu hiện của niềm trung hiếu trở thành hài hước, ngô nghê, đáng thương. Đúng là cười ra nước mắt: “Hãy còn thiếu một câu nữa, phải nói hết cái đã”,“Phiền ông đem câu ấy dặn lại con ta, bảo nó sau này dán ở nhà thờ mà thờ ta”…

Cảnh chúa nhỏ Trịnh Cán lên ngôi cũng được miêu tả theo nguyên tắc “hề hoá”. Thế tử được Quận Diễm “bế” lên ngôi chúa, rồi lại được “bế” vào cung để lạy Thánh Mẫu. Sau đó, mọi người lại nhanh chóng thay triều phục, mặc áo trở để làm lễ phát tang chúa bố. Một màn “lên ngôi” vội vã, lạ đời, một đứa trẻ mới năm sáu tuổi, lại sài đẹn, “rốn lồi cả gang” nay được lên chức “Chúa” mà chính “Chúa” cũng chẳng biết đó là chức gì, càng chưa biết phải làm gì.

Màn kịch hề hoá đáng xem, đáng cười nhất là màn Trịnh Tông lên ngôi chúa. Nhưng trước đó là những sự chuẩn bị mang tính “đạo cụ” cũng hài hước không kém. “Lãnh đạo” đội kiêu binh là viên Biện lại đội Tiệp Bảo tên Bằng Vũ được giới thiệu: “Gã người thấp bé, thanh nhã như dáng học trò. Sau khi vào đội Tiệp Bảo, nhờ biết dăm ba chữ, gã được làm chân Biện lại. Ở kinh, gã thường làm mướn đơn kiện cho người ta, vẫn lừng tiếng là tay điêu toa trong việc xui nguyên giục bị”.

Điều này đã cho thấy bản chất của kẻ không tử tế. Đến khi cái giọng của hắn được miêu tả là “sỗ sàng” thì rõ một kiểu lưu manh: “Chỉ sợ anh em không cùng một bụng thôi. Chứ nếu ba quân đồng lòng, thì bất quá chỉ thừa dịp cúng cơm sáng xong, đánh một hồi trống trong phủ làm hiệu, rồi kéo ùa cả vào, nắm cẳng hắn, vứt chỏng gọng xuống dưới thềm một cái là xong thôi mà!”. Đấy là lời Bằng Vũ bàn với đám kiêu binh, nhờ lời này mà hắn được tôn làm “thủ lĩnh”.

Một cuộc đảo chính bát nháo, vô chính phủ, tự phát, hỗn loạn, ô hợp được thể hiện qua nhiều chi tiết mỉa mai đắt giá. Mưu đồ cuộc binh biến thay “chính phủ” mà lại được bắt đầu từ một anh đầu bếp có tên Dự Vũ, tiếp đến là một gia thần của Trịnh Tông có tên Gia Thọ.

Cuộc họp của “Bộ chỉ huy” bắt đầu là “một cuộc đánh chén”, Trịnh Tông “mời bọn biện lại trong đám thân quân đánh chén”. Cuộc binh biến “nổi dậy” này như một màn trò, đám kiêu binh là những kẻ làm trò, còn Trịnh Tông là anh hề, không hơn!

Cảnh Trịnh Tông lên ngôi chúa, một màn tấn phong cũng là một màn hài kịch: “Họ kiệu thế tử lên vai, rồi đứng xúm chung quanh gào lên vui sướng”.

“Trong lúc gấp vội không có kỷ sập, phải dùng tạm chiếc mâm vẫn bày cỗ lộc làm ghế, đặt thế tử ngồi lên, rồi tám người kề vai vào khiêng. Chốc chốc họ lại nâng bổng chiếc mâm lên đầu mà đội, đầu mỏi lại hạ xuống vai, rồi vai mỏi lại nâng lên đầu. Những kẻ buôn bán ở các phố phường đều tranh nhau kéo đến xem chúa, sân phủ đông như họp chợ”.

Chúa mới bị hạ thấp theo kiểu vật hoá một cách triệt để. Chúa được đặt lên chiếc mâm vốn để bày cỗ lộc thì khác gì coi Chúa cũng chỉ là thứ “lộc” hoa quả hay rượu thịt. Lối so sánh càng làm rõ tính chất vật hoá “giống y như người ta giỡn quả cầu hoặc rước pho tượng Phật”. Người ta kéo đến“xem Chúa”, đông đến mức “sân phủ chúa đông như họp chợ”, thì khác gì coi Chúa chỉ như hàng hoá ngoài chợ vậy!

Nguồn: https://zingnews.vn/hoang-le-nhat-thong-chi-tieng-cuoi-tro-hoa-he-hoa-post1158629.html

Sách hay

Nghệ thuật tranh kiếng trong ‘Nhà gia tiên’

Được phát hành

,

Bởi

Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, nghệ thuật tranh kiếng gắn liền với văn hóa thờ tự và nhiều khía cạnh khác trong đời sống và sinh hoạt của nhiều gia đình Nam bộ.

Phim điện ảnh Nhà gia tiên do Huỳnh Lập đạo diễn gần cán mốc 200 tỷ, gây sốt phòng vé thời gian qua tuy nội dung còn gây tranh cãi song được đánh giá cao ở phần tái dựng bối cảnh. Trong đó, chi tiết nhân vật chính Mỹ Tiên (Phương Mỹ Chi) được ông mình, một người coi sóc đền miếu (nghệ sĩ Trung Dân đóng) kể về nghệ thuật làm tranh kiếng để lại ấn tượng.

Để tái hiện nghệ thuật dân gian này trên màn ảnh rộng, đoàn phim đã mời một nghệ nhân từ Long An thực hiện các tác phẩm tranh kiếng, cũng như đến làng nghề Bà Vệ (An Giang) tìm kiếm, phục chế những bức tranh cũ mục nát, bị vứt bỏ.

Chia sẻ với Tri Thức – Znews, Thạc sĩ Văn hóa học, nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tác giả cuốn sách Tranh dân gian Nam Bộ cho rằng việc tranh kiếng xuất hiện trong phim là một yếu tố không quá bất ngờ. “Bộ phim kể về câu chuyện diễn ra trong một không gian truyền thống với những nội dung phong hóa xưa… mà tranh kiếng là loại công nghệ phẩm ‘trang trí’ không chỉ ở những không gian thờ tự mà cả các không gian sinh hoạt trong nhiều gia đình Nam Bộ”, bà nói.

Sự ra đời và phát triển của tranh kiếng Nam Bộ

Theo nhà nghiên cứu, tranh kiếng có mặt ở cung đình Huế từ thời Minh Mạng – Thiệu Trị, song đó là các sản phẩm mỹ nghệ nhập khẩu. Mãi đầu thế kỷ XX, các di dân Quảng Đông đến lập nghiệp ở vùng Chợ Lớn, mới bắt đầu mở các tiệm kiếng, buôn bán các loại kiếng tráng thủy để soi mặt, lộng khuôn hình, tủ, khung cửa chớp, cửa gió… và các loại tranh kiếng: các bức đại tự và các bức thư họa dùng trong việc khánh chúc tân gia, khai trương, mừng thọ… Tranh kiếng Nam bộ ra đời từ đây.

Đến những năm 1920, nghề vẽ tranh kiếng chuyển địa bàn về Lái Thiêu (Thủ Dầu Một). Sau đó, khoảng những năm 1940-1950, nghề làm tranh kiếng lan tỏa khắp lục tỉnh Nam Kỳ, trụ lại ở Mỹ Tho, Cai Lậy, Gò Công (Tiền Giang ngày nay), Chợ Mới (An Giang), Chợ Trạm (Long An), Tây Ninh… và thâm nhập vào cộng đồng Khmer tạo nên dòng tranh kiếng Khmer Nam bộ ở Trà Vinh và Sóc Trăng…

Tranh kiếng Nam bộ chiếm tỷ lệ lớn là tranh thờ: Trước nhất là tranh thờ Tổ tiên với loại tranh Đại tự, Cửu huyền thất tổ, Sơn thủy (biểu đạt ý nghĩa hiếu đạo của câu ca dao nổi tiếng: Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra), Lão mai (nhằm biểu ý “Cây có cội”), Tre tàn măng mọc (động viên nỗ lực vươn lên của thế hệ hậu bối). Đặc biệt là tranh chân dung của tổ tiên quá vãng.

Thứ hai là tranh thờ các đối tượng thuộc tín ngưỡng dân gian như tranh Ông Địa, Ông Táo, các thần độ mạng… Thứ ba là tranh thờ của các tôn giáo: tranh thờ của Phật giáo như Phật, Bồ Tát, Tổ sư…; tranh thờ của Đạo giáo như Lão Tử cưỡi trâu, Bát Tiên…, tranh thờ của tín đồ Công giáo; tranh “Thiên nhãn” của đạo Cao Đài… Riêng tranh thờ của cộng đồng Khmer Nam bộ cũng như của cộng đồng người Hoa tạo thành một dòng độc đáo có đặc trưng về đề tài cũng như kỹ pháp tạo hình.

Ngoài ra, tranh kiếng trang trí nội ngoại thất, tranh khánh chúc và đặc biệt là loại tranh trang trí xe bán mì, hủ tíu.

“Tranh kiếng là loại tranh vẽ ngược và tô vẽ ở phía sau mặt kiếng, nên tinh hoa nhất trong nghệ thuật này là tài năng vẽ tranh, vờn màu, sắp xếp bố cục chính phụ sao cho có được một bức tranh đúng với mục đích sử dụng của nó và đẹp mắt về mặt mỹ thuật”, tác giả Huỳnh Thanh Bình chia sẻ. Thách thức lớn nhất của người nghệ nhân tranh kiếng là phải tạo nên những mẫu tranh đáp ứng được đa dạng yêu cầu về đề tài, về chủng loại; và cần sở đắc một vốn liếng chữ Hán để thể hiện thành những câu đối, những đại tự, những tấm hoành, tấm biển tương thích cho từng nội dung tranh.

Ở Nam bộ, hầu như tranh kiếng có mặt ở mọi gia đình, thậm chí nơi đình, đền, chùa, miếu. Việc sử dụng tranh kiếng cho nhu cầu thờ tự, trang trí hoặc chúc tụng… đã trở thành tập quán. Chính vì vậy, tranh kiếng chiếm một vị trí quan trọng trong văn hóa vùng đất này.

Nghệ thuật gắn liền với văn hóa thờ tự

Thờ tự tổ tiên là tập tục quan trọng trong đời sống văn hóa của xứ ta. Nơi thờ tự tổ tiên theo truyền thống là không gian tâm linh chiếm vị trí trung tâm trong mỗi ngôi nhà. Theo đó, việc trang nghiêm nơi thờ tự tổ tiên luôn được coi trọng. Theo tác giả sách Tranh dân gian Nam Bộ, từ cuối thế kỷ 19 đến nay, theo sự phát triển của tranh kiếng, các bộ tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng ra đời và dần dần thay thế loại tranh thờ tổ tiên ở dạng bích họa hoặc tranh thờ cẩn ốc xà cừ hay các bức chạm gỗ sơn son thiếp vàng hay sơn then thiếp vàng.

“Từ bấy đến nay, tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng đã không ngừng canh cải, tạo tác nên nhiều loại khác nhau”, bà Huỳnh Thanh Bình cho hay. Có loại chỉ là những bức đại tự, có loại chỉ là “bài vị” với dòng chữ Cửu Huyền thất tổ, đặc biệt là những bộ tranh vẽ cảnh sơn thủy hoặc có loại phát triển từ bộ tranh Tứ thời Mai-Lan-Cúc-Trúc

nha gia tien anh 4

Nhà nghiên cứu, tác giả Huỳnh Thanh Bình với tác phẩm Tranh dân gian Nam Bộ. Ảnh: Quỳnh My.

Cửu huyền thất tổ – bức tranh kiếng đầu tiên xuất hiện trong Nhà gia tiên – là một kiểu loại của bộ tranh thờ tổ tiên thuộc loại tranh đại tự, với dòng chữ “Cửu Huyền thất tổ”. Loại tranh này phổ biến ở miền Tây Nam Bộ, đặc biệt là các cộng đồng theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo và cả cộng đồng tín đồ đạo Cao Đài Tây Ninh.

Ở loại tranh này thì mỗi bộ gồm năm tấm ghép lại: Tấm biển nằm trên cùng, ghi tên tộc họ: “Nguyễn phủ đường”, “Lê phủ đường”…, hay “Đức lưu phương” hoặc “Phước Lộc Thọ”. Bức chính nằm giữa tranh, ghi bốn chữ Cửu huyền thất tổ và được trang trí bằng đồ hình tứ linh.

Bao quanh tấm tranh chính là bốn tấm tranh khác: bức thượng thổ ở phía trên (vẽ hình cuốn thư, hay năm sản xuất); bức hạ thổ ghép dưới đáy (thường trang trí hoa-điểu hay mâm ngũ quả) và đôi liễn, đặt dọc hai bên tấm chính, nội dung tôn vinh công đức của cha mẹ, tổ tiên.

Ngoài ra còn có bộ tranh thờ tổ tiên ba bức hay giản tiện hơn, loại tranh kiếng thờ tổ tiên này được thu gọn thành một bức duy nhất, đơn giản với chữ “Cửu Huyền Thất Tổ” ở chính giữa; hai bên là hai câu đối:

“Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,

Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu”.

Hay “Kính cửu huyền thiên niên bất tận

Trọng thất tổ nội ngoại tương đồng”.

Loại tranh thờ Cửu huyền thất tổ còn thấy trong bộ ba bức chín tròng với bức chính ở giữa từng chữ Cửu huyền thất tổ được thể hiện trong những ô tròn ở cả dạng thức Hán tự lẫn quốc ngữ trên nền sơn thủy hay dọc theo cội lão mai…

Ngày nay, tranh kiếng bị các loại tranh công nghiệp cạnh tranh. Song theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tranh kiếng vẽ thủ công vẫn được công chúng hâm mộ. Đây đó, nghề vẽ tranh kiếng vẫn còn tồn tại; thậm chí có nơi phát triển có quy mô hơn trước, và tiếp thu các kỹ thuật in lụa, in 3D…

Tác giả Huỳnh Thanh Bình sinh năm 1985, hiện công tác tại Bảo tàng TP.HCM. Bà từng xuất bản một số tác phẩm như Tranh kiếng Nam Bộ (2013); Biểu tượng thần thoại về chư thiên và linh vật Phật giáo (2018, Tái bản 2024); Tranh tường Khmer Nam Bộ (2020); Quy pháp đồ tượng Hindu và Phật giáo Ấn Độ (2021); Tranh dân gian Nam Bộ (2024).

Nguồn: https://znews.vn/nghe-thuat-tranh-kieng-trong-nha-gia-tien-post1535551.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzeimer

Được phát hành

,

Bởi

“Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzheimer” của Tiến sĩ Y khoa Richard Restak là một tác phẩm toàn diện, khám phá cách trí nhớ hoạt động và cách tối ưu hóa khả năng ghi nhớ.

Phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ.

Những lo lắng về trí nhớ phổ biến đến mức nào?

Có nhiều lý do để quan tâm đến trí nhớ của bạn. Hãy xem xét những điều này: phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ. Nói ngắn gọn, trí nhớ chính là chìa khóa cho việc tăng cường trí não.

Ở Mỹ ngày nay, tất cả những người trên 50 tuổi đều đang sống trong nỗi sợ hãi mang tên Big A – bệnh Alzheimer. Các cuộc gặp gỡ nho nhỏ (bữa tối, tiệc cocktail, v.v.) mang bầu không khí như một phân đoạn từ chương trình đố vui hằng tuần “Chờ đã… Đừng nói là” của đài NPR. Đó là chương trình mà các khách mời sẽ ganh đua với nhau trong những cuộc thi căng thẳng để trở thành người đầu tiên nghĩ ra tên của những thứ như diễn viên đóng một vai nào đó trong loạt phim truyền hình ngắn mới nhất mà mọi người đang say mê theo dõi.

Gần như chắc chắn là ai đó sẽ lấy điện thoại di động ra để kiểm tra độ chính xác của người trả lời đầu tiên. Nhanh, nhanh hơn nữa, nhanh nhất kẻo người khác nghi ngờ bạn đang có những triệu chứng ban đầu của Big A.

Tri nho anh 1

Trí nhớ là một phần vô cùng quan trọng của con người. Ảnh: Nativespeaker.

Mặc dù bệnh Alzheimer không phổ biến như nhiều người vẫn lo sợ, nhưng người ta đang ngày càng bày tỏ lo lắng về chứng mất trí nhớ mà họ cảm nhận được với bạn bè của mình. Chúng cũng là những lời than thở phổ biến nhất mà những người trên 55 tuổi chia sẻ với bác sĩ của họ.

Những lo lắng về trí nhớ như vậy thường phi lý và khơi dậy sự lo lắng không cần thiết. Sự lo lắng phổ biến này đã góp phần tạo ra một mối quan ngại rộng rãi về trí nhớ và các dấu hiệu suy giảm trí nhớ. Một trong những lý do của sự hoảng loạn này là sự nhầm lẫn trong tư duy của nhiều người về cách chúng ta hình thành ký ức.

Hãy cố gắng nhớ lại một chuyện gì đó đã xảy ra với bạn vào đầu ngày hôm nay. Nó không nhất thiết phải là một chuyện đặc biệt – bất kỳ sự kiện thông thường nào cũng được. Giờ hãy xem ký ức đó đã hình thành như thế nào.

Theo yêu cầu của tôi, bạn đã truy xuất ký ức về một chuyện gì đó mà có lẽ bạn sẽ không nghĩ tới nếu tôi không thúc giục bạn nhớ lại nó và bạn không nỗ lực để truy xuất nó.

Về bản chất, trí nhớ là trải nghiệm lại một chuyện gì đó trong quá khứ dưới dạng một hồi ức. Về mặt hoạt động, ký ức là sản phẩm cuối cùng của những nỗ lực của chúng ta trong hiện tại nhằm truy xuất những thông tin được lưu trữ trong não mình.

Ký ức – tương tự những giấc mơ và hành động tưởng tượng – khác nhau tùy theo mỗi người. Ký ức của tôi khác biệt rõ rệt với ký ức của bạn vì chúng dựa trên trải nghiệm sống cá nhân của chúng ta.

Ký ức cũng khác với hình ảnh hoặc video về các sự kiện trong quá khứ. Mặc dù các phiên bản dựa trên công nghệ này của quá khứ có thể đóng vai trò là công cụ kích thích trí nhớ, nhưng bản thân chúng không phải là ký ức.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-ban-nen-quan-tam-den-tri-nho-cua-minh-post1535566.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Vương miện xanh

Được phát hành

,

Bởi

Tập sách là hành trình từ hậu trường sân khấu các cuộc thi người đẹp, nơi người thắng cuộc được yêu quý nhưng cũng hứng chịu các phán xét khắt khe của công chúng, đến các dự án xanh của Hoa hậu Môi trường Thế giới Nguyễn Thanh Hà.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất.

Năm 2022, tôi bước lên bục cao sân khấu Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh đăng quang Hoa hậu Môi trường Việt Nam.

Năm 2023, tôi tiếp tục trở thành người Việt Nam đầu tiên chinh phục vương miện Miss Eco International 2023 (Hoa hậu Môi trường Thế giới) tại Cairo, Ai Cập giữa những phấn khích và xúc động.

Chiếc vương miện đã thay đổi tôi. Từ một cô bé vô tư trong chiếc “tổ kén” gia đình nuôi dưỡng gần 20 năm qua, nay tôi bước ra thế giới rộng lớn và choáng ngợp với những điều không thể ngờ đến. Thế giới đã “dạy” tôi lớn lên, trước những vô lo, niềm vui, nỗi buồn, cảm xúc của tuổi vừa rời ghế nhà trường.

Nhiệm kỳ hoa hậu của tôi đã kết thúc, nhưng tôi vẫn tiếp tục sứ mệnh trên con đường đã chọn, đó là tình yêu, là trái tim, là thanh xuân, là giá trị sống.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất. Thế giới đó, có gì ở lại cùng tôi? Có gì đã khiến tôi dũng cảm đi tiếp trong khoảng thời gian đầy khó khăn đó?

Hoa hau anh 1

Hoa hậu môi trường thế giới 2023 Nguyễn Thanh Hà. Ảnh: Vietnam.vn.

Một mình trên sân khấu

Ngay khi vừa đạt cột mốc “đủ tuổi”, tôi lập tức đăng ký cuộc thi Hoa hậu Môi trường Việt Nam. Lúc ấy, tôi chỉ nghĩ rằng, phải thực hiện ước mơ của mình ngay khi có cơ hội. Ước mơ làm hoa hậu? Không hẳn! Đó là ước mơ được làm gì đó, thật cụ thể, thật thiết thực cho môi trường sống này, cho hành tinh này.

Nếu trở thành hoa hậu, tôi sẽ có ưu thế hơn, có thể xuất hiện trước nhiều người để bày tỏ những vấn đề về môi trường, đánh động sự quan tâm của nhiều người hơn. Nghĩ là làm, thật may mắn, tôi đã thành công và đăng quang khi lần đầu thử sức ở một đấu trường sắc đẹp mà mục tiêu không phải để trở thành người đẹp được ca ngợi hay được công nhận về nhan sắc. Tôi chỉ muốn nhắm tới sứ mệnh vì môi trường như chính danh hiệu mà cuộc thi đã trao.

Tôi bỗng nhớ đến câu nói trong Nhà Giả Kim: “Khi bạn thực sự mong muốn một điều gì, cả vũ trụ sẽ hợp lại giúp bạn đạt được nó”. Phải chăng, tôi thành công vì tôi khao khát điều đó mãnh liệt?

Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã nhiều lần tự đặt câu hỏi cho bản thân: Là một người trẻ lớn lên trong điều kiện sống đầy đủ, được ăn ngon mặc đẹp và có nhiều cơ hội học tập hơn thế hệ ông bà, ba mẹ ngày xưa, liệu tôi có thể làm ngơ trước những mối đe dọa đang rình rập môi trường sống của chúng ta như rác thải, ô nhiễm, hạn mặn, lũ lụt, phá rừng hay hiệu ứng nhà kính không? Chính vì vậy, tôi đã quyết định tham gia cuộc thi Hoa hậu Môi trường. Hai chữ “môi trường” trong danh hiệu chính là nguồn sức mạnh và động lực để tôi hành động.

Ban đầu, tôi cũng mang trong mình rất nhiều lo ngại: Liệu mình có đủ khả năng không? Liệu có thể vượt qua những thí sinh tài năng khác? Tuy nhiên, tôi nhận ra, niềm khao khát mạnh mẽ muốn thử thách bản thân và tìm kiếm những cơ hội mới để trưởng thành còn lớn hơn. Điều thôi thúc tôi tham gia không chỉ là mong muốn thể hiện bản thân, mà còn ở khát khao được lan tỏa những giá trị tích cực về bảo vệ môi trường đến cộng đồng.

Nguồn: https://znews.vn/chiec-vuong-mien-thay-doi-cuoc-doi-hoa-hau-moi-truong-the-gioi-post1535563.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng