Connect with us

Sách hay

Hành trình nghiên cứu thú vị về thế giới bên trong của con người

Được phát hành

,

Cuốn sách gồm 7 phần dành cho ai quan tâm đến tâm lý học hay bắt đầu tìm hiểu các vấn đề của thế giới bên trong, đồng thời chỉ ra hành trình nghiên cứu thú vị về con người.

Những bộ sách giấy đồ sộ khái quát, hệ thống kiến thức ngày càng phổ biến trong thị trường sách Việt. Cuốn sách Tâm lý học nằm trong Bộ sách Khái lược những tư tưởng lớn (Big Idea Simply Explained) do Đông A mua bản quyền và phát hành mang đến cho độc giả góc nhìn tổng quát, thông qua các trang sách tóm lược về các tư tưởng, quan niệm của các nhà tâm lý, nhà nghiên cứu; xu hướng, trào lưu và nhóm ngành nghiên cứu nhằm chỉ ra các vấn đề thuộc về đời sống tinh thần của con người từ đầu thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ đến nay.

Cuốn sách gồm 7 phần cùng phụ lục, thuật ngữ, chỉ mục dành cho ai quan tâm đến tâm lý học hay bắt đầu tìm hiểu các vấn đề của thế giới bên trong, đồng thời chỉ ra hành trình nghiên cứu thú vị về con người. Ở đầu mỗi phần, tiến trình được thể hiện khoa học thông qua các sơ đồ tư duy.

tam ly hoc anh 1

Cuốn sách mang đến cho độc giả góc nhìn tổng quát, thông qua trang sách tóm lược về những tư tưởng, quan niệm của các nhà tâm lý.

Phần 1: Những cội rễ triết học tâm lý học trên tiến trình hình thành giới thiệu 14 quan niệm của các triết gia giai đoạn 1649-1895, cho thấy tiến trình phát triển của tâm lý học. Qua đó, người đọc nắm được một vài từ khoá liên quan đến tâm lý con người.

Các quan niệm dừng lại ở mức đưa ra vấn đề, tóm lược bằng sơ đồ tư duy và khái quát cuộc đời của tác giả như: Hãy là chính mình tiếp cận cái tôi từ hướng Chủ nghĩa hiện sinh của Soren Kierkegaard; 24 giờ sau khi học thứ gì đó, chúng ta quên mất hai phần ba của Hermann Ebbinghaus xoay quanh các nghiên cứu về trí nhớ con người; tiếp cận khoa học thần kinh thông qua quan niệm “Vô thức nhìn con người sau những tấm màn che của Pierre Janet… và nhiều quan niệm khác.

Phần 2: Thuyết hành vi phản ứng lại với môi trường của chúng ta vẽ lại hành trình trưởng thành của Tâm lý học khi đã tách ra so với cội nguồn triết học từ giai đoạn 1872-1960, biểu hiện chính là nhiều phòng thí nghiệm, khoa nghiên cứu đã xuất hiện cả ở Châu Âu lẫn Hoa Kỳ. Các nghiên cứu tâm lý học có sự chuyển dịch rõ rệt khi chuyển từ đối tượng “tâm trí” sang “hành vi” con người.

10 quan niệm, 10 hướng tiếp cận được tóm tắt ngắn gọn, khoa học, tiêu biểu như: Không có gì tự nhiên hơn mèo “yêu” chuột của Quách Nhậm Viễn từ hướng tiếp cận Điều kiện hóa cổ điển; Thứ được in vết không thể bỏ quên nghiên cứu về các vấn đề thuộc về tập tính của con người của Konrad Lorenz; Hướng tiếp cận chuyên sâu Ức chế đối ứng của Joseph Wolpe mở ra mối bận tâm về hiện tượng “Ngưng nghĩ về cảnh tượng và thư giãn”.

Phần 3: Liệu pháp tâm lý vô thức quyết định hành vi mang đến cho độc giả các vấn đề nghiên cứu hiện đại từ khi các học thuyết của Sigmund Freud ra đời cùng các liệu pháp tâm lý mới. Liệu pháp tâm lý nhận thức ngày càng phổ biến trong giới trị lúc đương thời (giai đoạn 1895-1967).

Độc giả sẽ được tiếp cận 22 hướng tiếp cận cùng các quan niệm nổi bật về tâm lý con người trong giai đoạn thế chiến thứ nhất và thứ hai. Vô thức là thực tại tinh thần thật sự của Sigmund Freud đã mở ra một trường phái nghiên cứu tâm lý nổi bật trong thế kỷ 20. Đó là Phân tâm học. Sau này, học trò của ông là Carl Jung đã phát triển và nghiên cứu sâu theo hướng Vô thức tập thể được tạo nên từ các cỗ mẫu. Hay Alfred Adler tiếp cận tâm lý con người từ hướng tiếp cận Tâm lý học cá nhân đã ảnh hưởng đến rất nhiều nhà nghiên cứu khắp nơi trên thế giới Người nhiễu tâm luôn có mặc cảm tự ti.

Sigmund Freud, Carl Jung, Alfred Adler là ba trụ cột của ngành Tâm lý học của Phương Tây vào thế kỷ 20.

Phần 4: Tâm lý học nhận thức bộ não tính toán giai đoạn từ 1885-2001 chỉ ra hai hướng nghiên cứu nổi bật nhất thế kỷ 20. Các nhà tâm lý tập trung vào Thuyết hành vi (lý thuyết học tập) và Phân tâm học (vô thức và sự phát triển thời thơ ấu). Khi máy tính, công nghệ dần phát triển, con người rơi vào các vấn đề nhận thức nhiều hơn do tốc độ thông tin truyền tải nhanh. Hướng nghiên cứu tập trung vào “quá trình nhận thức” của con người.

Một số nhà tâm lý và nhà nghiên cứu nổi tiếng có thể kể đến trong giai đoạn này là Wolfgang Kohler với hướng tiếp cận Tâm lý học Gestalt thông qua chủ đề Bản năng là một khuôn mẫu linh động; Số bảy thần kỳ, cộng hoặc trừ hai của George Armitage Miller với đối tượng nghiên cứu là trí nhớ con người. Ông chỉ ra bảy đơn vị thông tin mà hệ thống có thể truyền tải được trong bộ não của con người; Cùng chung hướng tiếp cận Trí nhớ con người, Endel Tulving khám phá vấn đề Mũi tên thời gian được bẻ cong thành một vòng lặp với ba loại trí nhớ: Trí nhớ ngữ nghĩa, Trí nhớ phân đoạn, Trí nhớ thao tác.

Phần 5: Tâm lý học xã hội sống trong thế giới của những người khác từ giai đoạn 1917-1994 bên cạnh đi sâu vào khám phá tâm trí, hành vi con người mà chuyển qua hướng nghiên cứu về môi trường tác động thế nào đến việc hình thành các vấn đề tâm lý. Môi trường xã hội trở thành đối tượng nghiên cứu được nhiều nhà tâm lý lựa chọn, đồng thời ứng dụng vào trị liệu tâm lý.

Tiếp cận tâm lý con người từ hướng Quản lý ấn tượng, Erving Goffman cho rằng Cuộc đời rất giống sân khấu kịch và các tương tác xã hội chẳng khác gì một vở kịch trên sân khấu. Chúng ta luôn muốn tạo ấn tượng tốt đẹp trong tâm trí người khác từ kịch bản, bối cảnh, phục trang, kỹ năng và đạo cụ. Hay Janet Taylor Spence với hướng tiếp cận nghiên cứu giới đã đặt một câu giả thuyết thú vị Ai thích phụ nữ tài giỏi? thay vì các vấn đề về lo âu. Sang chấn cần được hiểu trong mối liên hệ giữa cá nhân với xã hội được Ignacio Martín-Baro tiếp cận theo hướng Tâm lý học khai phóng với quan niệm các sang chấn ảnh do môi trường chính trị xã hội tạo nên.

Phần 6: Tâm lý học phát triển từ trẻ sơ sinh đến người lớn cho thấy tiến trình phát triển của tâm lý học gắn liền với tiến trình phát triển của một người từ lúc sinh ra cho đến khi trường thành, đồng thời, người trực tiếp chăm sóc trẻ sơ sinh có tác động lớn đến quá trình phát triển và hình thành tính cách con người. Giai đoạn 1915-1995, hướng tiếp cận này được nhiều nhà tâm lý, nhà nghiên cứu quan, đặc biệt là sau làn sóng dân quyền và nữ quyền ở Tây Phương.

Một vài tác giả tiêu biểu trong hướng nghiên cứu tâm lý con người này có thể kể đến là Lev Vygotsky với hướng tiếp cận Thuyết kiến tạo xã hội thông qua quan điểm Chúng ta trở thành chính mình thông qua người khác; Eleanor E. Maccoby chỉ ra Con gái thường đạt thành tích học tập tốt hơn con trai từ hướng tiếp cận Tâm lý học nữ quyền; Tự kỉ là một hình thức cực đoan của não bộ theo kiểu nam giới từ hướng tiếp cận Thuyết tâm trí (Simon Baron-Cohen)…

Trong phần này, cuốn sách còn giới thiệu tóm lược hướng tiếp cận và tiểu sử của 15 nhà tâm lý nổi bật giai đoạn này.

Phần 7: Tâm lý học khác biệt nhân cách và trí tuệ là phần cuối nêu bật các vấn đề xoay quanh nhân cách, trí tuệ và cảm xúc con người. Từ năm thập niên 70 của thế kỷ 19 đến thập niên 90 của thế kỷ 20, các nhà khoa học xác nhận tâm trí và hành vi của mỗi người khác nhau. Vì thế, trên tiến trình phát triển sẽ tạo ra tính cá nhân. Tính cá nhân này bị chi phối bởi nhân cách và trí tuệ thông qua môi trường trưởng thành, quá trình học tập – rèn luyện.

9 hướng tiếp cận, 9 quan niệm được đề cập trong cuốn sách này có thể kể đến là Hãy liệt kê mọi cách sử dụng một cái tâm của J.P. Guilford qua hướng tiếp cận Tâm trắc học trí tuệ tập trung vào nghiên cứu khả năng giải quyết vấn đề của con người; Hans J. Eyesenck từ hướng tiếp cận Nhân cách đã chỉ ra Mối liên quan giữa sự mất trí và thiên tài thu hút nhiều độc giả và giới nghiên cứu quan tâm; Ba bộ mặt của Eve của Thigpen & Cleckley tập trung vào chứng rối loạn tâm thần con người.

Nhìn chung, tiến trình phát triển Tâm lý học cho thấy quá trình phát triển và ngày càng chạm sâu hơn đến các vấn đề về thế giới tinh thần của con người. Ngày càng xuất hiện nhiều hướng tiếp cận khác nhau nhằm kịp thời tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề tâm lý trong thời đại biến động như hiện nay.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Zing News

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Zing News mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://zingnews.vn/hanh-trinh-nghien-cuu-thu-vi-ve-the-gioi-ben-trong-cua-con-nguoi-post1441669.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng