Connect with us

Sách hay

Công trình nghiên cứu công phu và tâm huyết về làng Việt cổ truyền

Được phát hành

,

Trong cuốn sách, PGS.TS Bùi Xuân Đính đã giới thiệu các khía cạnh của làng Việt cổ truyền (địa bàn Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ) từ cách tiếp cận của một cuốn từ điển – bách khoa thư.

Từ trước đến nay, làng Việt cổ truyền luôn là đề tài nghiên cứu lý thú, hấp dẫn trên nhiều góc độ: Sử học, Dân tộc học, Văn hóa học, Chính trị học… Đến nay, đã có một lượng lớn công trình nghiên cứu được công bố dưới các thể loại khác nhau: sách, đề tài nghiên cứu khoa học các cấp, luận án, luận văn, bài tạp chí, phóng sự bằng phim ảnh… nhất là sách chuyên khảo về các vấn đề chung của làng xã và về làng xã ở các địa phương.

Giai sach quoc gia anh 1

Sách Bách khoa thư làng Việt cổ truyền. Ảnh: Việt Linh.

Hành trình hơn 40 năm rong ruổi khắp các làng quê

Tuy nhiên, đến nay, chúng ta vẫn thiếu các công trình mang tính tổng kết chuyên sâu để giúp người đọc, nhất là giới trẻ có thể hiểu được một cách khái quát các khía cạnh của đời sống làng Việt xưa kia.

Cuốn Bách khoa thư về làng Việt cổ truyền của PGS.TS Bùi Xuân Đính là kết quả hơn 40 năm nghiên cứu, tìm hiểu, khám phá, gắn bó với đề tài “làng xã” của ông. Cuốn sách đề cập đến hầu hết khía cạnh của làng Việt cổ truyền qua cách tiếp cận của một cuốn từ điển bách khoa thư. Có thể nói đây là một tư liệu quý góp phần khỏa lấp sự thiếu hụt nói trên.

Theo chia sẻ của PGS.TS Bùi Xuân Đính, ông bắt đầu quan tâm nghiên cứu đề tài “Làng xã” từ tháng 12/1978 (thời điểm ông học xong chuyên ngành Dân tộc học tại Khoa Lịch sử, Đại học Tổng hợp Hà Nội, về làm việc tại Viện Dân tộc học, thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam).

Trong suốt mấy chục năm, ông đã rong ruổi khắp các làng quê thuộc các vùng miền để khảo sát, lấy tư liệu. Ông đã đi qua nhiều làng quê thuộc các loại hình khác nhau: làng đồng chiêm, làng đồng mùa, làng ven sông đất bãi, làng nghề, làng buôn bán, làng chài, làng khoa bảng, làng đảo và nhiều làng ven biển. Mỗi làng mỗi vẻ, đã để lại trong tác giả những ấn tượng, ý niệm khác nhau về các nét văn hóa truyền thống.

Trong quá trình rong ruổi đó ông đã thu được một lượng khá lớn tư liệu về nguồn gốc lịch sử, cơ sở kinh tế, thiết chế xã hội, các di tích, phong tục, lễ tiết, hội làng, nguồn văn học dân gian và di văn Hán – Nôm. Một phần tư liệu này đã được ông xử lý thành các luận điểm khoa học trong một số bài viết và một số sách đã công bố. Tuy nhiên, vẫn còn khá nhiều tư liệu chưa được tác giả xử lý bởi những lý do khác nhau.

Vài ba năm trở lại đây, tác giả nung nấu ý định biên soạn cuốn Từ điển làng xã. Thế nhưng, từ điển có đặc điểm câu ngắn gọn, trong khi thực tế, rất nhiều khái niệm liên quan đến khía cạnh của đời sống làng quê có nội hàm rất rộng nên không thể chuyển tải hết được thông tin, kiến thức. Chính vì vậy, ông đã chuyển hướng biên soạn thành cuốn Bách khoa thư làng Việt cổ truyền.

Về việc chuyển hướng này, theo tác giả còn vì những lý do sau:

Thứ nhất, việc nghiên cứu làng xã từ trước đến nay mang tính khái quát cao, song cũng chính vì thế mà mang tính cắt xén, dẫn đến việc không phản ánh đầy đủ đặc điểm, những điểm tương đồng, khác biệt về các khía cạnh đời sống của các làng cùng hoặc khác loại hình, khiến người đi sau muốn tìm hiểu không biết bắt đầu từ đâu.

Thứ hai, những biến đổi toàn diện, sâu sắc của làng quê sau Cách mạng Tháng tám năm 1945 đã làm thay đổi toàn diện và sâu sắc diện mạo làng xã hơn tất thảy những lần thay đổi trước đó. Bên cạnh đó sự biến đổi quá nhanh của đời sống nông thôn trong mấy chục năm gần đây, cũng khiến cho nhiều người khó hình dung, hoặc không biết một số dụng cụ gắn bó thân thiết với người nông dân.

Trong khi đó, những hiện tượng, khía cạnh của đời sống làng quê đã “biến mất” lại chưa được đề cập, hoặc đề cập không được đầy đủ tường tận. Đây cũng là lý do thôi thúc tác giả viết cuốn Bách khoa thư làng Việt cổ truyền.

Giai sach quoc gia anh 2

PGS.TS Bùi Xuân Đính trong một buổi thuyết trình tại CLB Đình Làng Việt. Ảnh: FBNV.

Làm rõ diện mạo khía cạnh đời sống của làng Việt cổ truyền

Trong cuốn sách, PGS.TS Bùi Xuân Đính đã giới thiệu các khía cạnh của làng Việt cổ truyền (địa bàn Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ) từ cách tiếp cận của một cuốn từ điển – bách khoa thư, thông qua các mục từ theo các chủ đề:

– Các mục từ chung về làng xã. Phần này trình bày các nội dung: Làng, xã, thôn.

– Các từ mục về kinh tế và văn hóa vật chất. Phần này trình bày các nội dung: Các mục từ chỉ bộ công cụ trồng trọt và chăn nuôi; các mục từ về tiết khí và các vụ lúa; các mục từ về thao tác kỹ thuật trồng lúa; các mục từ khác về kinh tế; các mục từ về văn hóa vật chất; các mục từ khác về văn hóa vật chất.

– Các mục từ về cơ cấu tổ chức và các quan hệ làng xã. Phần này trình bày các nội dung: Các mục từ về cơ cấu tổ chức làng xã; các mục từ về quan hệ xã hội làng xã và phân tầng xã hội.

– Các mục từ về di tích, tín ngưỡng, lễ thức, phong tục, tập quán, lễ tiết. Phần này trình bày các nội dung: Các mục từ về di tích, tín ngưỡng, lễ thức; các mục từ về phong tục, tập quán, lễ tiết.

– Các mục từ về văn hóa – văn nghệ, di văn Hán Nôm. Phần này trình bày các nội dung: Các mục từ về văn hóa, văn nghệ; các mục từ về di văn Hán Nôm.

Sự phân định các từ theo cụm từ trên, theo tác giả chỉ mang tính chất tương đối, vì rất nhiều từ hàm chứa nội cả về kinh tế, xã hội và văn hóa đan xen lẫn nhau. Chẳng hạn, từ “Đình làng” dùng để chỉ ngôi nhà chung của làng vốn thuộc văn hóa vật chất, song lại hàm chứa các yếu tố văn hóa – xã hội (là nơi sinh hoạt chính trị – xã hội của dân làng) và văn hóa tinh thần, văn hóa tâm linh (nơi thờ thành hoàng và diễn ra các nghi thức tế lễ, các trò diễn trong hội làng, các hình thức sinh hoạt văn hóa). Chính bởi thế, khi đặt một từ ở mục nào, tác giả căn cứ vào nội dung nổi trội nhất mà nó phản ánh.

Cũng theo tác giả, việc trình bày nội dung các mục từ phải thực hiện theo nguyên tắc sau:

Thứ nhất, tập trung giới thiệu các khía cạnh đời sống của làng Việt cổ truyền, song trình bày thêm những diễn biến thay đổi của khía cạnh đó qua một số mốc chính, thời điểm cụ thể tùy sự thay đổi của khía cạnh đó. Các mốc quan trọng nhất là: Cách mạng Tháng tám năm 1945, hòa bình lập lại năm 1954, công cuộc hợp tác hóa từ năm 1958 trở đi và công cuộc hiện đại hóa nông thôn từ năm 1996 đến nay.

Thứ hai, mỗi từ cố gắng làm rõ diện mạo khía cạnh đời sống của làng Việt ở dạng “cổ truyền” từ những gì tác giả được chứng kiến, được biết qua khảo sát thực địa, qua thư tịch hoặc hiện vật, các công trình nghiên cứu, tham khảo ý kiến của các chuyên gia. Đồng thời, đưa ra một số thông tin cơ bản về sự biến đổi của các khía cạnh đó theo thời gian, từ “cổ truyền” đến nay.

Thứ ba, tập trung biên soạn các từ liên quan đến những khía cạnh cơ bản nhất, thiết thân nhất của đời sống làng Việt cổ truyền, không trình bày những từ cụ thể về các loại giống lúa, hoa màu, các nghề thủ công, các món ăn, các hội làng, các loại hình tôn giáo.

Thứ tư, chú trọng đến các yếu tố Dân tộc học / Nhân học, Văn hóa học khi giới thiệu các mặt đời sống mà các từ phản ánh. Chẳng hạn các từ “Ao làng”, “Giếng làng” không chỉ đơn thuần miêu tả nguồn gốc, đặc điểm, công dụng của các yếu tố đó, mà còn đi sâu vào mối quan hệ cộng đồng làng xã xung quanh chúng.

Thứ năm, các từ được sắp xếp theo thứ tự A, B, C theo cụm vấn đề và theo trình tự của vấn đề. Chẳng hạn các cụm từ về “Bộ gia cụ”, “Bộ nông cụ”. Một số từ trong cụm từ này có nội dung dài thì được tách làm từ riêng.

Ngoài những nguyên tắc chính trên, để thuận tiện cho tra cứu, tác giả cũng đưa ra một số nguyên tắc liên quan đến chính tả và trình bày trong cuốn sách.

Với khoảng 340 từ phân bổ trong các mục từ theo các chủ đề, được trình bày công phu, giải thích cặn kẽ, sách Bách khoa thư về làng Việt cổ truyền – kết quả của hơn 40 năm nghiên cứu, tìm hiểu, khám phá, gắn bó với đề tài làng xã của PGS.TS Bùi Xuân Đính – đã làm rõ các khía cạnh đời sống vật chất lẫn tinh thần của làng Việt cổ truyền.

Không những vậy cuốn sách còn là tài liệu tham khảo có giá trị đối với các nhà hoạch định chính sách nông nghiệp, nông thôn, với các nhà nghiên cứu khoa học, nghiên cứu sinh, học viên cao học, sinh viên và tất cả những ai quan tâm đến chủ đề làng xã Việt Nam.

Giải thưởng Sách Quốc gia do Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Xuất bản Việt Nam tổ chức. Lễ trao Giải thưởng Sách Quốc gia lần thứ sáu (2023) tổ chức ngày 29/12/2023 tại Nhà hát Lớn (Hà Nội). Đơn vị tài trợ Kim cương: Ngân hàng VIB, Đơn vị tài trợ bạc: THACO.

Nguồn: https://znews.vn/cong-trinh-nghien-cuu-cong-phu-va-tam-huyet-ve-lang-viet-co-truyen-post1450977.html

Sách hay

Nghệ thuật tranh kiếng trong ‘Nhà gia tiên’

Được phát hành

,

Bởi

Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, nghệ thuật tranh kiếng gắn liền với văn hóa thờ tự và nhiều khía cạnh khác trong đời sống và sinh hoạt của nhiều gia đình Nam bộ.

Phim điện ảnh Nhà gia tiên do Huỳnh Lập đạo diễn gần cán mốc 200 tỷ, gây sốt phòng vé thời gian qua tuy nội dung còn gây tranh cãi song được đánh giá cao ở phần tái dựng bối cảnh. Trong đó, chi tiết nhân vật chính Mỹ Tiên (Phương Mỹ Chi) được ông mình, một người coi sóc đền miếu (nghệ sĩ Trung Dân đóng) kể về nghệ thuật làm tranh kiếng để lại ấn tượng.

Để tái hiện nghệ thuật dân gian này trên màn ảnh rộng, đoàn phim đã mời một nghệ nhân từ Long An thực hiện các tác phẩm tranh kiếng, cũng như đến làng nghề Bà Vệ (An Giang) tìm kiếm, phục chế những bức tranh cũ mục nát, bị vứt bỏ.

Chia sẻ với Tri Thức – Znews, Thạc sĩ Văn hóa học, nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tác giả cuốn sách Tranh dân gian Nam Bộ cho rằng việc tranh kiếng xuất hiện trong phim là một yếu tố không quá bất ngờ. “Bộ phim kể về câu chuyện diễn ra trong một không gian truyền thống với những nội dung phong hóa xưa… mà tranh kiếng là loại công nghệ phẩm ‘trang trí’ không chỉ ở những không gian thờ tự mà cả các không gian sinh hoạt trong nhiều gia đình Nam Bộ”, bà nói.

Sự ra đời và phát triển của tranh kiếng Nam Bộ

Theo nhà nghiên cứu, tranh kiếng có mặt ở cung đình Huế từ thời Minh Mạng – Thiệu Trị, song đó là các sản phẩm mỹ nghệ nhập khẩu. Mãi đầu thế kỷ XX, các di dân Quảng Đông đến lập nghiệp ở vùng Chợ Lớn, mới bắt đầu mở các tiệm kiếng, buôn bán các loại kiếng tráng thủy để soi mặt, lộng khuôn hình, tủ, khung cửa chớp, cửa gió… và các loại tranh kiếng: các bức đại tự và các bức thư họa dùng trong việc khánh chúc tân gia, khai trương, mừng thọ… Tranh kiếng Nam bộ ra đời từ đây.

Đến những năm 1920, nghề vẽ tranh kiếng chuyển địa bàn về Lái Thiêu (Thủ Dầu Một). Sau đó, khoảng những năm 1940-1950, nghề làm tranh kiếng lan tỏa khắp lục tỉnh Nam Kỳ, trụ lại ở Mỹ Tho, Cai Lậy, Gò Công (Tiền Giang ngày nay), Chợ Mới (An Giang), Chợ Trạm (Long An), Tây Ninh… và thâm nhập vào cộng đồng Khmer tạo nên dòng tranh kiếng Khmer Nam bộ ở Trà Vinh và Sóc Trăng…

Tranh kiếng Nam bộ chiếm tỷ lệ lớn là tranh thờ: Trước nhất là tranh thờ Tổ tiên với loại tranh Đại tự, Cửu huyền thất tổ, Sơn thủy (biểu đạt ý nghĩa hiếu đạo của câu ca dao nổi tiếng: Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra), Lão mai (nhằm biểu ý “Cây có cội”), Tre tàn măng mọc (động viên nỗ lực vươn lên của thế hệ hậu bối). Đặc biệt là tranh chân dung của tổ tiên quá vãng.

Thứ hai là tranh thờ các đối tượng thuộc tín ngưỡng dân gian như tranh Ông Địa, Ông Táo, các thần độ mạng… Thứ ba là tranh thờ của các tôn giáo: tranh thờ của Phật giáo như Phật, Bồ Tát, Tổ sư…; tranh thờ của Đạo giáo như Lão Tử cưỡi trâu, Bát Tiên…, tranh thờ của tín đồ Công giáo; tranh “Thiên nhãn” của đạo Cao Đài… Riêng tranh thờ của cộng đồng Khmer Nam bộ cũng như của cộng đồng người Hoa tạo thành một dòng độc đáo có đặc trưng về đề tài cũng như kỹ pháp tạo hình.

Ngoài ra, tranh kiếng trang trí nội ngoại thất, tranh khánh chúc và đặc biệt là loại tranh trang trí xe bán mì, hủ tíu.

“Tranh kiếng là loại tranh vẽ ngược và tô vẽ ở phía sau mặt kiếng, nên tinh hoa nhất trong nghệ thuật này là tài năng vẽ tranh, vờn màu, sắp xếp bố cục chính phụ sao cho có được một bức tranh đúng với mục đích sử dụng của nó và đẹp mắt về mặt mỹ thuật”, tác giả Huỳnh Thanh Bình chia sẻ. Thách thức lớn nhất của người nghệ nhân tranh kiếng là phải tạo nên những mẫu tranh đáp ứng được đa dạng yêu cầu về đề tài, về chủng loại; và cần sở đắc một vốn liếng chữ Hán để thể hiện thành những câu đối, những đại tự, những tấm hoành, tấm biển tương thích cho từng nội dung tranh.

Ở Nam bộ, hầu như tranh kiếng có mặt ở mọi gia đình, thậm chí nơi đình, đền, chùa, miếu. Việc sử dụng tranh kiếng cho nhu cầu thờ tự, trang trí hoặc chúc tụng… đã trở thành tập quán. Chính vì vậy, tranh kiếng chiếm một vị trí quan trọng trong văn hóa vùng đất này.

Nghệ thuật gắn liền với văn hóa thờ tự

Thờ tự tổ tiên là tập tục quan trọng trong đời sống văn hóa của xứ ta. Nơi thờ tự tổ tiên theo truyền thống là không gian tâm linh chiếm vị trí trung tâm trong mỗi ngôi nhà. Theo đó, việc trang nghiêm nơi thờ tự tổ tiên luôn được coi trọng. Theo tác giả sách Tranh dân gian Nam Bộ, từ cuối thế kỷ 19 đến nay, theo sự phát triển của tranh kiếng, các bộ tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng ra đời và dần dần thay thế loại tranh thờ tổ tiên ở dạng bích họa hoặc tranh thờ cẩn ốc xà cừ hay các bức chạm gỗ sơn son thiếp vàng hay sơn then thiếp vàng.

“Từ bấy đến nay, tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng đã không ngừng canh cải, tạo tác nên nhiều loại khác nhau”, bà Huỳnh Thanh Bình cho hay. Có loại chỉ là những bức đại tự, có loại chỉ là “bài vị” với dòng chữ Cửu Huyền thất tổ, đặc biệt là những bộ tranh vẽ cảnh sơn thủy hoặc có loại phát triển từ bộ tranh Tứ thời Mai-Lan-Cúc-Trúc

nha gia tien anh 4

Nhà nghiên cứu, tác giả Huỳnh Thanh Bình với tác phẩm Tranh dân gian Nam Bộ. Ảnh: Quỳnh My.

Cửu huyền thất tổ – bức tranh kiếng đầu tiên xuất hiện trong Nhà gia tiên – là một kiểu loại của bộ tranh thờ tổ tiên thuộc loại tranh đại tự, với dòng chữ “Cửu Huyền thất tổ”. Loại tranh này phổ biến ở miền Tây Nam Bộ, đặc biệt là các cộng đồng theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo và cả cộng đồng tín đồ đạo Cao Đài Tây Ninh.

Ở loại tranh này thì mỗi bộ gồm năm tấm ghép lại: Tấm biển nằm trên cùng, ghi tên tộc họ: “Nguyễn phủ đường”, “Lê phủ đường”…, hay “Đức lưu phương” hoặc “Phước Lộc Thọ”. Bức chính nằm giữa tranh, ghi bốn chữ Cửu huyền thất tổ và được trang trí bằng đồ hình tứ linh.

Bao quanh tấm tranh chính là bốn tấm tranh khác: bức thượng thổ ở phía trên (vẽ hình cuốn thư, hay năm sản xuất); bức hạ thổ ghép dưới đáy (thường trang trí hoa-điểu hay mâm ngũ quả) và đôi liễn, đặt dọc hai bên tấm chính, nội dung tôn vinh công đức của cha mẹ, tổ tiên.

Ngoài ra còn có bộ tranh thờ tổ tiên ba bức hay giản tiện hơn, loại tranh kiếng thờ tổ tiên này được thu gọn thành một bức duy nhất, đơn giản với chữ “Cửu Huyền Thất Tổ” ở chính giữa; hai bên là hai câu đối:

“Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,

Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu”.

Hay “Kính cửu huyền thiên niên bất tận

Trọng thất tổ nội ngoại tương đồng”.

Loại tranh thờ Cửu huyền thất tổ còn thấy trong bộ ba bức chín tròng với bức chính ở giữa từng chữ Cửu huyền thất tổ được thể hiện trong những ô tròn ở cả dạng thức Hán tự lẫn quốc ngữ trên nền sơn thủy hay dọc theo cội lão mai…

Ngày nay, tranh kiếng bị các loại tranh công nghiệp cạnh tranh. Song theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tranh kiếng vẽ thủ công vẫn được công chúng hâm mộ. Đây đó, nghề vẽ tranh kiếng vẫn còn tồn tại; thậm chí có nơi phát triển có quy mô hơn trước, và tiếp thu các kỹ thuật in lụa, in 3D…

Tác giả Huỳnh Thanh Bình sinh năm 1985, hiện công tác tại Bảo tàng TP.HCM. Bà từng xuất bản một số tác phẩm như Tranh kiếng Nam Bộ (2013); Biểu tượng thần thoại về chư thiên và linh vật Phật giáo (2018, Tái bản 2024); Tranh tường Khmer Nam Bộ (2020); Quy pháp đồ tượng Hindu và Phật giáo Ấn Độ (2021); Tranh dân gian Nam Bộ (2024).

Nguồn: https://znews.vn/nghe-thuat-tranh-kieng-trong-nha-gia-tien-post1535551.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzeimer

Được phát hành

,

Bởi

“Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzheimer” của Tiến sĩ Y khoa Richard Restak là một tác phẩm toàn diện, khám phá cách trí nhớ hoạt động và cách tối ưu hóa khả năng ghi nhớ.

Phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ.

Những lo lắng về trí nhớ phổ biến đến mức nào?

Có nhiều lý do để quan tâm đến trí nhớ của bạn. Hãy xem xét những điều này: phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ. Nói ngắn gọn, trí nhớ chính là chìa khóa cho việc tăng cường trí não.

Ở Mỹ ngày nay, tất cả những người trên 50 tuổi đều đang sống trong nỗi sợ hãi mang tên Big A – bệnh Alzheimer. Các cuộc gặp gỡ nho nhỏ (bữa tối, tiệc cocktail, v.v.) mang bầu không khí như một phân đoạn từ chương trình đố vui hằng tuần “Chờ đã… Đừng nói là” của đài NPR. Đó là chương trình mà các khách mời sẽ ganh đua với nhau trong những cuộc thi căng thẳng để trở thành người đầu tiên nghĩ ra tên của những thứ như diễn viên đóng một vai nào đó trong loạt phim truyền hình ngắn mới nhất mà mọi người đang say mê theo dõi.

Gần như chắc chắn là ai đó sẽ lấy điện thoại di động ra để kiểm tra độ chính xác của người trả lời đầu tiên. Nhanh, nhanh hơn nữa, nhanh nhất kẻo người khác nghi ngờ bạn đang có những triệu chứng ban đầu của Big A.

Tri nho anh 1

Trí nhớ là một phần vô cùng quan trọng của con người. Ảnh: Nativespeaker.

Mặc dù bệnh Alzheimer không phổ biến như nhiều người vẫn lo sợ, nhưng người ta đang ngày càng bày tỏ lo lắng về chứng mất trí nhớ mà họ cảm nhận được với bạn bè của mình. Chúng cũng là những lời than thở phổ biến nhất mà những người trên 55 tuổi chia sẻ với bác sĩ của họ.

Những lo lắng về trí nhớ như vậy thường phi lý và khơi dậy sự lo lắng không cần thiết. Sự lo lắng phổ biến này đã góp phần tạo ra một mối quan ngại rộng rãi về trí nhớ và các dấu hiệu suy giảm trí nhớ. Một trong những lý do của sự hoảng loạn này là sự nhầm lẫn trong tư duy của nhiều người về cách chúng ta hình thành ký ức.

Hãy cố gắng nhớ lại một chuyện gì đó đã xảy ra với bạn vào đầu ngày hôm nay. Nó không nhất thiết phải là một chuyện đặc biệt – bất kỳ sự kiện thông thường nào cũng được. Giờ hãy xem ký ức đó đã hình thành như thế nào.

Theo yêu cầu của tôi, bạn đã truy xuất ký ức về một chuyện gì đó mà có lẽ bạn sẽ không nghĩ tới nếu tôi không thúc giục bạn nhớ lại nó và bạn không nỗ lực để truy xuất nó.

Về bản chất, trí nhớ là trải nghiệm lại một chuyện gì đó trong quá khứ dưới dạng một hồi ức. Về mặt hoạt động, ký ức là sản phẩm cuối cùng của những nỗ lực của chúng ta trong hiện tại nhằm truy xuất những thông tin được lưu trữ trong não mình.

Ký ức – tương tự những giấc mơ và hành động tưởng tượng – khác nhau tùy theo mỗi người. Ký ức của tôi khác biệt rõ rệt với ký ức của bạn vì chúng dựa trên trải nghiệm sống cá nhân của chúng ta.

Ký ức cũng khác với hình ảnh hoặc video về các sự kiện trong quá khứ. Mặc dù các phiên bản dựa trên công nghệ này của quá khứ có thể đóng vai trò là công cụ kích thích trí nhớ, nhưng bản thân chúng không phải là ký ức.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-ban-nen-quan-tam-den-tri-nho-cua-minh-post1535566.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Vương miện xanh

Được phát hành

,

Bởi

Tập sách là hành trình từ hậu trường sân khấu các cuộc thi người đẹp, nơi người thắng cuộc được yêu quý nhưng cũng hứng chịu các phán xét khắt khe của công chúng, đến các dự án xanh của Hoa hậu Môi trường Thế giới Nguyễn Thanh Hà.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất.

Năm 2022, tôi bước lên bục cao sân khấu Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh đăng quang Hoa hậu Môi trường Việt Nam.

Năm 2023, tôi tiếp tục trở thành người Việt Nam đầu tiên chinh phục vương miện Miss Eco International 2023 (Hoa hậu Môi trường Thế giới) tại Cairo, Ai Cập giữa những phấn khích và xúc động.

Chiếc vương miện đã thay đổi tôi. Từ một cô bé vô tư trong chiếc “tổ kén” gia đình nuôi dưỡng gần 20 năm qua, nay tôi bước ra thế giới rộng lớn và choáng ngợp với những điều không thể ngờ đến. Thế giới đã “dạy” tôi lớn lên, trước những vô lo, niềm vui, nỗi buồn, cảm xúc của tuổi vừa rời ghế nhà trường.

Nhiệm kỳ hoa hậu của tôi đã kết thúc, nhưng tôi vẫn tiếp tục sứ mệnh trên con đường đã chọn, đó là tình yêu, là trái tim, là thanh xuân, là giá trị sống.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất. Thế giới đó, có gì ở lại cùng tôi? Có gì đã khiến tôi dũng cảm đi tiếp trong khoảng thời gian đầy khó khăn đó?

Hoa hau anh 1

Hoa hậu môi trường thế giới 2023 Nguyễn Thanh Hà. Ảnh: Vietnam.vn.

Một mình trên sân khấu

Ngay khi vừa đạt cột mốc “đủ tuổi”, tôi lập tức đăng ký cuộc thi Hoa hậu Môi trường Việt Nam. Lúc ấy, tôi chỉ nghĩ rằng, phải thực hiện ước mơ của mình ngay khi có cơ hội. Ước mơ làm hoa hậu? Không hẳn! Đó là ước mơ được làm gì đó, thật cụ thể, thật thiết thực cho môi trường sống này, cho hành tinh này.

Nếu trở thành hoa hậu, tôi sẽ có ưu thế hơn, có thể xuất hiện trước nhiều người để bày tỏ những vấn đề về môi trường, đánh động sự quan tâm của nhiều người hơn. Nghĩ là làm, thật may mắn, tôi đã thành công và đăng quang khi lần đầu thử sức ở một đấu trường sắc đẹp mà mục tiêu không phải để trở thành người đẹp được ca ngợi hay được công nhận về nhan sắc. Tôi chỉ muốn nhắm tới sứ mệnh vì môi trường như chính danh hiệu mà cuộc thi đã trao.

Tôi bỗng nhớ đến câu nói trong Nhà Giả Kim: “Khi bạn thực sự mong muốn một điều gì, cả vũ trụ sẽ hợp lại giúp bạn đạt được nó”. Phải chăng, tôi thành công vì tôi khao khát điều đó mãnh liệt?

Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã nhiều lần tự đặt câu hỏi cho bản thân: Là một người trẻ lớn lên trong điều kiện sống đầy đủ, được ăn ngon mặc đẹp và có nhiều cơ hội học tập hơn thế hệ ông bà, ba mẹ ngày xưa, liệu tôi có thể làm ngơ trước những mối đe dọa đang rình rập môi trường sống của chúng ta như rác thải, ô nhiễm, hạn mặn, lũ lụt, phá rừng hay hiệu ứng nhà kính không? Chính vì vậy, tôi đã quyết định tham gia cuộc thi Hoa hậu Môi trường. Hai chữ “môi trường” trong danh hiệu chính là nguồn sức mạnh và động lực để tôi hành động.

Ban đầu, tôi cũng mang trong mình rất nhiều lo ngại: Liệu mình có đủ khả năng không? Liệu có thể vượt qua những thí sinh tài năng khác? Tuy nhiên, tôi nhận ra, niềm khao khát mạnh mẽ muốn thử thách bản thân và tìm kiếm những cơ hội mới để trưởng thành còn lớn hơn. Điều thôi thúc tôi tham gia không chỉ là mong muốn thể hiện bản thân, mà còn ở khát khao được lan tỏa những giá trị tích cực về bảo vệ môi trường đến cộng đồng.

Nguồn: https://znews.vn/chiec-vuong-mien-thay-doi-cuoc-doi-hoa-hau-moi-truong-the-gioi-post1535563.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng