Connect with us

Sách hay

Con đường Do Thái

Được phát hành

,

Cung cấp một khối dữ liệu khổng lồ, Paul Johnson cho thấy nguồn gốc và cuộc hành trình đầy sóng gió để tồn tại, duy trì bản sắc của dân tộc Do Thái.

Lịch sử Do Thái (History of Jews) là một cuốn sách đồ sộ của tác giả Paul Johnson dành riêng cho một chủ đề thú vị của lịch sử loài người: nguồn gốc và cuộc hành trình đầy sóng gió để tồn tại, duy trì bản sắc của dân tộc Do Thái, một dân tộc có số lượng cá thể ít ỏi tính trên tổng dân số thế giới song lại có ảnh hưởng lớn và dấu ấn đậm nét lên tiến trình lịch sử, một ảnh hưởng mà sức nặng của nó vẫn hiện hữu rõ rệt trong thế giới đương đại.

Cung cấp tới người đọc một khối dữ liệu khổng lồ về một chủ đề cũng đồ sộ không kém, Paul Johnson chia Lịch sử Do Thái thành năm phần.

Hai phần đầu điểm lại cội nguồn của dân tộc Do Thái từ những bằng chứng, chi tiết nằm rải rác trong các tư liệu cổ với độ xác tín khác nhau còn lưu lại tới ngày nay, cũng như sự hình thành và những nguyên lý cơ bản của Do Thái giáo, mối liên hệ mạnh mẽ, bền chắc đã giúp người Do Thái duy trì sự đoàn kết trong dân tộc cũng như bảo tồn được các giá trị truyền thống cốt lõi của họ qua thử thách của thời gian.

Phần ba và phần bốn của cuốn sách là phần lịch sử lang bạt của người Do Thái khi họ lang bạt khắp thế giới, cũng như phương thức tổ chức của họ để duy trì sự tồn tại của cộng đồng dân tộc mình, đồng thời cũng thích ứng và tạo dựng chỗ đứng trong các xã hội sở tại. Ba phần cuối của cuốn sách, từ phần năm tới phần bảy, là câu chuyện về chủ nghĩa phục quốc và sự ra đời của nhà nước Do Thái hiện đại.

Advertisement

Trong phần một “Người Do Thái”, Paul Johnson giới thiệu với độc giả nguồn gốc của dân tộc Do Thái như chúng ta biết từ các nguồn tư liệu văn tự và khảo cổ.

Dựa trên Kinh Thánh, đặc biệt là phần Cựu Ước, kết hợp đối chiếu với các nghiên cứu lịch sử, khảo cổ của vùng Trung Cận Đông, tác giả đã lần ngược lại nguồn gốc của các tổ phụ Do Thái bắt đầu từ Abraham cho tới Moses, một nhân vật có tầm ảnh hưởng đặc biệt quan trọng với dân tộc Do Thái, người theo Kinh Cựu Ước đã dẫn dắt dân Do Thái rời bỏ Ai Cập tới miền đất hứa, nơi sau này Solomon đã dựng nên Ngôi đền thứ nhất để thờ phụng Chúa.

Paul Johnson vừa dẫn dắt người đọc theo niên biểu của Cựu Ước vừa lý giải ý nghĩa sâu xa của những câu chuyện được thuật lại trong đó, vừa kết nối những chi tiết này với những mốc niên đại đã được xác lập từ các bằng chứng khảo cổ, nghiên cứu khoa học để dẫn độc giả qua giai đoạn lịch sử Cổ Đại đã hình thành nên người Do Thái về mặt dân tộc, phong tục, tôn giáo, đồng thời cũng chứng kiến lần đầu tiên tộc người này coi một vùng đất – miền Đất Hứa – làm nơi định cư, nơi họ thuộc về, và cũng là nơi họ xây dựng vương quốc Do Thái đầu tiên dưới hai vị vua David và Solomon.

Tiếp theo là sự xung đột nội bộ trong cộng đồng Do Thái dẫn tới sự tan rã nhanh chóng của vương quốc này, kết thúc là cuộc tấn công Jerusalem của người Babylon, người Do Thái lại rơi vào kiếp lưu đày, còn Ngôi đền thứ nhất bị phá hủy.

Phần hai “Do Thái giáo” là câu chuyện của dân tộc Do Thái kể từ thời kỳ Tha hương tại Babylon trong khoảng nửa thế kỷ vào thế kỷ VI TCN, cuộc trở về Jerusalem và Đất Hứa nhờ sự khoan dung của Cyrus, quá trình hình thành tân chính thống Do Thái, tôn giáo sẽ chi phối đời sống tinh thần của người Do Thái từ đó về sau.

Advertisement

Quan trọng hơn, Do Thái giáo cũng là độc thần giáo đầu tiên trong lịch sử loài người. Triết lý tôn giáo khác biệt hẳn so với các đa thần giáo cổ xưa đã giúp Do Thái giáo có nền tảng bền vững hơn, thuyết phục hơn. Nhờ vậy, Do Thái giáo còn trở thành nguồn cảm hứng cho việc hình thành hai độc thần giáo phổ biến nhất trên thế giới hiện nay là Ki tô giáo và Hồi giáo.

Trong đó, sự hình thành Ki tô giáo và xung đột của tôn giáo này với Do Thái giáo cũng để lại nhiều hệ lụy cho người Do Thái tới tận ngày nay, trong đó có tinh thần bài Do Thái. Bên cạnh đó là câu chuyện về quá trình hình thành Cựu Ước như chúng ta thấy ngày nay cùng hệ thống kinh điển, giáo luật của Do Thái giáo cũng như ảnh hưởng của tư tưởng tôn giáo lên nhân sinh quan, thế giới quan cũng như văn chương Do Thái cổ đại.

Đây cũng là thời kỳ người Do Thái liên tục va chạm với các thế lực khác thống trị họ, từ người Ba Tư tới người Hy Lạp, người Roma, kết cục là một cuộc tha hương nữa sau khi Jerusalem thất thủ trong cuộc nổi dậy của người Do Thái chống lại Roma hồi thế kỷ I.

Phần ba “Chế độ giáo sĩ trị” và phần bốn “Ghetto” tiếp nối cuộc hành trình của dân tộc Do Thái khi họ không còn quốc gia độc lập của mình, phải học cách trở thành một phần dân cư của đế chế Roma, rồi sau đó là của thế giới Ki tô giáo và thế giới Hồi giáo.

Do Thái giáo và tầng lớp giáo sĩ của nó đóng vai trò quan trọng để gắn kết cộng đồng và bảo vệ các giá trị truyền thống cũng như danh tính riêng biệt của dân tộc này.

Advertisement

Với tinh thần đề cao học tập, luôn luôn học tập để thích ứng, người Do Thái luôn biết cách tận dụng các đặc tính của các xã hội nơi họ sống để tạo lập chỗ đứng với các vai trò quan trọng như thương nhân, bác sĩ, học giả, thậm chí chen chân cả vào hệ thống chính trị. Song sự bướng bỉnh không khuất phục tôn giáo chiếm vai trò chủ đạo trong xã hội họ sống (Ki tô giáo hay Hồi giáo), người Do Thái luôn phải chấp nhận sự cư xử bất công của phong trào bài Do Thái, phải sẵn sàng đón nhận lệnh trục xuất khỏi bất cứ thành phố, vương quốc nào do bất cứ lý do nào.

Kết quả của xu thế này là việc cô lập người Do Thái vào những khu vực riêng biệt (các ghetto) tại các thành phố lớn, trở nên phổ biến vào cuối thời Trung cổ. Các ghetto trở thành những không gian đặc biệt, nơi người Do Thái duy trì các hoạt động cộng đồng của mình, nhưng đồng thời cũng liên tục tương tác với cư dân bản địa.

Điều này đã dẫn tới hình thành các cộng đồng Do Thái với những bản sắc ít nhiều khác nhau tùy thuộc nơi định cư, những luồng tư tưởng triết học, tôn giáo mới trong thế giới tinh thần của người Do Thái, bao gồm cả sự du nhập của các luồng tư tưởng cấp tiến bắt đầu từ thời kỳ Khai sáng tại châu Âu thế kỷ 18.

Người Do Thái cũng trở nên “nhập thế” với những xã hội bản địa tùy thuộc vào mức độ khoan dung, cởi mở của các xã hội này, và đạt được những thành công đáng kể không chỉ trong địa hạt tài chính – ngân hàng (gia tộc Rothchild) mà còn bước chân vào giới quý tộc, thượng lưu chính trị châu Âu như trường hợp của Benjamin Disraeli, trở thành những người đi tiên phong trong các tư tưởng mang tính cách mạng (như Karl Marx).

Nhưng khi người Do Thái dần phá bỏ được các bức tường ghetto để bước ra ngoài xã hội, cũng là lúc họ chạm trán chủ nghĩa bài Do Thái hiện đại và dần cảm nhận được nhu cầu phải có một quốc gia riêng cho mình.

Advertisement

Phần năm “Giải phóng” điểm lại quá trình nỗ lực tích cực, có ý thức của các cộng đồng Do Thái tại các khu vực khác nhau như Anh, các quốc gia nói tiếng Đức, Pháp… nhằm giải phóng bản thân họ khỏi các hạn chế bị ép buộc lên người Do Thái thông qua đón nhận các tư tưởng tiến bộ sở tại, học hỏi ngôn ngữ, văn hóa bản địa, thậm chí đi xa tới mức đón nhận các tôn giáo chính thức bản địa (thông qua việc chịu lễ rửa tội để gia nhập cộng đồng Ki tô hay tự nguyện cải theo Hồi giáo), đồng thời loại bỏ các khía cạnh quá bảo thủ, lạc hậu trong tư tưởng, tôn giáo truyền thống Do Thái.

Tuy nhiên, sự nhìn nhận người Do Thái vẫn có sự khác biệt quá lớn giữa các quốc gia khác nhau, có những xã hội nơi cộng đồng Do Thái trở thành một bộ phận bình đẳng như tại Anh, hay có được sự tự do lớn như tại các quốc gia nói tiếng Đức và Pháp, trong khi họ vẫn phải chịu sự đối xử nghiệt ngã tại những vùng khác như lãnh thổ Nga.

Để rồi vỡ mộng trước tinh thần bài Do Thái thâm căn cố đế dù công khai hay ngấm ngầm ở ngay cả những xã hội được coi là khoan dung như Pháp (với những minh chứng như vụ Dreyfus), nhiều trí thức Do Thái như Herzl từ bỏ dần lập trường đồng hóa tích cực với xã hội bản địa, mà thay vào đó coi giải pháp triệt để cho người Do Thái là tìm một nơi trú ngụ ổn định, an toàn cho bản thân dưới hình thức một quốc gia của người Do Thái. Đây chính là nguồn gốc của chủ nghĩa phục quốc Do Thái, hay chủ nghĩa Zion.

Phần sáu “Holocaust” và phần bảy “Zion” tóm lược lại những sự kiện có tính bước ngoặt của lịch sử dân tộc Do Thái trong thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Tuyên bố Balfour năm 1917 của chính phủ Anh là một thắng lợi quan trọng của những người theo chủ nghĩa Zion, là bước quan trọng đầu tiên hợp thức hóa về nguyên tắc việc thành lập một nhà nước Do Thái ở vùng lãnh thổ Palestin.

Những mầm mống của sự bất ổn tương lai cũng được bắt nguồn từ sự lựa chọn này, vì vùng lãnh thổ được đề cập đến vốn đã thưa thớt người Do Thái từ lâu, với phần lớn cư dân là người A rập Hồi giáo.

Advertisement

Với những người theo chủ nghĩa Zion, sự chung sống hài hòa với người A rập như tinh thần Tuyên bố Balfour là chưa đủ cho nỗi ám ảnh an toàn suốt hai thiên niên kỷ của người Do Thái. Họ cần một quốc gia do người Do Thái nắm quyền thống trị bằng mọi giá, điều chắc chắn sẽ khó nhận được sự đồng thuận của đa số người A rập địa phương. Bởi vậy, việc hiện thực hóa một nhà nước Do Thái như những người theo chủ nghĩa Zion mong muốn không đạt được nhiều tiến triển thực tế, trong khi xung đột tại Palestin giữa người Do Thái định cư.

Thay vì châu Âu, thế kỷ 20 chứng kiến nước Mỹ trở thành nơi có cộng đồng Do Thái đông đảo, giàu có nhất, có ảnh hưởng lớn nhất. Cộng đồng Do Thái tại Mỹ tạo dựng được vị trí vững chắc trong nhiều lĩnh vực, từ tài chính ngân hàng tới công nghiệp điện ảnh, khoa học công nghệ, cho tới cả thế giới ngầm và tội phạm có tổ chức.

Tại châu Âu, tinh thần bài Do Thái bị đẩy lên đỉnh cao của sự tàn bạo dưới chế độ Quốc xã tại Đức, dẫn tới cuộc diệt chủng người Do Thái khủng khiếp trên toàn bộ lãnh thổ châu Âu nằm dưới sự kiểm soát của chế độ này. Cơn ác mộng diệt chủng này cùng cách hành xử của đa số quốc gia châu Âu sau Thế chiến II trước những yêu cầu bồi thường danh dự, vật chất cho các nạn nhân Do Thái càng khiến người Do Thái được thuyết phục rằng một nhà nước Do Thái có chủ quyền là tối quan trọng, là câu trả lời duy nhất cho an toàn của họ và cần đạt được bằng mọi giá.

Bằng chứng là người Do Thái sẵn sàng viện đến bạo lực, khủng bố ngay cả với người Anh, quốc gia đã đi đầu trong ủng hộ nguyên tắc một vùng đất tự quản cho người Do Thái, khi tiến trình thành lập nhà nước Do Thái độc lập tại Palestin không được hiện thực hóa nhanh như mức họ mong muốn.

Cuối cùng, dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc, nhà nước Israel, quốc gia hiện đại có chủ quyền đầu tiên của người Do Thái, cũng được thành lập năm 1948. Một động thái đương nhiên khiến người A rập đã sống lâu dài trên vùng đất Palestin cũng như toàn bộ thế giới Hồi giáo bất bình, dẫn tới cuộc xung đột vũ trang đầu tiên ngay khi Israel vừa thành lập.

Advertisement

Luôn tìm mọi cơ hội để củng cố vị thế độc lập của mình, vận dụng mọi phương thức để loại trừ các mối đe dọa an ninh tiềm tàng, Israel trong giai đoạn 1948-1978 đã liên tục ở thế đối đầu quân sự với các quốc gia A rập láng giềng, thậm chí sẵn sàng bắt tay với Anh, Pháp, hai quốc gia thực dân cũ, trong cuộc xung đột kênh đào Suez năm 1956 hay chủ động tấn công phủ đầu Ai Cập, Syria và Jordan trong Chiến tranh Sáu ngày năm 1967.

Nhưng rồi chiến thắng phải trả giá đắt năm 1973 đã cho Israel thấy thù địch thường trực với các nước láng giềng không phải là giải pháp bền vững lâu dài, và nước này đã có những động thái hòa giải, thậm chí là tìm kiếm đồng minh trong thế giới Hồi giáo.

Hiệp ước hòa bình với Ai Cập năm 1979 và việc trao trả bán đảo Sinai cho Ai Cập phần nào duy trì được vị thế cho Israel trên thế giới. Bất chấp những động thái như vậy và những tiến bộ trong thương lượng hòa bình khác như hiệp ước với người Palestine năm 1995 dẫn tới sự thành lập nhà nước Palestine độc lập, an ninh của người Do Thái vẫn chưa được đảm bảo hoàn toàn.

Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, chủ nghĩa phục quốc Do Thái đã bị chỉ trích nặng nề như một biến tướng của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, và quan điểm này vẫn còn nhận được sự ủng hộ tới tận ngày nay, khi những động thái như mở rộng các khu định cư của người Do Thái cũng như cuộc xung đột dai dẳng với người Palestine vẫn chưa có dấu hiệu sẽ kết thúc hoàn toàn trong tương lai gần.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Zing News

Advertisement

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Zing News mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://zingnews.vn/con-duong-do-thai-post1439503.html

Advertisement
Tiếp tục đọc
Quảng cáo
Nhấn vào đây để bình luận

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sách hay

Lịch sử chưa kể về ramen

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một khảo cứu thú vị về lịch sử món mì ramen ở Nhật Bản thông qua lăng kính phân tích và mối liên hệ chặt chẽ của món ăn với địa lý, chính trị, quan hệ đối ngoại, khoa học dinh dưỡng, truyền thông và bản sắc dân tộc.

Một bản ghi chép còn bảo toàn được từ tháng 7 năm 1665 cho thấy Zhu Shun Shui đã chỉ cho Mitsukuni (cận vệ của Tokugawa Mitsukuni) cách chế biến một món mì nước kiểu người Hoa.

Mì ramen được giới thiệu lần đầu đến Nhật Bản vào năm 1665, năm 1884 hay năm 1910? Tiền thân của nó liệu có phải là món ăn được gọi với cái tên ūshin udon, Nankin soba hay Shina soba? Tùy thuộc vào câu trả lời mà chúng ta sẽ nghiệm suy về từng món ăn khác nhau với một giai thoại nguồn cội riêng, cùng một quỹ đạo lịch sử đặc thù mang đến các góc nhìn cụ thể về đất nước Nhật Bản. […]

Mi ra men anh 1

Bìa cuốn sách

Giai thoại đầu tiên, và cũng sống động nhất, đã xuất hiện ban đầu trong công trình nghiên cứu mang tính tiên phong về lịch sử của mì ramen (được xuất bản năm 1987) của nhà sử học về ẩm thực Kosuge Keiko, trong đó ấn định thời điểm món ăn này được trình làng là vào những năm 1660, đồng thời cho rằng Tokugawa Mitsukuni (tên khác là Mito Kōmon, 1628 − 1701) – vị lãnh chúa huyền thoại thời phong kiến (daimyō) nắm hàng thứ hai sau Mạc chủ (shōgun) (1) – là người đầu tiên thưởng thức món mì ramen ở Nhật Bản.

Là nhân vật lịch sử nổi tiếng ở Nhật và từng được một bộ phim truyền hình dài tập mô tả như một vị hảo hán, ở gần cuối mỗi tập phim, Tokugawa Mitsukuni thường tiết lộ danh tính của mình cho những kẻ xấu bằng cách để lộ ra hình ảnh chiếc inrō (hộp đựng trang trí sơn mài kích cỡ nhỏ) có khắc gia huy của dòng họ ông, cho thấy ông là vị daimyō trong vùng.

Advertisement

Câu thoại “Ngươi không nhận ra gia huy này sao?” (Kono mondokoro ga me ni hairanuka?) được Kaku-san (cận vệ của Mitsukuni) nhắc lại trong đoạn cao trào của mỗi tập phim nhằm khôi phục lại trật tự và cấp bậc, và khiến những kẻ bất lương ngang ngược phải lập tức cầu xin sự khoan hồng.

Một bản ghi chép còn bảo toàn được từ tháng 7 năm 1665 về các hoạt động của Mitsukuni cho thấy rằng Zhu Shun Shui – một người Trung Quốc tị nạn khỏi chính quyền nhà Minh sống ở Mito vào thời điểm đó (2) – đã chỉ cho Mitsukuni cách chế biến một món mì nước kiểu người Hoa nhiều khả năng chính là món mì ramen ngày nay (3).

Mặc dù Mitsukuni được biết đến nhiều nhất trong lịch sử Nhật Bản khi đã khởi xướng kế hoạch kỳ vĩ biên soạn nên Dai Nihon Shi – hay Lịch sử vĩ đại của Nhật Bản – một cuốn sách mất gần 250 năm và mười thế hệ để hoàn thành, ông cũng là một người ca tụng triết học Lý học (Neo- Confucianism) (4) và đã tìm đến Trung Quốc để được soi đường chỉ lối cách trị nước.

Ông do vậy đã tham vấn và kết giao với Zhu, người trước đó từng nắm chức thượng quan ở Trung Quốc dưới thời nhà Minh nhưng quyết định đến Nhật Bản vào năm 1665 do phải lưu vong khỏi chế độ cai trị của Mãn Châu.

Mi ra men anh 2

Lãnh chúa Tokugawa Mitsukuni. Nguồn: wikipedia.

Zhu trở thành một trong những cố vấn quan trọng nhất của Mitsukuni, và làm việc trong chính quyền cai trị của ông này trong 17 năm tiếp theo cho đến khi qua đời vào năm 1682. Vai trò quan trọng của Zhu trong đội ngũ cố vấn của vị daimyō đã giúp ông có được một cuộc sống thoải mái, cùng một bia mộ nổi bật còn tồn tại cho đến ngày nay trong khu nghĩa trang của gia tộc Tokugawa nhánh Mito (5).

Advertisement

Trong thời gian hầu cận daimyō, Zhu biết được rằng Mitsukuni là một người rất thích ăn udon – loại mì nước hiện vẫn phổ biến ở Nhật Bản – với sợi mì làm từ bột mì sử dụng với nước dùng dashi (làm từ cá ngừ khô và tảo bẹ).

Vào thế kỷ 17, người Nhật thường ăn mì udon với quả mơ ngâm (umeboshi) và vừng. Thấy vậy, Zhu đã gợi ý về năm thành phần thường được sử dụng trong món mì nước Trung Quốc để vị daimyō vùng Mito có thể thêm vào nhằm cải thiện hương vị của món ăn. Năm thành phần (ūshin) mà ông chủ ý đề xuất gồm: rễ kiệu (rakkyō), tỏi, hẹ tỏi (nira), hành lá và gừng (6).

Từ những dữ kiện này, nhà sử học về ẩm thực Kosuge phỏng đoán rằng Tokugawa Mitsukuni chính là cha đẻ của tập tục ăn mì nước Trung Quốc ở Nhật Bản. Sau này Bảo tàng Ramen ở Shin-Yokohama đã phổ biến rộng rãi câu chuyện trên, và kết quả là vào năm 2003, Tập đoàn Thực phẩm Nissin của Nhật Bản nhà sản xuất mì ramen ăn liền lớn nhất thế giới – trong một thời gian ngắn đã cho ra – mắt nhãn hiệu mì ăn liền U-shin có in hình gia huy của gia tộc Tokugawa, được điểm tô bằng giai thoại về Mitsukuni và Zhu.

Mặc dù khó xác định liệu món ăn từng được ưa chuộng bởi vị lãnh chúa nổi tiếng của vùng Mito kia tương thích ra sao với món ăn ngày nay được gọi với cái tên “mì ramen”, cần ghi nhớ rằng câu chuyện được lưu truyền rộng rãi ở trên về sự xuất hiện tại Nhật Bản của món mì nước kiểu người Hoa đã thiết lập nên một giai thoại nguồn cội trong giai đoạn đầu của kỷ nguyên hiện đại – một thời đại được đánh dấu bằng việc người Nhật có xu hướng học hỏi người Trung Quốc.

Mặc dù câu chuyện trên được coi như một phiên bản bao trùm đầy lôi cuốn về nguồn gốc của món ăn, với đầy đủ các nhân vật ngoài đời thực cùng những tương tác tưởng tượng dựa trên các cách diễn giải không thành kiến đối với những ghi chép lịch sử, nó có ý nghĩa quan trọng trong việc nhấn mạnh sự ngưỡng mộ của người Nhật đối với một nước Trung Quốc thời tiền Thanh.

Advertisement

—————-

1. Một tước hiệu đặc biệt dành cho những vị tướng quân có chức vụ cao nhất trong thời kỳ phong kiến của Nhật Bản. (ND)

2. Khi triều đại nhà Thanh củng cố quyền lực của mình lên miền nam Trung Quốc, một số học giả Nho giáo làm việc cho chính quyền nhà Minh đã trốn sang Đại Hàn và Nhật Bản để làm cố vấn.

3. Kosuge Keiko, Nippon Rāmen Monogatari: Chūka soba wa itsu doko de umareta ka (Tokyo: Shinshindō, 1987), tr.45-59.

4. Tư tưởng triết lý Trung Quốc chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Lý học có thể được xem là nỗ lực hợp lý hóa cũng như thế tục hóa Nho giáo bằng cách loại bỏ các yếu tố mê tín, huyền bí của Đạo giáo và Phật giáo, vốn từng được đưa vào Nho giáo trong và sau đời nhà Hán. (ND)

Advertisement

5. Sĩ quan hải quân người Mỹ. (ND)

6. Cho đến năm 1854, khi Hiệp ước Perry đầu tiên có hiệu lực, triều đại Tokugawa ở Nhật Bản đã duy trì chính sách tránh tiếp xúc với các cường quốc phương Tây (ngoài Hà Lan) trong hơn hai thế kỷ để hạn chế tình trạng hỗn loạn do những nỗ lực cải đạo của các nhà truyền giáo Cơ đốc ở Nhật Bản. Riêng Hà Lan đã đồng ý giới hạn mối quan hệ giữa hai nước chỉ trong lĩnh vực thương mại, kết quả là Hà Lan trở thành quốc gia châu Âu duy nhất duy trì quan hệ thương mại và ngoại giao với Nhật Bản từ năm 1639 đến năm 1854.

Nguồn: https://znews.vn/giai-thoai-ve-su-xuat-hien-cua-mi-ramen-mon-an-quoc-dan-nhat-ban-post1455469.html

Advertisement
Tiếp tục đọc

Sách hay

Nóng giận là bản năng tĩnh lặng là bản lĩnh

Được phát hành

,

Bởi

Trong cuốn sách, tác giả Tống Mặc đã trò chuyện với độc giả về cách kiềm chế cơn nóng giận, học cách bao dung, kiểm soát cảm xúc của mình trước những tác động của cuộc sống.

Ai chẳng có lúc giận dữ, nóng giận là hạt mầm được gieo vào tâm ta từ lúc mới chào đời. Nhưng kìm chế cơn giận là bản lĩnh cần rèn luyện mỗi ngày.

Kim che con gian anh 1

Thái độ điềm tĩnh sẽ giúp con người dễ dàng vượt qua nghịch cảnh, đón nhận thử thách. Ảnh: P.G.

Điềm đạm là sự điềm tĩnh xuất phát từ nội tâm. Cổ nhân cho rằng: “Điềm tĩnh dưỡng thần, phật dịch ô vật.” Ý muốn nói, điềm tĩnh có thể dưỡng tâm, giúp con người không phụ thuộc vào thứ bên ngoài. Điềm tĩnh nói đến một thái độ sống “lùi”, vạn sự thuận theo tự nhiên, người giữ được tinh thần như vậy, chắc chắn có thể làm tốt việc dưỡng tâm.

Hiện giờ, ngày càng có nhiều người theo đuổi việc “dưỡng sinh”. Dưỡng sinh gồm có dưỡng tâm, dưỡng tính và dưỡng thân. Nhưng rất nhiều người chỉ quan tâm đến việc dưỡng thân, cho rằng chỉ cần chăm sóc cơ thể cho thật đẹp đẽ, khỏe mạnh, thì có thể hưởng thụ cuộc sống lâu dài. Cho nên, số người có thể kiên trì hàng ngày tập luyện thể thao, ăn uống lành mạnh thì nhiều, nhưng số người có thể kiên trì dưỡng tâm hàng ngày lại rất ít.

Advertisement

Có một bà mẹ cực kỳ chú trọng việc dưỡng sinh. Gặp ai cô ấy cũng thao thao bất tuyệt về đạo lý dưỡng sinh, về việc mỗi ngày phải ăn cái gì, ăn bao nhiêu, ăn thế nào, vận động bao lâu… Cô ấy nói hết lần này đến lần khác: Chỉ có làm như vậy, mới không bị bệnh! Nhưng mỗi lần nghe những điều này, tôi đều thấy rất lạ. Một người ngày nào cũng bận rộn chuẩn bị đồ ăn lành mạnh cho bản thân từ sáng đến tối, sợ mình ăn phải đồ ăn không tốt sẽ sinh bệnh, không thể sống thọ, ngày nào cũng lo lắng như vậy, liệu có vui vẻ được không?

Nếu như chúng ta dư ỡng sinh mà không bắt đầu từ việc dưỡng tâm dưỡng tính, trong lòng sẽ có nhiều phiền não, có nhiều ham muốn. Như vậy, “hạnh phúc” mà chúng ta được hưởng chỉ dừng ở mức ăn ngon mặc đẹp và cơ thể khỏe mạnh, đó không phải cuộc sống thăng hoa chân chính.

Đại sư Hoằng Nhất cho rằng điềm đạm là “điều đầu tiên của việc dưỡng tâm”. Điềm đạm mà ngài nói tới suy cho cùng là cần con người phải tĩnh tâm. Thế gian này bao chuyện phiền não, dễ ảnh hưởng đến tâm lý của con người.

Kim che con gian anh 2

Cuốn sách Nóng giận là bản năng, tĩnh lặng là bản lĩnh mang đến cho người đọc nhiều lời khuyên hữu ích. Ảnh: Chi.

Cho nên, nhiều người nghĩ rằng tâm mình không tĩnh là vì đang bị quá nhiều chuyện quấy nhiễu. Thật ra, ta bị quấy rầy không phải vì những chuyện phiền nhiễu trên đời, mà vì tâm không tĩnh. Khi chúng ta có thể tách khỏi tất cả sự vật bên ngoài, cho dù ở trong hoàn cảnh nào, ta cũng có thể hưởng thụ cuộc sống an nhàn thực sự.

Trong xã hội hiện thực này, rất nhiều chuyện sẽ làm cho chúng ta “dao động”.

Advertisement

Khi một người mỗi ngày kiếm được 10 đồng, chỉ đủ để ăn no, anh ta cảm thấy rất thoải mái, nhưng lại mơ mỗi ngày kiếm được 100 đồng; khi kiếm được 100 đồng mỗi ngày, anh ta lại cảm thấy mệt hơn trước rất nhiều, và không thấy hài lòng lắm, bởi vì có người mỗi ngày kiếm được 1.000 đồng.

Anh ta làm việc chăm chỉ hơn, cuối cùng cũng có thể kiếm 1.000 đồng mỗi ngày, anh ta bắt đầu mua xe, mua nhà, sống cuộc sống tốt đẹp mà anh ta từng ao ước, nhưng anh ta lại bắt đầu hướng về cuộc sống mỗi ngày kiếm được 10.000 đồng…

Chúng ta luôn rơi vào một vòng tròn kỳ lạ như vậy. Chúng ta luôn cho rằng khi đạt được điều gì mình mong đợi đã lâu, trong lòng sẽ cảm thấy yên tâm, hài lòng, từ đó có thể hạnh phúc. Nhưng sau khi đạt được điều mình muốn, ta lại có cảm giác cũng chỉ thế mà thôi. Những ham muốn lớn hơn nối tiếp nhau, mục tiêu ngày càng cao, và chúng ta càng ngày càng mệt hơn.

Do đó, một người sau khi có biệt thự, xe hơi, anh ta càng không hạnh phúc, bởi anh ta lo sợ một ngày nào đó sẽ mất đi cuộc sống như vậy, do đó đành phải dốc sức làm việc nhiều hơn, ép bản thân phải kiếm được 100.000 mỗi ngày, nếu chỉ kiếm được 80.000 thì thở dài ngao ngán.

Ngày nào cũng sống trong nỗi sợ mất đi danh lợi, gánh áp lực khủng khiếp, làm sao mà không sinh bệnh cho được? Dĩ nhiên, không phải con người không thể sống như vậy, danh lợi vốn là sự theo đuổi lớn nhất cuộc đời đối với một người bình thường.

Advertisement

Nhưng ý ở đây muốn nói, nếu như cuộc sống như vậy làm cho chúng ta cảm thấy thêm áp lực, thêm phiền muộn, không hề có cảm giác hạnh phúc, thì bạn hoàn toàn có thể suy nghĩ theo hướng khác.

Không nhất thiết phải từ bỏ những thứ như biệt thự, xe hơi, chỉ cần từ bỏ việc cố chấp gắn bó với những thứ này, dù kiếm được 1.000.000 mỗi ngày cũng không ngạo mạn, mà mỗi ngày kiếm được 10 đồng cũng không chán chường, muốn ăn thì ăn, muốn ngủ thì ngủ, không cần gượng ép bản thân, bạn có thể cảm nhận được sự hạnh phúc ngay lập tức.

Người có nội tâm điềm đạm là người ngay cả khi mặc một chiếc áo vải, ăn một bữa cơm đạm bạc, vẫn có thể an nhàn thoải mái, không có chút cảm giác khó chịu hay không vui nào. Cho dù đối mặt với phiền não và sinh tử, họ cũng có thể thản nhiên đối diện, trong lòng không một chút gợn sóng đau khổ, không cần ăn ngon mặc đẹp vẫn cảm thấy yên bình và hạnh phúc.

[…]

Nguồn: https://znews.vn/kim-che-con-gian-la-ban-linh-can-co-cua-nguoi-truong-thanh-post1455101.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tuổi ấy mình yêu

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn tản văn “Tuổi ấy mình yêu” ghi lại nhiều ký ức về Hà Nội của thế hệ 6X, 7X. Khi ấy thành phố tuy còn nhiều gian khó nhưng đầy lãng mạn với những biệt thự cổ rêu phong, cùng những thanh niên tha thiết yêu đời!

Dòng thời gian miên man đưa ta về những kỷ niệm ấu thơ không thể nào quên. Mùa hè nóng như đổ lửa, chẳng có điều hòa lẫn quạt điện, chỉ đành phe phẩy quạt nan xua đi cái nóng.

Tuoi ay minh yeu anh 1

Cảnh mấy đứa trẻ ngồi ở bể nước công cộng để mẹ tắm rửa là hình ảnh quen thuộc thời bao cấp. Ảnh: Fclikr.

Ở miền ôn đới mà nhiệt độ lên tới 40 thì không thể không coi là sự kiện. Vì thế mà ai chưa kịp trẻ lại, gầy đi, chết vì nóng thì cứ, rất nhiều người thích, tranh thủ cởi gần hết cho da có màu suy nghĩ. Cái màu này, Tây và ngay cả ta chưa từng trải đời này dăm chục năm tha hồ suy nghĩ cũng chả biết là màu gì.

[…]

Advertisement

Thành phố uể oải trong hơi nóng làm người cứ lơ mơ, thương chả ra thương nhớ chẳng ra nhớ, cứ dằng dai lừng khừng. Chẳng biết có phải dân ở những xứ nóng động cái là sùng sục hừng hực lên là vì một năm mấy mùa đã tha hồ uể oải rồi không?

Chiều qua thứ bảy, chỉ còn mấy tiếng nữa cửa hàng cửa họ đóng, đóng cửa luôn ngày chủ nhật là ngày đến Chúa cũng không làm gì (mà còn làm làm gì, sửa sai thế nào được nữa sau khi đã tạo ra con người) nhưng nắng vẫn còn chấp chới trên bờ tường, ngọn cây, mái nhà. Say nắng trưa rồi, không dám đi xa, chỉ lếch thếch ra đầu phố xem có quả dưa hấu nào nhẹ hơn một yến để tha về ăn giải nhiệt chờ mưa.

Mưa thì chưa, dưa thì không nhẹ, chẳng mua bán gì nữa, đi về. Ngang qua cái quán nhỏ đầu phố thấy bàn nào cũng có người ngồi lơ mơ. Có ông lẩn mẩn lúc quờ cốc cà phê đưa lên môi lúc sờ cây bút bi chơi đố chữ.

Có mẹ nạ dòng cháu sớm phom dáng cực kì hùng tráng vẫn chẳng ngần ngại gọi cốc kem to cho xứng người, ăn thi với cháu. Có bà già lim dim mắt xếp tà váy rồi ngồi vắt chân đầy vẻ quý phái khiêu khích kiểu Marlene Dietrich, thay vì điếu thuốc trên tay lại thấy phảy một cái quạt giấy thật là xinh.

Kỷ vật của những ngày nắng hạ Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Tuynidi gì đó đây, không biết cụ mua hay cụ trai nào tặng, mùa hạ vừa đi qua hay từ đời thăm thẳm nỗi niềm nào.

Advertisement

Bất chợt thấy mình chậm bước. Bất chợt hình dung lại, ngày xưa, cũng quạt giấy như này. Bà tóc bạc vấn lẳn trong vành khăn trắng để “trở” ai trong họ chẳng biết. Bà đứng chờ tàu điện chỗ Ô Cầu Dền. Bà luôn luôn có cái quạt trong tay phe phảy cho cháu bám quẩn bên chân.

Bà ngồi chân co chân duỗi đầu tấm phản sau này hạ xuống che cái hầm trú ẩn đào ngay dưới gậm giường rồi cúi người vuốt ngay ngắn ống quần, mở âu giầu, tỉ mẩn tiện miếng vỏ quạch, xé mảnh lá giầu không, bổ nhỏ miếng cau đã bổ sáu từ trước, quết chút vôi trắng, nhúm chút thuốc lào rồi đưa lên miệng, rồi bận bịu dọi lại vành cái quạt nan, xếp lại cái quạt giấy, lầm thầm không biết là mắng đứa cháu nào dùng đồ xong buông quăng bỏ vãi, vô ý vô tứ chẳng biết của bền tại người.

Chao ôi những buổi chiều Hà Nội hết chiến tranh, đã khó nghèo càng thêm khó nghèo vì mẹ mất, nhưng bà còn đó cho chị em mình nương dựa, bà còn đó, giữ lại cho chị em mình những gì còn có thể giữ được, là sự ngây ngô quý giá nhất của tuổi ấu thơ.

Tuoi ay minh yeu anh 2

Cuốn tản văn Tuổi ấy mình yêu của nhà văn Lê Minh Hà. Ảnh: NXB Trẻ.

Cũng cái quạt giấy này, trong bàn tay con gái những ngày cuối cùng đến lớp, giấy trang kim màu tím, nan tre, thằng bạn ngồi bên giằng lấy hỏng luôn chỗ tay cầm, những cái nan rời nhau ra, thế mà nó ra sức khoát tay quạt cho cả mình với nó. Tức mà nghĩ tới những ngày sắp xa đi, gặp lại không biết có đủ tự tin như giờ vẫn hay gây sự với nhau, nghĩ tới cái compa dở hơi nó vẫn nhường mình trong giờ hình học, thôi im vậy.

Bà già váy hoa vẫn đang lơ mơ bên cốc kem phe phẩy cái quạt giấy rõ là xinh. Uể oải thì mình đang uể oải lắm rồi, nhưng có mơ đâu, mà cảm như từ đâu xưa hơi gió từ cái quạt giấy muôn đời. Chỉ phảy nhẹ phảng phất thôi đã đủ làm xao động hơi nóng ngày tháng hạ vì cái mùi hơi thum thủm của những nan quạt vót từ tre ngâm ao bùn.

Advertisement

Ở Hà Nội giờ hay gặp các bà đi tập dưỡng sinh. Khi biểu diễn dưỡng sinh, các bà mặc cả bộ sa tanh đỏ, cứ từng lúc lại khuỵu đầu gối trong tư thế cảm tử lao về phía trước, trong tay là cái quạt hình thù như cái quạt giấy mình quen pạch một cái đồng loạt xòe ra.

Chưa tới gần nên không biết nan quạt bằng tre bằng gỗ hay bằng nhựa, nhưng cái quạt cũng màu đỏ rực, lại có tua rua, xòe ra đều còn hơn các diễn viên hội đoàn tập múa, chỉ còn thiếu hai bím tóc ngắn vểnh ngang tai và trẻ đi dăm chục tuổi là gần bằng diễn viên kinh kịch Bắc Kinh nhảy một cái, xoạc chân một cái, cao giọng á a a trên sân khấu Hà Nội một thời.

Về với Hà Nội, cứ lần nào nhìn thấy những mảnh tam giác đỏ rực ấy chói lọi trong nắng sớm cũng giật mình.

[…]

Nguồn: https://znews.vn/mua-he-da-xa-post1455038.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Xu hướng