Connect with us

Sách hay

Con đường Do Thái

Được phát hành

,

Cung cấp một khối dữ liệu khổng lồ, Paul Johnson cho thấy nguồn gốc và cuộc hành trình đầy sóng gió để tồn tại, duy trì bản sắc của dân tộc Do Thái.

Lịch sử Do Thái (History of Jews) là một cuốn sách đồ sộ của tác giả Paul Johnson dành riêng cho một chủ đề thú vị của lịch sử loài người: nguồn gốc và cuộc hành trình đầy sóng gió để tồn tại, duy trì bản sắc của dân tộc Do Thái, một dân tộc có số lượng cá thể ít ỏi tính trên tổng dân số thế giới song lại có ảnh hưởng lớn và dấu ấn đậm nét lên tiến trình lịch sử, một ảnh hưởng mà sức nặng của nó vẫn hiện hữu rõ rệt trong thế giới đương đại.

Cung cấp tới người đọc một khối dữ liệu khổng lồ về một chủ đề cũng đồ sộ không kém, Paul Johnson chia Lịch sử Do Thái thành năm phần.

Hai phần đầu điểm lại cội nguồn của dân tộc Do Thái từ những bằng chứng, chi tiết nằm rải rác trong các tư liệu cổ với độ xác tín khác nhau còn lưu lại tới ngày nay, cũng như sự hình thành và những nguyên lý cơ bản của Do Thái giáo, mối liên hệ mạnh mẽ, bền chắc đã giúp người Do Thái duy trì sự đoàn kết trong dân tộc cũng như bảo tồn được các giá trị truyền thống cốt lõi của họ qua thử thách của thời gian.

Phần ba và phần bốn của cuốn sách là phần lịch sử lang bạt của người Do Thái khi họ lang bạt khắp thế giới, cũng như phương thức tổ chức của họ để duy trì sự tồn tại của cộng đồng dân tộc mình, đồng thời cũng thích ứng và tạo dựng chỗ đứng trong các xã hội sở tại. Ba phần cuối của cuốn sách, từ phần năm tới phần bảy, là câu chuyện về chủ nghĩa phục quốc và sự ra đời của nhà nước Do Thái hiện đại.

Trong phần một “Người Do Thái”, Paul Johnson giới thiệu với độc giả nguồn gốc của dân tộc Do Thái như chúng ta biết từ các nguồn tư liệu văn tự và khảo cổ.

Dựa trên Kinh Thánh, đặc biệt là phần Cựu Ước, kết hợp đối chiếu với các nghiên cứu lịch sử, khảo cổ của vùng Trung Cận Đông, tác giả đã lần ngược lại nguồn gốc của các tổ phụ Do Thái bắt đầu từ Abraham cho tới Moses, một nhân vật có tầm ảnh hưởng đặc biệt quan trọng với dân tộc Do Thái, người theo Kinh Cựu Ước đã dẫn dắt dân Do Thái rời bỏ Ai Cập tới miền đất hứa, nơi sau này Solomon đã dựng nên Ngôi đền thứ nhất để thờ phụng Chúa.

Paul Johnson vừa dẫn dắt người đọc theo niên biểu của Cựu Ước vừa lý giải ý nghĩa sâu xa của những câu chuyện được thuật lại trong đó, vừa kết nối những chi tiết này với những mốc niên đại đã được xác lập từ các bằng chứng khảo cổ, nghiên cứu khoa học để dẫn độc giả qua giai đoạn lịch sử Cổ Đại đã hình thành nên người Do Thái về mặt dân tộc, phong tục, tôn giáo, đồng thời cũng chứng kiến lần đầu tiên tộc người này coi một vùng đất – miền Đất Hứa – làm nơi định cư, nơi họ thuộc về, và cũng là nơi họ xây dựng vương quốc Do Thái đầu tiên dưới hai vị vua David và Solomon.

Tiếp theo là sự xung đột nội bộ trong cộng đồng Do Thái dẫn tới sự tan rã nhanh chóng của vương quốc này, kết thúc là cuộc tấn công Jerusalem của người Babylon, người Do Thái lại rơi vào kiếp lưu đày, còn Ngôi đền thứ nhất bị phá hủy.

Phần hai “Do Thái giáo” là câu chuyện của dân tộc Do Thái kể từ thời kỳ Tha hương tại Babylon trong khoảng nửa thế kỷ vào thế kỷ VI TCN, cuộc trở về Jerusalem và Đất Hứa nhờ sự khoan dung của Cyrus, quá trình hình thành tân chính thống Do Thái, tôn giáo sẽ chi phối đời sống tinh thần của người Do Thái từ đó về sau.

Quan trọng hơn, Do Thái giáo cũng là độc thần giáo đầu tiên trong lịch sử loài người. Triết lý tôn giáo khác biệt hẳn so với các đa thần giáo cổ xưa đã giúp Do Thái giáo có nền tảng bền vững hơn, thuyết phục hơn. Nhờ vậy, Do Thái giáo còn trở thành nguồn cảm hứng cho việc hình thành hai độc thần giáo phổ biến nhất trên thế giới hiện nay là Ki tô giáo và Hồi giáo.

Trong đó, sự hình thành Ki tô giáo và xung đột của tôn giáo này với Do Thái giáo cũng để lại nhiều hệ lụy cho người Do Thái tới tận ngày nay, trong đó có tinh thần bài Do Thái. Bên cạnh đó là câu chuyện về quá trình hình thành Cựu Ước như chúng ta thấy ngày nay cùng hệ thống kinh điển, giáo luật của Do Thái giáo cũng như ảnh hưởng của tư tưởng tôn giáo lên nhân sinh quan, thế giới quan cũng như văn chương Do Thái cổ đại.

Đây cũng là thời kỳ người Do Thái liên tục va chạm với các thế lực khác thống trị họ, từ người Ba Tư tới người Hy Lạp, người Roma, kết cục là một cuộc tha hương nữa sau khi Jerusalem thất thủ trong cuộc nổi dậy của người Do Thái chống lại Roma hồi thế kỷ I.

Phần ba “Chế độ giáo sĩ trị” và phần bốn “Ghetto” tiếp nối cuộc hành trình của dân tộc Do Thái khi họ không còn quốc gia độc lập của mình, phải học cách trở thành một phần dân cư của đế chế Roma, rồi sau đó là của thế giới Ki tô giáo và thế giới Hồi giáo.

Do Thái giáo và tầng lớp giáo sĩ của nó đóng vai trò quan trọng để gắn kết cộng đồng và bảo vệ các giá trị truyền thống cũng như danh tính riêng biệt của dân tộc này.

Với tinh thần đề cao học tập, luôn luôn học tập để thích ứng, người Do Thái luôn biết cách tận dụng các đặc tính của các xã hội nơi họ sống để tạo lập chỗ đứng với các vai trò quan trọng như thương nhân, bác sĩ, học giả, thậm chí chen chân cả vào hệ thống chính trị. Song sự bướng bỉnh không khuất phục tôn giáo chiếm vai trò chủ đạo trong xã hội họ sống (Ki tô giáo hay Hồi giáo), người Do Thái luôn phải chấp nhận sự cư xử bất công của phong trào bài Do Thái, phải sẵn sàng đón nhận lệnh trục xuất khỏi bất cứ thành phố, vương quốc nào do bất cứ lý do nào.

Kết quả của xu thế này là việc cô lập người Do Thái vào những khu vực riêng biệt (các ghetto) tại các thành phố lớn, trở nên phổ biến vào cuối thời Trung cổ. Các ghetto trở thành những không gian đặc biệt, nơi người Do Thái duy trì các hoạt động cộng đồng của mình, nhưng đồng thời cũng liên tục tương tác với cư dân bản địa.

Điều này đã dẫn tới hình thành các cộng đồng Do Thái với những bản sắc ít nhiều khác nhau tùy thuộc nơi định cư, những luồng tư tưởng triết học, tôn giáo mới trong thế giới tinh thần của người Do Thái, bao gồm cả sự du nhập của các luồng tư tưởng cấp tiến bắt đầu từ thời kỳ Khai sáng tại châu Âu thế kỷ 18.

Người Do Thái cũng trở nên “nhập thế” với những xã hội bản địa tùy thuộc vào mức độ khoan dung, cởi mở của các xã hội này, và đạt được những thành công đáng kể không chỉ trong địa hạt tài chính – ngân hàng (gia tộc Rothchild) mà còn bước chân vào giới quý tộc, thượng lưu chính trị châu Âu như trường hợp của Benjamin Disraeli, trở thành những người đi tiên phong trong các tư tưởng mang tính cách mạng (như Karl Marx).

Nhưng khi người Do Thái dần phá bỏ được các bức tường ghetto để bước ra ngoài xã hội, cũng là lúc họ chạm trán chủ nghĩa bài Do Thái hiện đại và dần cảm nhận được nhu cầu phải có một quốc gia riêng cho mình.

Phần năm “Giải phóng” điểm lại quá trình nỗ lực tích cực, có ý thức của các cộng đồng Do Thái tại các khu vực khác nhau như Anh, các quốc gia nói tiếng Đức, Pháp… nhằm giải phóng bản thân họ khỏi các hạn chế bị ép buộc lên người Do Thái thông qua đón nhận các tư tưởng tiến bộ sở tại, học hỏi ngôn ngữ, văn hóa bản địa, thậm chí đi xa tới mức đón nhận các tôn giáo chính thức bản địa (thông qua việc chịu lễ rửa tội để gia nhập cộng đồng Ki tô hay tự nguyện cải theo Hồi giáo), đồng thời loại bỏ các khía cạnh quá bảo thủ, lạc hậu trong tư tưởng, tôn giáo truyền thống Do Thái.

Tuy nhiên, sự nhìn nhận người Do Thái vẫn có sự khác biệt quá lớn giữa các quốc gia khác nhau, có những xã hội nơi cộng đồng Do Thái trở thành một bộ phận bình đẳng như tại Anh, hay có được sự tự do lớn như tại các quốc gia nói tiếng Đức và Pháp, trong khi họ vẫn phải chịu sự đối xử nghiệt ngã tại những vùng khác như lãnh thổ Nga.

Để rồi vỡ mộng trước tinh thần bài Do Thái thâm căn cố đế dù công khai hay ngấm ngầm ở ngay cả những xã hội được coi là khoan dung như Pháp (với những minh chứng như vụ Dreyfus), nhiều trí thức Do Thái như Herzl từ bỏ dần lập trường đồng hóa tích cực với xã hội bản địa, mà thay vào đó coi giải pháp triệt để cho người Do Thái là tìm một nơi trú ngụ ổn định, an toàn cho bản thân dưới hình thức một quốc gia của người Do Thái. Đây chính là nguồn gốc của chủ nghĩa phục quốc Do Thái, hay chủ nghĩa Zion.

Phần sáu “Holocaust” và phần bảy “Zion” tóm lược lại những sự kiện có tính bước ngoặt của lịch sử dân tộc Do Thái trong thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Tuyên bố Balfour năm 1917 của chính phủ Anh là một thắng lợi quan trọng của những người theo chủ nghĩa Zion, là bước quan trọng đầu tiên hợp thức hóa về nguyên tắc việc thành lập một nhà nước Do Thái ở vùng lãnh thổ Palestin.

Những mầm mống của sự bất ổn tương lai cũng được bắt nguồn từ sự lựa chọn này, vì vùng lãnh thổ được đề cập đến vốn đã thưa thớt người Do Thái từ lâu, với phần lớn cư dân là người A rập Hồi giáo.

Với những người theo chủ nghĩa Zion, sự chung sống hài hòa với người A rập như tinh thần Tuyên bố Balfour là chưa đủ cho nỗi ám ảnh an toàn suốt hai thiên niên kỷ của người Do Thái. Họ cần một quốc gia do người Do Thái nắm quyền thống trị bằng mọi giá, điều chắc chắn sẽ khó nhận được sự đồng thuận của đa số người A rập địa phương. Bởi vậy, việc hiện thực hóa một nhà nước Do Thái như những người theo chủ nghĩa Zion mong muốn không đạt được nhiều tiến triển thực tế, trong khi xung đột tại Palestin giữa người Do Thái định cư.

Thay vì châu Âu, thế kỷ 20 chứng kiến nước Mỹ trở thành nơi có cộng đồng Do Thái đông đảo, giàu có nhất, có ảnh hưởng lớn nhất. Cộng đồng Do Thái tại Mỹ tạo dựng được vị trí vững chắc trong nhiều lĩnh vực, từ tài chính ngân hàng tới công nghiệp điện ảnh, khoa học công nghệ, cho tới cả thế giới ngầm và tội phạm có tổ chức.

Tại châu Âu, tinh thần bài Do Thái bị đẩy lên đỉnh cao của sự tàn bạo dưới chế độ Quốc xã tại Đức, dẫn tới cuộc diệt chủng người Do Thái khủng khiếp trên toàn bộ lãnh thổ châu Âu nằm dưới sự kiểm soát của chế độ này. Cơn ác mộng diệt chủng này cùng cách hành xử của đa số quốc gia châu Âu sau Thế chiến II trước những yêu cầu bồi thường danh dự, vật chất cho các nạn nhân Do Thái càng khiến người Do Thái được thuyết phục rằng một nhà nước Do Thái có chủ quyền là tối quan trọng, là câu trả lời duy nhất cho an toàn của họ và cần đạt được bằng mọi giá.

Bằng chứng là người Do Thái sẵn sàng viện đến bạo lực, khủng bố ngay cả với người Anh, quốc gia đã đi đầu trong ủng hộ nguyên tắc một vùng đất tự quản cho người Do Thái, khi tiến trình thành lập nhà nước Do Thái độc lập tại Palestin không được hiện thực hóa nhanh như mức họ mong muốn.

Cuối cùng, dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc, nhà nước Israel, quốc gia hiện đại có chủ quyền đầu tiên của người Do Thái, cũng được thành lập năm 1948. Một động thái đương nhiên khiến người A rập đã sống lâu dài trên vùng đất Palestin cũng như toàn bộ thế giới Hồi giáo bất bình, dẫn tới cuộc xung đột vũ trang đầu tiên ngay khi Israel vừa thành lập.

Luôn tìm mọi cơ hội để củng cố vị thế độc lập của mình, vận dụng mọi phương thức để loại trừ các mối đe dọa an ninh tiềm tàng, Israel trong giai đoạn 1948-1978 đã liên tục ở thế đối đầu quân sự với các quốc gia A rập láng giềng, thậm chí sẵn sàng bắt tay với Anh, Pháp, hai quốc gia thực dân cũ, trong cuộc xung đột kênh đào Suez năm 1956 hay chủ động tấn công phủ đầu Ai Cập, Syria và Jordan trong Chiến tranh Sáu ngày năm 1967.

Nhưng rồi chiến thắng phải trả giá đắt năm 1973 đã cho Israel thấy thù địch thường trực với các nước láng giềng không phải là giải pháp bền vững lâu dài, và nước này đã có những động thái hòa giải, thậm chí là tìm kiếm đồng minh trong thế giới Hồi giáo.

Hiệp ước hòa bình với Ai Cập năm 1979 và việc trao trả bán đảo Sinai cho Ai Cập phần nào duy trì được vị thế cho Israel trên thế giới. Bất chấp những động thái như vậy và những tiến bộ trong thương lượng hòa bình khác như hiệp ước với người Palestine năm 1995 dẫn tới sự thành lập nhà nước Palestine độc lập, an ninh của người Do Thái vẫn chưa được đảm bảo hoàn toàn.

Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, chủ nghĩa phục quốc Do Thái đã bị chỉ trích nặng nề như một biến tướng của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, và quan điểm này vẫn còn nhận được sự ủng hộ tới tận ngày nay, khi những động thái như mở rộng các khu định cư của người Do Thái cũng như cuộc xung đột dai dẳng với người Palestine vẫn chưa có dấu hiệu sẽ kết thúc hoàn toàn trong tương lai gần.

Nguồn: https://zingnews.vn/con-duong-do-thai-post1439503.html

Sách hay

Nghệ thuật tranh kiếng trong ‘Nhà gia tiên’

Được phát hành

,

Bởi

Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, nghệ thuật tranh kiếng gắn liền với văn hóa thờ tự và nhiều khía cạnh khác trong đời sống và sinh hoạt của nhiều gia đình Nam bộ.

Phim điện ảnh Nhà gia tiên do Huỳnh Lập đạo diễn gần cán mốc 200 tỷ, gây sốt phòng vé thời gian qua tuy nội dung còn gây tranh cãi song được đánh giá cao ở phần tái dựng bối cảnh. Trong đó, chi tiết nhân vật chính Mỹ Tiên (Phương Mỹ Chi) được ông mình, một người coi sóc đền miếu (nghệ sĩ Trung Dân đóng) kể về nghệ thuật làm tranh kiếng để lại ấn tượng.

Để tái hiện nghệ thuật dân gian này trên màn ảnh rộng, đoàn phim đã mời một nghệ nhân từ Long An thực hiện các tác phẩm tranh kiếng, cũng như đến làng nghề Bà Vệ (An Giang) tìm kiếm, phục chế những bức tranh cũ mục nát, bị vứt bỏ.

Chia sẻ với Tri Thức – Znews, Thạc sĩ Văn hóa học, nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tác giả cuốn sách Tranh dân gian Nam Bộ cho rằng việc tranh kiếng xuất hiện trong phim là một yếu tố không quá bất ngờ. “Bộ phim kể về câu chuyện diễn ra trong một không gian truyền thống với những nội dung phong hóa xưa… mà tranh kiếng là loại công nghệ phẩm ‘trang trí’ không chỉ ở những không gian thờ tự mà cả các không gian sinh hoạt trong nhiều gia đình Nam Bộ”, bà nói.

Sự ra đời và phát triển của tranh kiếng Nam Bộ

Theo nhà nghiên cứu, tranh kiếng có mặt ở cung đình Huế từ thời Minh Mạng – Thiệu Trị, song đó là các sản phẩm mỹ nghệ nhập khẩu. Mãi đầu thế kỷ XX, các di dân Quảng Đông đến lập nghiệp ở vùng Chợ Lớn, mới bắt đầu mở các tiệm kiếng, buôn bán các loại kiếng tráng thủy để soi mặt, lộng khuôn hình, tủ, khung cửa chớp, cửa gió… và các loại tranh kiếng: các bức đại tự và các bức thư họa dùng trong việc khánh chúc tân gia, khai trương, mừng thọ… Tranh kiếng Nam bộ ra đời từ đây.

Đến những năm 1920, nghề vẽ tranh kiếng chuyển địa bàn về Lái Thiêu (Thủ Dầu Một). Sau đó, khoảng những năm 1940-1950, nghề làm tranh kiếng lan tỏa khắp lục tỉnh Nam Kỳ, trụ lại ở Mỹ Tho, Cai Lậy, Gò Công (Tiền Giang ngày nay), Chợ Mới (An Giang), Chợ Trạm (Long An), Tây Ninh… và thâm nhập vào cộng đồng Khmer tạo nên dòng tranh kiếng Khmer Nam bộ ở Trà Vinh và Sóc Trăng…

Tranh kiếng Nam bộ chiếm tỷ lệ lớn là tranh thờ: Trước nhất là tranh thờ Tổ tiên với loại tranh Đại tự, Cửu huyền thất tổ, Sơn thủy (biểu đạt ý nghĩa hiếu đạo của câu ca dao nổi tiếng: Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra), Lão mai (nhằm biểu ý “Cây có cội”), Tre tàn măng mọc (động viên nỗ lực vươn lên của thế hệ hậu bối). Đặc biệt là tranh chân dung của tổ tiên quá vãng.

Thứ hai là tranh thờ các đối tượng thuộc tín ngưỡng dân gian như tranh Ông Địa, Ông Táo, các thần độ mạng… Thứ ba là tranh thờ của các tôn giáo: tranh thờ của Phật giáo như Phật, Bồ Tát, Tổ sư…; tranh thờ của Đạo giáo như Lão Tử cưỡi trâu, Bát Tiên…, tranh thờ của tín đồ Công giáo; tranh “Thiên nhãn” của đạo Cao Đài… Riêng tranh thờ của cộng đồng Khmer Nam bộ cũng như của cộng đồng người Hoa tạo thành một dòng độc đáo có đặc trưng về đề tài cũng như kỹ pháp tạo hình.

Ngoài ra, tranh kiếng trang trí nội ngoại thất, tranh khánh chúc và đặc biệt là loại tranh trang trí xe bán mì, hủ tíu.

“Tranh kiếng là loại tranh vẽ ngược và tô vẽ ở phía sau mặt kiếng, nên tinh hoa nhất trong nghệ thuật này là tài năng vẽ tranh, vờn màu, sắp xếp bố cục chính phụ sao cho có được một bức tranh đúng với mục đích sử dụng của nó và đẹp mắt về mặt mỹ thuật”, tác giả Huỳnh Thanh Bình chia sẻ. Thách thức lớn nhất của người nghệ nhân tranh kiếng là phải tạo nên những mẫu tranh đáp ứng được đa dạng yêu cầu về đề tài, về chủng loại; và cần sở đắc một vốn liếng chữ Hán để thể hiện thành những câu đối, những đại tự, những tấm hoành, tấm biển tương thích cho từng nội dung tranh.

Ở Nam bộ, hầu như tranh kiếng có mặt ở mọi gia đình, thậm chí nơi đình, đền, chùa, miếu. Việc sử dụng tranh kiếng cho nhu cầu thờ tự, trang trí hoặc chúc tụng… đã trở thành tập quán. Chính vì vậy, tranh kiếng chiếm một vị trí quan trọng trong văn hóa vùng đất này.

Nghệ thuật gắn liền với văn hóa thờ tự

Thờ tự tổ tiên là tập tục quan trọng trong đời sống văn hóa của xứ ta. Nơi thờ tự tổ tiên theo truyền thống là không gian tâm linh chiếm vị trí trung tâm trong mỗi ngôi nhà. Theo đó, việc trang nghiêm nơi thờ tự tổ tiên luôn được coi trọng. Theo tác giả sách Tranh dân gian Nam Bộ, từ cuối thế kỷ 19 đến nay, theo sự phát triển của tranh kiếng, các bộ tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng ra đời và dần dần thay thế loại tranh thờ tổ tiên ở dạng bích họa hoặc tranh thờ cẩn ốc xà cừ hay các bức chạm gỗ sơn son thiếp vàng hay sơn then thiếp vàng.

“Từ bấy đến nay, tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng đã không ngừng canh cải, tạo tác nên nhiều loại khác nhau”, bà Huỳnh Thanh Bình cho hay. Có loại chỉ là những bức đại tự, có loại chỉ là “bài vị” với dòng chữ Cửu Huyền thất tổ, đặc biệt là những bộ tranh vẽ cảnh sơn thủy hoặc có loại phát triển từ bộ tranh Tứ thời Mai-Lan-Cúc-Trúc

nha gia tien anh 4

Nhà nghiên cứu, tác giả Huỳnh Thanh Bình với tác phẩm Tranh dân gian Nam Bộ. Ảnh: Quỳnh My.

Cửu huyền thất tổ – bức tranh kiếng đầu tiên xuất hiện trong Nhà gia tiên – là một kiểu loại của bộ tranh thờ tổ tiên thuộc loại tranh đại tự, với dòng chữ “Cửu Huyền thất tổ”. Loại tranh này phổ biến ở miền Tây Nam Bộ, đặc biệt là các cộng đồng theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo và cả cộng đồng tín đồ đạo Cao Đài Tây Ninh.

Ở loại tranh này thì mỗi bộ gồm năm tấm ghép lại: Tấm biển nằm trên cùng, ghi tên tộc họ: “Nguyễn phủ đường”, “Lê phủ đường”…, hay “Đức lưu phương” hoặc “Phước Lộc Thọ”. Bức chính nằm giữa tranh, ghi bốn chữ Cửu huyền thất tổ và được trang trí bằng đồ hình tứ linh.

Bao quanh tấm tranh chính là bốn tấm tranh khác: bức thượng thổ ở phía trên (vẽ hình cuốn thư, hay năm sản xuất); bức hạ thổ ghép dưới đáy (thường trang trí hoa-điểu hay mâm ngũ quả) và đôi liễn, đặt dọc hai bên tấm chính, nội dung tôn vinh công đức của cha mẹ, tổ tiên.

Ngoài ra còn có bộ tranh thờ tổ tiên ba bức hay giản tiện hơn, loại tranh kiếng thờ tổ tiên này được thu gọn thành một bức duy nhất, đơn giản với chữ “Cửu Huyền Thất Tổ” ở chính giữa; hai bên là hai câu đối:

“Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,

Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu”.

Hay “Kính cửu huyền thiên niên bất tận

Trọng thất tổ nội ngoại tương đồng”.

Loại tranh thờ Cửu huyền thất tổ còn thấy trong bộ ba bức chín tròng với bức chính ở giữa từng chữ Cửu huyền thất tổ được thể hiện trong những ô tròn ở cả dạng thức Hán tự lẫn quốc ngữ trên nền sơn thủy hay dọc theo cội lão mai…

Ngày nay, tranh kiếng bị các loại tranh công nghiệp cạnh tranh. Song theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tranh kiếng vẽ thủ công vẫn được công chúng hâm mộ. Đây đó, nghề vẽ tranh kiếng vẫn còn tồn tại; thậm chí có nơi phát triển có quy mô hơn trước, và tiếp thu các kỹ thuật in lụa, in 3D…

Tác giả Huỳnh Thanh Bình sinh năm 1985, hiện công tác tại Bảo tàng TP.HCM. Bà từng xuất bản một số tác phẩm như Tranh kiếng Nam Bộ (2013); Biểu tượng thần thoại về chư thiên và linh vật Phật giáo (2018, Tái bản 2024); Tranh tường Khmer Nam Bộ (2020); Quy pháp đồ tượng Hindu và Phật giáo Ấn Độ (2021); Tranh dân gian Nam Bộ (2024).

Nguồn: https://znews.vn/nghe-thuat-tranh-kieng-trong-nha-gia-tien-post1535551.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzeimer

Được phát hành

,

Bởi

“Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzheimer” của Tiến sĩ Y khoa Richard Restak là một tác phẩm toàn diện, khám phá cách trí nhớ hoạt động và cách tối ưu hóa khả năng ghi nhớ.

Phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ.

Những lo lắng về trí nhớ phổ biến đến mức nào?

Có nhiều lý do để quan tâm đến trí nhớ của bạn. Hãy xem xét những điều này: phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ. Nói ngắn gọn, trí nhớ chính là chìa khóa cho việc tăng cường trí não.

Ở Mỹ ngày nay, tất cả những người trên 50 tuổi đều đang sống trong nỗi sợ hãi mang tên Big A – bệnh Alzheimer. Các cuộc gặp gỡ nho nhỏ (bữa tối, tiệc cocktail, v.v.) mang bầu không khí như một phân đoạn từ chương trình đố vui hằng tuần “Chờ đã… Đừng nói là” của đài NPR. Đó là chương trình mà các khách mời sẽ ganh đua với nhau trong những cuộc thi căng thẳng để trở thành người đầu tiên nghĩ ra tên của những thứ như diễn viên đóng một vai nào đó trong loạt phim truyền hình ngắn mới nhất mà mọi người đang say mê theo dõi.

Gần như chắc chắn là ai đó sẽ lấy điện thoại di động ra để kiểm tra độ chính xác của người trả lời đầu tiên. Nhanh, nhanh hơn nữa, nhanh nhất kẻo người khác nghi ngờ bạn đang có những triệu chứng ban đầu của Big A.

Tri nho anh 1

Trí nhớ là một phần vô cùng quan trọng của con người. Ảnh: Nativespeaker.

Mặc dù bệnh Alzheimer không phổ biến như nhiều người vẫn lo sợ, nhưng người ta đang ngày càng bày tỏ lo lắng về chứng mất trí nhớ mà họ cảm nhận được với bạn bè của mình. Chúng cũng là những lời than thở phổ biến nhất mà những người trên 55 tuổi chia sẻ với bác sĩ của họ.

Những lo lắng về trí nhớ như vậy thường phi lý và khơi dậy sự lo lắng không cần thiết. Sự lo lắng phổ biến này đã góp phần tạo ra một mối quan ngại rộng rãi về trí nhớ và các dấu hiệu suy giảm trí nhớ. Một trong những lý do của sự hoảng loạn này là sự nhầm lẫn trong tư duy của nhiều người về cách chúng ta hình thành ký ức.

Hãy cố gắng nhớ lại một chuyện gì đó đã xảy ra với bạn vào đầu ngày hôm nay. Nó không nhất thiết phải là một chuyện đặc biệt – bất kỳ sự kiện thông thường nào cũng được. Giờ hãy xem ký ức đó đã hình thành như thế nào.

Theo yêu cầu của tôi, bạn đã truy xuất ký ức về một chuyện gì đó mà có lẽ bạn sẽ không nghĩ tới nếu tôi không thúc giục bạn nhớ lại nó và bạn không nỗ lực để truy xuất nó.

Về bản chất, trí nhớ là trải nghiệm lại một chuyện gì đó trong quá khứ dưới dạng một hồi ức. Về mặt hoạt động, ký ức là sản phẩm cuối cùng của những nỗ lực của chúng ta trong hiện tại nhằm truy xuất những thông tin được lưu trữ trong não mình.

Ký ức – tương tự những giấc mơ và hành động tưởng tượng – khác nhau tùy theo mỗi người. Ký ức của tôi khác biệt rõ rệt với ký ức của bạn vì chúng dựa trên trải nghiệm sống cá nhân của chúng ta.

Ký ức cũng khác với hình ảnh hoặc video về các sự kiện trong quá khứ. Mặc dù các phiên bản dựa trên công nghệ này của quá khứ có thể đóng vai trò là công cụ kích thích trí nhớ, nhưng bản thân chúng không phải là ký ức.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-ban-nen-quan-tam-den-tri-nho-cua-minh-post1535566.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Vương miện xanh

Được phát hành

,

Bởi

Tập sách là hành trình từ hậu trường sân khấu các cuộc thi người đẹp, nơi người thắng cuộc được yêu quý nhưng cũng hứng chịu các phán xét khắt khe của công chúng, đến các dự án xanh của Hoa hậu Môi trường Thế giới Nguyễn Thanh Hà.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất.

Năm 2022, tôi bước lên bục cao sân khấu Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh đăng quang Hoa hậu Môi trường Việt Nam.

Năm 2023, tôi tiếp tục trở thành người Việt Nam đầu tiên chinh phục vương miện Miss Eco International 2023 (Hoa hậu Môi trường Thế giới) tại Cairo, Ai Cập giữa những phấn khích và xúc động.

Chiếc vương miện đã thay đổi tôi. Từ một cô bé vô tư trong chiếc “tổ kén” gia đình nuôi dưỡng gần 20 năm qua, nay tôi bước ra thế giới rộng lớn và choáng ngợp với những điều không thể ngờ đến. Thế giới đã “dạy” tôi lớn lên, trước những vô lo, niềm vui, nỗi buồn, cảm xúc của tuổi vừa rời ghế nhà trường.

Nhiệm kỳ hoa hậu của tôi đã kết thúc, nhưng tôi vẫn tiếp tục sứ mệnh trên con đường đã chọn, đó là tình yêu, là trái tim, là thanh xuân, là giá trị sống.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất. Thế giới đó, có gì ở lại cùng tôi? Có gì đã khiến tôi dũng cảm đi tiếp trong khoảng thời gian đầy khó khăn đó?

Hoa hau anh 1

Hoa hậu môi trường thế giới 2023 Nguyễn Thanh Hà. Ảnh: Vietnam.vn.

Một mình trên sân khấu

Ngay khi vừa đạt cột mốc “đủ tuổi”, tôi lập tức đăng ký cuộc thi Hoa hậu Môi trường Việt Nam. Lúc ấy, tôi chỉ nghĩ rằng, phải thực hiện ước mơ của mình ngay khi có cơ hội. Ước mơ làm hoa hậu? Không hẳn! Đó là ước mơ được làm gì đó, thật cụ thể, thật thiết thực cho môi trường sống này, cho hành tinh này.

Nếu trở thành hoa hậu, tôi sẽ có ưu thế hơn, có thể xuất hiện trước nhiều người để bày tỏ những vấn đề về môi trường, đánh động sự quan tâm của nhiều người hơn. Nghĩ là làm, thật may mắn, tôi đã thành công và đăng quang khi lần đầu thử sức ở một đấu trường sắc đẹp mà mục tiêu không phải để trở thành người đẹp được ca ngợi hay được công nhận về nhan sắc. Tôi chỉ muốn nhắm tới sứ mệnh vì môi trường như chính danh hiệu mà cuộc thi đã trao.

Tôi bỗng nhớ đến câu nói trong Nhà Giả Kim: “Khi bạn thực sự mong muốn một điều gì, cả vũ trụ sẽ hợp lại giúp bạn đạt được nó”. Phải chăng, tôi thành công vì tôi khao khát điều đó mãnh liệt?

Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã nhiều lần tự đặt câu hỏi cho bản thân: Là một người trẻ lớn lên trong điều kiện sống đầy đủ, được ăn ngon mặc đẹp và có nhiều cơ hội học tập hơn thế hệ ông bà, ba mẹ ngày xưa, liệu tôi có thể làm ngơ trước những mối đe dọa đang rình rập môi trường sống của chúng ta như rác thải, ô nhiễm, hạn mặn, lũ lụt, phá rừng hay hiệu ứng nhà kính không? Chính vì vậy, tôi đã quyết định tham gia cuộc thi Hoa hậu Môi trường. Hai chữ “môi trường” trong danh hiệu chính là nguồn sức mạnh và động lực để tôi hành động.

Ban đầu, tôi cũng mang trong mình rất nhiều lo ngại: Liệu mình có đủ khả năng không? Liệu có thể vượt qua những thí sinh tài năng khác? Tuy nhiên, tôi nhận ra, niềm khao khát mạnh mẽ muốn thử thách bản thân và tìm kiếm những cơ hội mới để trưởng thành còn lớn hơn. Điều thôi thúc tôi tham gia không chỉ là mong muốn thể hiện bản thân, mà còn ở khát khao được lan tỏa những giá trị tích cực về bảo vệ môi trường đến cộng đồng.

Nguồn: https://znews.vn/chiec-vuong-mien-thay-doi-cuoc-doi-hoa-hau-moi-truong-the-gioi-post1535563.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng