Connect with us

Sách hay

Con đường Do Thái

Được phát hành

,

Cung cấp một khối dữ liệu khổng lồ, Paul Johnson cho thấy nguồn gốc và cuộc hành trình đầy sóng gió để tồn tại, duy trì bản sắc của dân tộc Do Thái.

Lịch sử Do Thái (History of Jews) là một cuốn sách đồ sộ của tác giả Paul Johnson dành riêng cho một chủ đề thú vị của lịch sử loài người: nguồn gốc và cuộc hành trình đầy sóng gió để tồn tại, duy trì bản sắc của dân tộc Do Thái, một dân tộc có số lượng cá thể ít ỏi tính trên tổng dân số thế giới song lại có ảnh hưởng lớn và dấu ấn đậm nét lên tiến trình lịch sử, một ảnh hưởng mà sức nặng của nó vẫn hiện hữu rõ rệt trong thế giới đương đại.

Cung cấp tới người đọc một khối dữ liệu khổng lồ về một chủ đề cũng đồ sộ không kém, Paul Johnson chia Lịch sử Do Thái thành năm phần.

Hai phần đầu điểm lại cội nguồn của dân tộc Do Thái từ những bằng chứng, chi tiết nằm rải rác trong các tư liệu cổ với độ xác tín khác nhau còn lưu lại tới ngày nay, cũng như sự hình thành và những nguyên lý cơ bản của Do Thái giáo, mối liên hệ mạnh mẽ, bền chắc đã giúp người Do Thái duy trì sự đoàn kết trong dân tộc cũng như bảo tồn được các giá trị truyền thống cốt lõi của họ qua thử thách của thời gian.

Phần ba và phần bốn của cuốn sách là phần lịch sử lang bạt của người Do Thái khi họ lang bạt khắp thế giới, cũng như phương thức tổ chức của họ để duy trì sự tồn tại của cộng đồng dân tộc mình, đồng thời cũng thích ứng và tạo dựng chỗ đứng trong các xã hội sở tại. Ba phần cuối của cuốn sách, từ phần năm tới phần bảy, là câu chuyện về chủ nghĩa phục quốc và sự ra đời của nhà nước Do Thái hiện đại.

Trong phần một “Người Do Thái”, Paul Johnson giới thiệu với độc giả nguồn gốc của dân tộc Do Thái như chúng ta biết từ các nguồn tư liệu văn tự và khảo cổ.

Dựa trên Kinh Thánh, đặc biệt là phần Cựu Ước, kết hợp đối chiếu với các nghiên cứu lịch sử, khảo cổ của vùng Trung Cận Đông, tác giả đã lần ngược lại nguồn gốc của các tổ phụ Do Thái bắt đầu từ Abraham cho tới Moses, một nhân vật có tầm ảnh hưởng đặc biệt quan trọng với dân tộc Do Thái, người theo Kinh Cựu Ước đã dẫn dắt dân Do Thái rời bỏ Ai Cập tới miền đất hứa, nơi sau này Solomon đã dựng nên Ngôi đền thứ nhất để thờ phụng Chúa.

Paul Johnson vừa dẫn dắt người đọc theo niên biểu của Cựu Ước vừa lý giải ý nghĩa sâu xa của những câu chuyện được thuật lại trong đó, vừa kết nối những chi tiết này với những mốc niên đại đã được xác lập từ các bằng chứng khảo cổ, nghiên cứu khoa học để dẫn độc giả qua giai đoạn lịch sử Cổ Đại đã hình thành nên người Do Thái về mặt dân tộc, phong tục, tôn giáo, đồng thời cũng chứng kiến lần đầu tiên tộc người này coi một vùng đất – miền Đất Hứa – làm nơi định cư, nơi họ thuộc về, và cũng là nơi họ xây dựng vương quốc Do Thái đầu tiên dưới hai vị vua David và Solomon.

Tiếp theo là sự xung đột nội bộ trong cộng đồng Do Thái dẫn tới sự tan rã nhanh chóng của vương quốc này, kết thúc là cuộc tấn công Jerusalem của người Babylon, người Do Thái lại rơi vào kiếp lưu đày, còn Ngôi đền thứ nhất bị phá hủy.

Phần hai “Do Thái giáo” là câu chuyện của dân tộc Do Thái kể từ thời kỳ Tha hương tại Babylon trong khoảng nửa thế kỷ vào thế kỷ VI TCN, cuộc trở về Jerusalem và Đất Hứa nhờ sự khoan dung của Cyrus, quá trình hình thành tân chính thống Do Thái, tôn giáo sẽ chi phối đời sống tinh thần của người Do Thái từ đó về sau.

Quan trọng hơn, Do Thái giáo cũng là độc thần giáo đầu tiên trong lịch sử loài người. Triết lý tôn giáo khác biệt hẳn so với các đa thần giáo cổ xưa đã giúp Do Thái giáo có nền tảng bền vững hơn, thuyết phục hơn. Nhờ vậy, Do Thái giáo còn trở thành nguồn cảm hứng cho việc hình thành hai độc thần giáo phổ biến nhất trên thế giới hiện nay là Ki tô giáo và Hồi giáo.

Trong đó, sự hình thành Ki tô giáo và xung đột của tôn giáo này với Do Thái giáo cũng để lại nhiều hệ lụy cho người Do Thái tới tận ngày nay, trong đó có tinh thần bài Do Thái. Bên cạnh đó là câu chuyện về quá trình hình thành Cựu Ước như chúng ta thấy ngày nay cùng hệ thống kinh điển, giáo luật của Do Thái giáo cũng như ảnh hưởng của tư tưởng tôn giáo lên nhân sinh quan, thế giới quan cũng như văn chương Do Thái cổ đại.

Đây cũng là thời kỳ người Do Thái liên tục va chạm với các thế lực khác thống trị họ, từ người Ba Tư tới người Hy Lạp, người Roma, kết cục là một cuộc tha hương nữa sau khi Jerusalem thất thủ trong cuộc nổi dậy của người Do Thái chống lại Roma hồi thế kỷ I.

Phần ba “Chế độ giáo sĩ trị” và phần bốn “Ghetto” tiếp nối cuộc hành trình của dân tộc Do Thái khi họ không còn quốc gia độc lập của mình, phải học cách trở thành một phần dân cư của đế chế Roma, rồi sau đó là của thế giới Ki tô giáo và thế giới Hồi giáo.

Do Thái giáo và tầng lớp giáo sĩ của nó đóng vai trò quan trọng để gắn kết cộng đồng và bảo vệ các giá trị truyền thống cũng như danh tính riêng biệt của dân tộc này.

Với tinh thần đề cao học tập, luôn luôn học tập để thích ứng, người Do Thái luôn biết cách tận dụng các đặc tính của các xã hội nơi họ sống để tạo lập chỗ đứng với các vai trò quan trọng như thương nhân, bác sĩ, học giả, thậm chí chen chân cả vào hệ thống chính trị. Song sự bướng bỉnh không khuất phục tôn giáo chiếm vai trò chủ đạo trong xã hội họ sống (Ki tô giáo hay Hồi giáo), người Do Thái luôn phải chấp nhận sự cư xử bất công của phong trào bài Do Thái, phải sẵn sàng đón nhận lệnh trục xuất khỏi bất cứ thành phố, vương quốc nào do bất cứ lý do nào.

Kết quả của xu thế này là việc cô lập người Do Thái vào những khu vực riêng biệt (các ghetto) tại các thành phố lớn, trở nên phổ biến vào cuối thời Trung cổ. Các ghetto trở thành những không gian đặc biệt, nơi người Do Thái duy trì các hoạt động cộng đồng của mình, nhưng đồng thời cũng liên tục tương tác với cư dân bản địa.

Điều này đã dẫn tới hình thành các cộng đồng Do Thái với những bản sắc ít nhiều khác nhau tùy thuộc nơi định cư, những luồng tư tưởng triết học, tôn giáo mới trong thế giới tinh thần của người Do Thái, bao gồm cả sự du nhập của các luồng tư tưởng cấp tiến bắt đầu từ thời kỳ Khai sáng tại châu Âu thế kỷ 18.

Người Do Thái cũng trở nên “nhập thế” với những xã hội bản địa tùy thuộc vào mức độ khoan dung, cởi mở của các xã hội này, và đạt được những thành công đáng kể không chỉ trong địa hạt tài chính – ngân hàng (gia tộc Rothchild) mà còn bước chân vào giới quý tộc, thượng lưu chính trị châu Âu như trường hợp của Benjamin Disraeli, trở thành những người đi tiên phong trong các tư tưởng mang tính cách mạng (như Karl Marx).

Nhưng khi người Do Thái dần phá bỏ được các bức tường ghetto để bước ra ngoài xã hội, cũng là lúc họ chạm trán chủ nghĩa bài Do Thái hiện đại và dần cảm nhận được nhu cầu phải có một quốc gia riêng cho mình.

Phần năm “Giải phóng” điểm lại quá trình nỗ lực tích cực, có ý thức của các cộng đồng Do Thái tại các khu vực khác nhau như Anh, các quốc gia nói tiếng Đức, Pháp… nhằm giải phóng bản thân họ khỏi các hạn chế bị ép buộc lên người Do Thái thông qua đón nhận các tư tưởng tiến bộ sở tại, học hỏi ngôn ngữ, văn hóa bản địa, thậm chí đi xa tới mức đón nhận các tôn giáo chính thức bản địa (thông qua việc chịu lễ rửa tội để gia nhập cộng đồng Ki tô hay tự nguyện cải theo Hồi giáo), đồng thời loại bỏ các khía cạnh quá bảo thủ, lạc hậu trong tư tưởng, tôn giáo truyền thống Do Thái.

Tuy nhiên, sự nhìn nhận người Do Thái vẫn có sự khác biệt quá lớn giữa các quốc gia khác nhau, có những xã hội nơi cộng đồng Do Thái trở thành một bộ phận bình đẳng như tại Anh, hay có được sự tự do lớn như tại các quốc gia nói tiếng Đức và Pháp, trong khi họ vẫn phải chịu sự đối xử nghiệt ngã tại những vùng khác như lãnh thổ Nga.

Để rồi vỡ mộng trước tinh thần bài Do Thái thâm căn cố đế dù công khai hay ngấm ngầm ở ngay cả những xã hội được coi là khoan dung như Pháp (với những minh chứng như vụ Dreyfus), nhiều trí thức Do Thái như Herzl từ bỏ dần lập trường đồng hóa tích cực với xã hội bản địa, mà thay vào đó coi giải pháp triệt để cho người Do Thái là tìm một nơi trú ngụ ổn định, an toàn cho bản thân dưới hình thức một quốc gia của người Do Thái. Đây chính là nguồn gốc của chủ nghĩa phục quốc Do Thái, hay chủ nghĩa Zion.

Phần sáu “Holocaust” và phần bảy “Zion” tóm lược lại những sự kiện có tính bước ngoặt của lịch sử dân tộc Do Thái trong thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Tuyên bố Balfour năm 1917 của chính phủ Anh là một thắng lợi quan trọng của những người theo chủ nghĩa Zion, là bước quan trọng đầu tiên hợp thức hóa về nguyên tắc việc thành lập một nhà nước Do Thái ở vùng lãnh thổ Palestin.

Những mầm mống của sự bất ổn tương lai cũng được bắt nguồn từ sự lựa chọn này, vì vùng lãnh thổ được đề cập đến vốn đã thưa thớt người Do Thái từ lâu, với phần lớn cư dân là người A rập Hồi giáo.

Với những người theo chủ nghĩa Zion, sự chung sống hài hòa với người A rập như tinh thần Tuyên bố Balfour là chưa đủ cho nỗi ám ảnh an toàn suốt hai thiên niên kỷ của người Do Thái. Họ cần một quốc gia do người Do Thái nắm quyền thống trị bằng mọi giá, điều chắc chắn sẽ khó nhận được sự đồng thuận của đa số người A rập địa phương. Bởi vậy, việc hiện thực hóa một nhà nước Do Thái như những người theo chủ nghĩa Zion mong muốn không đạt được nhiều tiến triển thực tế, trong khi xung đột tại Palestin giữa người Do Thái định cư.

Thay vì châu Âu, thế kỷ 20 chứng kiến nước Mỹ trở thành nơi có cộng đồng Do Thái đông đảo, giàu có nhất, có ảnh hưởng lớn nhất. Cộng đồng Do Thái tại Mỹ tạo dựng được vị trí vững chắc trong nhiều lĩnh vực, từ tài chính ngân hàng tới công nghiệp điện ảnh, khoa học công nghệ, cho tới cả thế giới ngầm và tội phạm có tổ chức.

Tại châu Âu, tinh thần bài Do Thái bị đẩy lên đỉnh cao của sự tàn bạo dưới chế độ Quốc xã tại Đức, dẫn tới cuộc diệt chủng người Do Thái khủng khiếp trên toàn bộ lãnh thổ châu Âu nằm dưới sự kiểm soát của chế độ này. Cơn ác mộng diệt chủng này cùng cách hành xử của đa số quốc gia châu Âu sau Thế chiến II trước những yêu cầu bồi thường danh dự, vật chất cho các nạn nhân Do Thái càng khiến người Do Thái được thuyết phục rằng một nhà nước Do Thái có chủ quyền là tối quan trọng, là câu trả lời duy nhất cho an toàn của họ và cần đạt được bằng mọi giá.

Bằng chứng là người Do Thái sẵn sàng viện đến bạo lực, khủng bố ngay cả với người Anh, quốc gia đã đi đầu trong ủng hộ nguyên tắc một vùng đất tự quản cho người Do Thái, khi tiến trình thành lập nhà nước Do Thái độc lập tại Palestin không được hiện thực hóa nhanh như mức họ mong muốn.

Cuối cùng, dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc, nhà nước Israel, quốc gia hiện đại có chủ quyền đầu tiên của người Do Thái, cũng được thành lập năm 1948. Một động thái đương nhiên khiến người A rập đã sống lâu dài trên vùng đất Palestin cũng như toàn bộ thế giới Hồi giáo bất bình, dẫn tới cuộc xung đột vũ trang đầu tiên ngay khi Israel vừa thành lập.

Luôn tìm mọi cơ hội để củng cố vị thế độc lập của mình, vận dụng mọi phương thức để loại trừ các mối đe dọa an ninh tiềm tàng, Israel trong giai đoạn 1948-1978 đã liên tục ở thế đối đầu quân sự với các quốc gia A rập láng giềng, thậm chí sẵn sàng bắt tay với Anh, Pháp, hai quốc gia thực dân cũ, trong cuộc xung đột kênh đào Suez năm 1956 hay chủ động tấn công phủ đầu Ai Cập, Syria và Jordan trong Chiến tranh Sáu ngày năm 1967.

Nhưng rồi chiến thắng phải trả giá đắt năm 1973 đã cho Israel thấy thù địch thường trực với các nước láng giềng không phải là giải pháp bền vững lâu dài, và nước này đã có những động thái hòa giải, thậm chí là tìm kiếm đồng minh trong thế giới Hồi giáo.

Hiệp ước hòa bình với Ai Cập năm 1979 và việc trao trả bán đảo Sinai cho Ai Cập phần nào duy trì được vị thế cho Israel trên thế giới. Bất chấp những động thái như vậy và những tiến bộ trong thương lượng hòa bình khác như hiệp ước với người Palestine năm 1995 dẫn tới sự thành lập nhà nước Palestine độc lập, an ninh của người Do Thái vẫn chưa được đảm bảo hoàn toàn.

Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, chủ nghĩa phục quốc Do Thái đã bị chỉ trích nặng nề như một biến tướng của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, và quan điểm này vẫn còn nhận được sự ủng hộ tới tận ngày nay, khi những động thái như mở rộng các khu định cư của người Do Thái cũng như cuộc xung đột dai dẳng với người Palestine vẫn chưa có dấu hiệu sẽ kết thúc hoàn toàn trong tương lai gần.

Nguồn: https://zingnews.vn/con-duong-do-thai-post1439503.html

Sách hay

Dám làm

Được phát hành

,

Bởi

“Dám làm: Những bài học về lãnh đạo của tôi tại GE” ghi lại những kinh nghiệm và bài học của Jeff Immelt, cựu CEO của General Electric (GE), từ thời gian lãnh đạo tập đoàn này.

Tôi là một gã chăm “cày cuốc” đích thực, một tín đồ chân chính, đã có hình xăm “thịt viên” của GE (cách người trong nhà gọi logo của công ty) bên eo trái để làm bằng chứng.

Năm 2001, tôi trở thành CEO của một công ty, nơi nhận thức không tương đương với hiện thực. Công ty tôi kế thừa từ Jack Welch có một văn hóa hùng mạnh và những con người tuyệt vời. Nhưng chúng tôi đã cạn kiệt ý tưởng. Một năm trước, khi đang điều hành GE Healthcare, tôi đã cố mua một công ty siêu âm tên Acuson, nhưng Jack gạt đi vì nó nằm ở Mountain View, California và “dân ở đấy điên lắm”.

Tôi không đồng tình; địa điểm của nó sẽ cho chúng tôi một bàn đạp (như nó đã mang lại cho đối thủ Siemens của chúng tôi, tập đoàn về sau đã mua lại nó) tại Thung lũng Silicon, thiên đường của đổi mới. Trong khi một số người trong nội bộ GE tin rằng công ty chắc chắn sẽ ăn nên làm ra mãi mãi, song tôi lại lo lắng rằng chúng tôi đã trở nên quá trì trệ và thiếu óc tò mò.

Than chu anh 1

Hình ảnh Jeff Immelt gắn liền với thương hiệu GE. Ảnh: CNBC.

Trong ít nhất một thập kỷ, chúng tôi đã sử dụng gã khổng lồ dịch vụ tài chính GE Capital để thúc đẩy tăng trưởng và hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp của mình. Nhưng khi tôi tiếp quản chức vụ, rất hiếm nhà quan sát hiểu được rằng chúng tôi đã đầu tư ít ỏi đến mức nào vào các doanh nghiệp công nghiệp đó.

Chúng tôi là một tập đoàn đa ngành cồng kềnh, ôm đồm đủ mọi thứ từ động cơ phản lực đến mạng truyền hình hay hợp đồng bảo hiểm cho chó mèo. Tuy nhiên, chúng tôi được định giá như một công ty công nghệ, về cơ bản là được giao dịch ở mức cao hơn đáng kể so với giá trị của các doanh nghiệp mà chúng tôi có.

Vì vậy, khi lên làm CEO, tôi đã nỗ lực cải tổ công ty, tái đầu tư vào danh mục đầu tư công nghiệp, cải thiện công nghệ và mở rộng dấu ấn toàn cầu của chúng tôi. Và tôi đã làm điều đó mà không hở một lời tiêu cực nào về Jack Welch.

Đó là một lựa chọn đầy rủi ro. Rất khó thúc đẩy thay đổi trong khi đội ngũ của bạn cảm thấy mọi thứ đều đã hoàn hảo. Nhưng vào thời điểm đó, cách tiếp cận này có vẻ đúng đắn. Người tiền nhiệm của tôi được xem là CEO tốt nhất trong lịch sử. Hy vọng của tôi là bảo tồn di sản của ông bằng cách khắc phục những chỗ mà tôi thấy là đã hỏng hóc trước khi chúng kịp hủy hoại chúng tôi.

Nhưng quá thường xuyên trong nhiệm kỳ của tôi, mong muốn bảo vệ GE bằng cách phát triển nó phải bị đặt xuống hàng thứ yếu khi các cuộc khủng hoảng đe dọa thành công của công ty – và nhiều khi là chính sự tồn vong của nó.

Đối với tôi, GE là một câu chuyện không thể đậm tính cá nhân hơn. Tôi là con trai của người đã làm đại diện thu mua của GE suốt 38 năm. Trước khi trở thành CEO, tôi đã bước lên từng nấc thang trong công ty, học hỏi tại ba mảng của GE. Tôi là một gã chăm “cày cuốc” đích thực – một tín đồ chân chính, đã có hình xăm “thịt viên” của GE (cách người trong nhà gọi logo của công ty) bên eo trái để làm bằng chứng. (Tôi sẽ nói thêm về vụ đó sau).

Tôi là gã cuối tuần nào cũng làm việc, là gã không bao giờ tiêu một xu để trang trí văn phòng của riêng hắn, là gã mang tem mình tự mua đến công ty để dán lên thư cá nhân. Nếu tôi có một câu thần chú, thì đó sẽ là: Tôi không phải trung tâm, GE mới là trung tâm.

Nguồn: https://znews.vn/than-chu-cua-ceo-tap-doan-da-quoc-gia-post1533409.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Bộ não đau buồn

Được phát hành

,

Bởi

Sách mang đến một góc nhìn mới nhưng không kém phần hấp dẫn về ảnh hưởng của nỗi đau đối với bộ não và phương pháp bộ não mã hóa tình yêu của con người đối với người thân, giúp chúng ta hiểu rõ nguồn gốc của nỗi đau khi không còn người thân bên cạnh và giải pháp vượt qua các cảm xúc khủng hoảng đó.

Bạn đang sử dụng bản đồ não để đi tới đi lui trong không gian quen thuộc này, thân thể bạn sẽ đến nơi mà não bạn đã gửi nó đi.

Khi giải thích mặt sinh học thần kinh của nỗi đau buồn, tôi thường bắt đầu bằng một phép ẩn dụ dựa trên một trải nghiệm quen thuộc. Tuy nhiên, để phép ẩn dụ này dễ hiểu, bạn phải chấp nhận một giả thiết. Giả thiết ấy là có kẻ nào đó đã trộm mất chiếc bàn ăn nhà bạn.

Tưởng tượng là bạn trở mình dậy khát khô lúc nửa đêm. Bạn bước khỏi giường và đi tới phía bếp lấy một ly nước. Xuống hành lang, bạn băng qua phòng ăn tối đen về phía nhà bếp. Đúng lúc hông bạn đáng ra sắp va vào góc cứng bàn ăn, bạn cảm thấy… hừm, bạn cảm thấy gì? Không gì hết. Bạn đột nhiên nhận ra là bạn không cảm thấy có bất cứ điều gì ở chỗ cao ngang hông bạn.

Đó là điều bạn nhận ra được, bạn không cảm thấy có điều gì đó, điều gì đó cụ thể. Chuyện vắng mặt thứ gì đó là điều đã thu hút bạn chú ý. Điều này thật lạ kỳ, ta thường nghĩ phải là điều gì đó mới thu hút ta chú ý, làm sao không gì cả có thể thu hút ta chú ý?

Ban do anh 1

Não bộ có một cơ chế vận hành đặc biệt. Ảnh: Science Magazinee.

Vâng, thực tế là bạn không chỉ bước đi trong mỗi thế giới này. Hay chính xác hơn, hầu hết thời gian là bạn đang cùng bước đi trong hai thế giới. Trong đó một thế giới là bản đồ thực tế ảo được tạo nên hoàn toàn trong đầu bạn. Não bạn đang dịch chuyển con người bạn xuyên qua bản đồ ảo mà nó đã tạo ra, đó là lý do tại sao bạn có thể đi lại quanh nhà khá dễ dàng trong bóng đêm; bạn hiện không sử dụng thế giới bên ngoài để định hướng. Bạn đang sử dụng bản đồ não để đi tới đi lui trong không gian quen thuộc này, thân thể bạn sẽ đến nơi mà não bạn đã gửi nó đi.

Bạn có thể coi bản đồ não ảo về thế giới này như bản đồ Google trong đầu bạn. Bạn đã từng bao giờ trải nghiệm làm theo chỉ dẫn di chuyển bằng giọng nói mà hoàn toàn không chú ý nơi mình đang lái xe tới chưa? Có lúc giọng nói yêu cầu bạn rẽ vào một con đường, song bạn phát hiện ra đó thực ra là đường cho xe đạp.

GPS và thế giới thực không phải lúc nào cũng khớp nhau. Giống bản đồ của Google, bản đồ não dựa trên thông tin trước đó nó có về khu vực. Tuy nhiên, để giữ an toàn cho bạn, não có những khu vực chuyên dành phát hiện lỗi, nhận biết bất kỳ tình huống nào bản đồ não và thế giới thực không khớp nhau. Nó chuyển sang thông tin thị giác nhận vào mỗi khi một lỗi được phát hiện (và nếu trời tối, thì ta sẽ quyết định bật đèn).

Ta dựa vào bản đồ não vì việc dẫn dắt cơ thể theo bản đồ tâm trí sẽ bớt tốn công tính toán lại rất nhiều so với xuyên qua ngôi nhà quen thuộc như thể đó là trải nghiệm đầu tiên, như thể mỗi lần lại phải khám phá lại vị trí của ô cửa, bức tường và đồ nội thất, rồi quyết định làm sao định vị và đi qua từng thứ.

Không ai mong đợi bàn ăn nhà họ bị trộm mất. Và càng không ai mong đợi người thân yêu mất. Ngay cả khi một người bị bệnh trong một thời gian rất dài, cũng không ai biết được để bước tiếp trên thế giới này mà không có họ thì sẽ ra sao.

Là một nhà khoa học, đóng góp của tôi là nghiên cứu nỗi đau buồn từ góc độ của não, từ góc độ mà não đang cố giải quyết một vấn đề khi đối diện việc người quan trọng nhất cuộc đời ta không còn.

Nỗi đau buồn là một vấn đề đau lòng thắt ruột mà não phải giải quyết và việc đau buồn đòi hỏi bạn phải học cách sống trong một thế giới vắng mặt người bạn yêu thương đậm sâu, người đã khắc ghi vào hiểu biết trong bạn về thế giới. Điều này có nghĩa là đối với não, người thân yêu của bạn mất đi nhưng đồng thời cũng còn mãi, và bạn đang bước xuyên qua hai thế giới cùng một lúc. Bạn đang phải lèo lái cuộc sống của mình dù thực tế là nó đã bị cướp mất khỏi bạn, một giả thiết vô nghĩa, vừa khó hiểu vừa khó chịu.

Nguồn: https://znews.vn/vi-sao-ban-di-chuyen-duoc-trong-bong-dem-post1533397.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Rủi ro từ những đồng tiền ảo như Pi, Bitcoin

Được phát hành

,

Bởi

Những loại tiền ảo như Pi, Ethereum, Bitcoin có thể tồn tại nhiều rủi ro từ pháp lý, bảo mật cho đến biến động thị trường.

pi network anh 1

Ảnh minh họa Pi Network. Nguồn: The Crypto Times.

Tiền ảo, đặc biệt là Bitcoin và Pi, đã trở thành một hiện tượng tài chính toàn cầu, thu hút sự chú ý của giới đầu tư cũng như các cơ quan quản lý. Tuy nhiên, đi kèm với sự phát triển nhanh chóng, tiền ảo cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro đáng lo ngại, từ pháp lý, bảo mật, gian lận đến biến động thị trường.

Những vấn đề của tiền ảo

Một trong những vấn đề người chơi tiền ảo phải đối mặt là rủi ro pháp lý. Theo cuốn sách Cryptocurrencies and Cryptoassets của nhà xuất bản Taylor & Francis, Bitcoin từng bị sử dụng trong các giao dịch chợ đen, rửa tiền và trốn thuế. Điều này khiến nhiều chính phủ trên thế giới phải đưa ra các biện pháp kiểm soát nghiêm ngặt.

Trung Quốc đã cấm hoàn toàn hoạt động giao dịch tiền ảo, trong khi Nhật Bản yêu cầu các sàn giao dịch phải tuân thủ quy định về chống rửa tiền (AML) và xác minh danh tính khách hàng (KYC). Việc thiếu đi một hệ thống pháp lý thống nhất giữa các quốc gia có thể đặt ra câu hỏi về tính thanh khoản và khả năng tồn tại lâu dài của tiền ảo.

Bên cạnh đó, rủi ro bảo mật là mối lo ngại thường trực. Mặc dù nền tảng Bitcoin chưa từng bị tấn công nghiêm trọng, nhưng các sàn giao dịch tiền ảo lại là mục tiêu thường xuyên của tin tặc.

pi network anh 2

Mark Karpeles, CEO Mt. Gox là người giúp sàn giao dịch này vươn lên vị trí số một vào năm 2013. Ảnh: Bloomberg.

“Sự sụp đổ của sàn Mt.Gox tại Nhật Bản do bị đánh cắp hàng triệu đôla Bitcoin là một minh chứng điển hình. Năm 2018, vụ tấn công vào sàn Coincheck khiến hơn 530 triệu USD tiền ảo bị thất thoát. Trong chín tháng đầu năm đó, tổng giá trị tiền ảo bị đánh cắp lên đến 927 triệu USD“, trích từ cuốn sách Cryptocurrencies and Cryptoassets.

Ngoài vấn đề bảo mật, gian lận cũng là một nguy cơ lớn đối với thị trường tiền ảo. Theo số liệu từ Anh, chỉ riêng trong tháng 6 và 7 năm 2018, có tới 203 vụ lừa đảo liên quan đến tiền điện tử với tổng thiệt hại hơn 2 triệu euro, trung bình mỗi nạn nhân mất hơn 10.000 euro.

Một rủi ro khác là tính biến động cao của tiền ảo. Bitcoin từng có thời điểm mất đến 61% giá trị chỉ trong một ngày vào năm 2013 và giảm tới 80% trong năm 2014. Năm 2018, thị trường tiền ảo tiếp tục chứng kiến sự lao dốc mạnh mẽ trước khi phục hồi dần vào giữa năm 2019. Giá trị của Bitcoin và các đồng tiền khác phụ thuộc phần lớn vào tâm lý thị trường và sự chấp nhận của người dùng, khiến chúng trở thành công cụ đầu tư có độ rủi ro cao.

Khi một sàn giao dịch phá sản, nhà đầu tư có thể mất trắng

Theo cuốn sách Cryptocurrency Risk and Governance Challenges (2023), nhiều nhà kinh tế học lo ngại rằng tiền điện tử không có đầy đủ đặc điểm của một loại tiền tệ thực sự mà chỉ là tài sản đầu cơ với mức độ rủi ro cao hơn nhiều so với các loại tài sản khác.

pi network anh 3

Cuốn sách Cryptocurrency Risk and Governance Challenges của nhà xuất bản Taylor & Francis. Ảnh: Amazon.

Ngân hàng Trung ương Malaysia (Bank Negara Malaysia) từng chỉ ra rằng trái ngược với vàng hay ngoại tệ, những tài sản có tính thanh khoản cao trong thời kỳ bất ổn, tiền điện tử chủ yếu được nắm giữ để đầu cơ, khiến giá trị của chúng dễ bị tổn thương trước sự thay đổi của thị trường. Nếu các bên tham gia không sẵn sàng chấp nhận giao dịch bằng tiền ảo, giá trị của chúng có thể trở nên vô nghĩa.

Những biến động giá mạnh, rủi ro bảo mật cũng là một vấn đề lớn đối với các nhà đầu tư tiền ảo. Theo cuốn The Book of Crypto của tác giả Henri Arslanian, các nền tảng giao dịch tiền ảo không có sự bảo vệ của các tổ chức bảo hiểm như FDIC (Mỹ) hay các hệ thống bảo đảm tiền gửi truyền thống. Khi một sàn giao dịch phá sản, nhà đầu tư có thể mất toàn bộ số tiền của mình.

Ngoài ra, nhiều dự án tiền ảo kêu gọi vốn bằng hình thức ICO (Initial Coin Offering) nhưng thực chất chỉ là mô hình lừa đảo Ponzi. Các nền tảng cho vay tiền ảo cũng đối mặt với nguy cơ sụp đổ do quản lý rủi ro kém, như trường hợp của nền tảng Cred – công ty tuyên bố phá sản vào năm 2020 khiến nhiều nhà đầu tư mất trắng.

Không thể phủ nhận rằng thị trường tiền điện tử vẫn còn nhiều rủi ro tiềm ẩn. Dữ liệu từ báo cáo của Fidelity năm 2021 cho thấy hơn 90% tổ chức tài chính đang quan tâm đến loại tiền này nhưng mức độ tham gia vẫn còn hạn chế do tính bất ổn và thiếu khung pháp lý rõ ràng.

Nguồn: https://znews.vn/rui-ro-tu-nhung-dong-tien-ao-nhu-pi-bitcoin-post1533272.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng