Connect with us

Sách hay

Công bố Nobel Văn chương 2020: Nữ thi sĩ người Mỹ Louise Gluck thắng giải

Được phát hành

,

Nobel Văn chương 2020 thuộc về nữ thi sĩ người Mỹ Louise Gluck. Ủy ban Nobel vinh danh Louise Gluck vì “âm điệu đầy chất thơ không thể nhầm lẫn với vẻ đẹp đơn sơ khiến sự hiện hữu của cá nhân trở nên một điều phổ quát”.

Công bố Nobel Văn chương 2020: Nữ thi sĩ người Mỹ Louise Gluck thắng giải - Ảnh 1.

Nobel Văn chương 2020 thuộc về nữ thi sĩ người Mỹ Louise Gluck

Gluck, sinh năm 1943, từng giành nhiều giải thưởng văn chương lớn ở Mỹ, bao gồm Huy chương Nhân văn quốc gia, giải Pulitzer, giải Sách Quốc gia, giải Phê bình Sách Quốc gia, và giải Bollingen. 

Các năm 2003 và 2004, bà được vinh danh là Thi sĩ Hoa Kỳ, tức nhà thơ chính thức đại diện cho nước Mỹ và nền thi ca Mỹ.

Thi ca của Gluck thường được mô tả là mang tính tự truyện; tác phẩm của bà đậm đặc cảm xúc và thường xuyên dựa vào những huyền tích, lịch sử, hay tự nhiên để truyền tải những trải nghiệm cá nhân và đời sống hiện đại.

Thơ của Gluck còn mô tả những khía cạnh của sang chấn, khát khao, và bản thể, với đặc trưng là cách biểu đạt thẳng thắng nỗi buồn và sự cô độc. Giới phê bình cũng nói nhiều về việc xây dựng “nhân cách thơ” và mối quan hệ giữa tiểu sử cá nhân và huyền tích cổ điển trong thi ca của Gluck.

Gluck sinh ở Thành phố New York và từng mắc chứng chán ăn bệnh lý khi học cấp ba, dù sau này đã khỏi bệnh. Hiện bà là giáo sư ở Đại học Yale và sống ở Cambridge, Massachusetts, Hoa Kỳ.

Lựa chọn này của Ủy ban Nobel có lẽ như một lời nhắc nhở rằng giữa thời đại đầy bối rối và hoang mang của dịch bệnh, mạng xã hội, sự chia rẽ và phân cực có lẽ chưa từng thấy khắp thế giới hiện giờ, thi ca không chỉ vẫn có chỗ đứng, mà có thể sẽ là hy vọng cứu rỗi – thậm chí là hy vọng duy nhất – cho nhân sinh, dù mong manh thế nào.

Hôn nhân

Một bài thơ của Louise Gluck – Vũ Hoàng Linh dịch

Cả tuần, họ lại ra biển

và âm thanh của biển phủ màu lên mọi vật.

Bầu trời xanh lấp tràn khung cửa sổ.

Nhưng tiếng động duy nhất là tiếng sóng vỗ bờ-

giận dữ. Giận dữ vì gì đó. Vì điều gì đó

khiến anh ngoảnh mặt đi. Giận dữ, dù anh không bao giờ đánh nàng,

và có thể chưa bao giờ anh nói đến.

Và nàng phải tự tìm câu trả lời theo một cách khác,

từ biển, có thể, hoặc từ những đám mây xám bất chợt

hiện bên trên. Mùi của biển ở trong chăn đệm,

mùi của nắng và gió, mùi khách sạn, dịu ngọt và tươi mới

bởi họ thay chúng mỗi ngày.

Không bao giờ anh nói. Từ ngữ, với anh, là để thỏa thuận, để làm ăn.

Không bao giờ cho giận dữ, không bao giờ cho trìu mến.

Nàng vuốt ve lưng anh. Nàng vùi mặt mình lên đấy,

như thể đang vùi mặt mình lên một bức tường.

Và im lặng giữa họ cổ xưa: nó nói

có những biên giới.

Anh không ngủ, cũng không vờ đang ngủ.

Hơi thở anh không đều đặn: anh hít vào lưỡng lự;

anh không muốn cam kết mình với cuộc sống.

Và anh thở ra nhanh, như vị vua xua đuổi tên hầu.

Ở phía dưới im lặng, tiếng biển,

sự dữ dội của biển lan đi khắp nơi, không kết thúc, không kết thúc,

hơi thở của anh đẩy đi những ngọn sóng-

Nhưng nàng biết nàng là ai và nàng biết điều mình muốn.

Chừng nào điều đó đúng, một cái gì tự nhiên như vậy không thể khiến nàng đau.

Công bố Nobel Văn chương 2020: Nữ thi sĩ người Mỹ Louise Gluck thắng giải - Ảnh 3.

Ngày 27-11-1895, Alfred Nobel ký bản chúc thư cuối cùng của ông dành phần lớn tài sản thừa kế của ông để trao giải Nobel.

Trong chúc thư, Nobel Văn chương được quy định sẽ trao cho “người sản sinh ra trong lĩnh vực văn chương tác phẩm xuất chúng nhất hướng về những lý tưởng cao đẹp”.

Tính từ lần đầu là năm 1901 tới nay, Nobel Văn chương đã được trao 112 lần cho 116 tác giả. Có 6 năm giải không được trao vì các cuộc Thế chiến: 1914, 1918, 1940, 1941, 1942, và 1943. Giải cũng không được trao năm 1935, nhưng lý do chính thức không bao giờ được công bố.

Một lời giải thích là năm đó, Ủy ban Nobel đã cân nhắc trao giải cho tiểu thuyết gia người Pháp Roger Martin du Gard, nhưng ông này đang viết tập bảy một trường thiên tiểu thuyết và ủy ban đã hoãn chưa quyết định vội.

Tác phẩm cuối cùng in vào tháng 11-1936 và đến 1937, Du Gard mới được trao Nobel Văn chương danh giá.

Cũng có 4 lần giải Nobel được chia sẻ cho hai cá nhân.

Cụ thể là vào các năm

– 1904: Frédéric Mistral (người Pháp) và José Echegaray (Tây Ban Nha)

– 1917: Karl Gjellerup và Henrik Pontoppidan (đều Đan Mạch)

– 1966: Shmuel Agnon (Israel) và Nelly Sachs (Đức – Thụy Điển)

– 1974: Eyvind Johnson và Harry Martinson (đều Thụy Điển).

1974 cũng là lần cuối cùng Nobel Văn chương được trao cho hai người. Lý do khiến giải này hiếm khi được chia sẻ hơn hẳn so với các giải Nobel khác “có lẽ là vì bản chất của văn chương.

Các giải khoa học thường được trao chung, vì thành tựu là chung, hay cho những người có các nghiên cứu gần gũi với nhau”, trang web của giải Nobel giải thích.

Tác giả trẻ nhất từng được trao giải là nhà thơ – nhà văn người Anh Rudyard Kipling (nổi tiếng nhất với truyện The Jungle Book): ông nhận giải vào năm 1907 khi mới 41 tuổi.

Người cao tuổi nhất là Doris Lessing, tác giả người Anh – Zimbabwe, 88 tuổi khi nhận giải năm 2007.

Có 15 phụ nữ đã nhận Nobel Văn chương, người đầu tiên là nhà văn Thụy Điển Selma Lagerlöf năm 1909 (5 năm sau, chính Lagerlöf được bầu vào Viện Hàn lâm Thụy Điển). Nữ tác giả gần nhất được trao giải là Olga Tokarczuk, người Ba Lan, năm 2018.

Cũng đã có hai nhà văn từng từ chối giải Nobel, Boris Pasternak vào năm 1958, người lúc đầu “đã nhận giải, nhưng sau đó bị chính quyền nước ông ép phải từ chối”.

Tiểu thuyết gia hiện sinh người Pháp Jean Paul Sartre từ chối Nobel Văn chương 1964 vì “lập trường nhất quán của tôi là từ chối mọi sự tôn vinh chính thức” (dù có nguồn tin nói Sartre vẫn hỏi xem ông vẫn nhận tiền thưởng thì có được không).

Lần duy nhất giải Nobel được trao cho tác giả đã qua đời là năm 1931, cho nhà thơ Thụy Điển Erik Axel Karlfeldt. Karlfeldt mất tháng 4-1931, 6 tháng trước khi giải được công bố. Từ năm 1974, Quỹ Nobel chính thức quy định giải sẽ không thể trao cho người đã khuất.

Trong quá khứ, một vấn đề gai góc với quá trình đề cử và lựa chọn giải là các ứng viên đồng thời là viện sĩ Viện Hàn lâm, tức “vừa đá bóng, vừa thổi còi”. Cả sáu tác giả người Thụy Điển từng nhận giải Nobel đều là thành viên Viện Hàn lâm.

Alfred Nobel ngay từ đầu đã có tầm nhìn quốc tế trong di chúc của ông, nêu rõ vấn đề quốc tịch của người được trao giải không quan trọng: giải thưởng sẽ được trao cho người xứng đáng nhất, “dù có phải người Scandinavia hay không”.

Dẫu vậy, Nobel Văn chương cho tới giờ đã được trao cho 29 tác giả viết bằng tiếng Anh, 15 bằng tiếng Pháp, và 14 bằng tiếng Đức – cũng là ba ngôn ngữ dẫn đầu trong danh sách trao giải.

Một trong những sự thật thú vị về Nobel Văn chương nữa là trong khi nhiều người vẫn nghĩ cố Thủ tướng Anh Winston Churchill được trao Nobel Hòa bình, thật ra ông nhận giải Nobel Văn chương vào năm 1953.

Giai đoạn 1945-1953, Churchill được đề cử 21 lần cho Nobel Văn chương, nhưng chỉ 2 lần cho Nobel Hòa bình.

Trong khi Nobel Văn chương trao cho tác giả, có 9 lần Viện Hàn lâm đã nêu đích danh tác phẩm khi trao giải, cụ thể là:

Mikhail Sholokhov (Nga, 1965) – Sông Đông êm đềm (tiểu thuyết)

Ernest Hemingway (Mỹ, 1954) – Ông già và biển cả (tiểu thuyết)

Roger Martin Du Gard (Pháp, 1937) – Gia đình Thibault (tiểu thuyết)

John Galsworthy (Anh, 1932) – Truyện gia đình Forsyte (tiểu thuyết)

Thomas Mann (Đức, 1929) – Gia đình Buddenbrooks (tiểu thuyết)

Wladyslaw Reymont (Ba Lan, 1924) – Nông dân (tiểu thuyết)

Knut Hamsun (Na Uy, 1920) – Phúc lành của đất (tiểu thuyết)

Carl Spitteler (Thụy Sĩ, 1919) – Mùa xuân Olympia (trường ca)

Theodor Mommsen (Đức, 1902) – Lịch sử La Mã (tổng tập lịch sử)

Nguồn: https://tuoitre.vn/cong-bo-nobel-van-chuong-2020-nu-thi-si-nguoi-my-louise-gluck-thang-giai-20201008153836319.htm

Sách hay

Nghệ thuật tranh kiếng trong ‘Nhà gia tiên’

Được phát hành

,

Bởi

Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, nghệ thuật tranh kiếng gắn liền với văn hóa thờ tự và nhiều khía cạnh khác trong đời sống và sinh hoạt của nhiều gia đình Nam bộ.

Phim điện ảnh Nhà gia tiên do Huỳnh Lập đạo diễn gần cán mốc 200 tỷ, gây sốt phòng vé thời gian qua tuy nội dung còn gây tranh cãi song được đánh giá cao ở phần tái dựng bối cảnh. Trong đó, chi tiết nhân vật chính Mỹ Tiên (Phương Mỹ Chi) được ông mình, một người coi sóc đền miếu (nghệ sĩ Trung Dân đóng) kể về nghệ thuật làm tranh kiếng để lại ấn tượng.

Để tái hiện nghệ thuật dân gian này trên màn ảnh rộng, đoàn phim đã mời một nghệ nhân từ Long An thực hiện các tác phẩm tranh kiếng, cũng như đến làng nghề Bà Vệ (An Giang) tìm kiếm, phục chế những bức tranh cũ mục nát, bị vứt bỏ.

Chia sẻ với Tri Thức – Znews, Thạc sĩ Văn hóa học, nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tác giả cuốn sách Tranh dân gian Nam Bộ cho rằng việc tranh kiếng xuất hiện trong phim là một yếu tố không quá bất ngờ. “Bộ phim kể về câu chuyện diễn ra trong một không gian truyền thống với những nội dung phong hóa xưa… mà tranh kiếng là loại công nghệ phẩm ‘trang trí’ không chỉ ở những không gian thờ tự mà cả các không gian sinh hoạt trong nhiều gia đình Nam Bộ”, bà nói.

Sự ra đời và phát triển của tranh kiếng Nam Bộ

Theo nhà nghiên cứu, tranh kiếng có mặt ở cung đình Huế từ thời Minh Mạng – Thiệu Trị, song đó là các sản phẩm mỹ nghệ nhập khẩu. Mãi đầu thế kỷ XX, các di dân Quảng Đông đến lập nghiệp ở vùng Chợ Lớn, mới bắt đầu mở các tiệm kiếng, buôn bán các loại kiếng tráng thủy để soi mặt, lộng khuôn hình, tủ, khung cửa chớp, cửa gió… và các loại tranh kiếng: các bức đại tự và các bức thư họa dùng trong việc khánh chúc tân gia, khai trương, mừng thọ… Tranh kiếng Nam bộ ra đời từ đây.

Đến những năm 1920, nghề vẽ tranh kiếng chuyển địa bàn về Lái Thiêu (Thủ Dầu Một). Sau đó, khoảng những năm 1940-1950, nghề làm tranh kiếng lan tỏa khắp lục tỉnh Nam Kỳ, trụ lại ở Mỹ Tho, Cai Lậy, Gò Công (Tiền Giang ngày nay), Chợ Mới (An Giang), Chợ Trạm (Long An), Tây Ninh… và thâm nhập vào cộng đồng Khmer tạo nên dòng tranh kiếng Khmer Nam bộ ở Trà Vinh và Sóc Trăng…

Tranh kiếng Nam bộ chiếm tỷ lệ lớn là tranh thờ: Trước nhất là tranh thờ Tổ tiên với loại tranh Đại tự, Cửu huyền thất tổ, Sơn thủy (biểu đạt ý nghĩa hiếu đạo của câu ca dao nổi tiếng: Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra), Lão mai (nhằm biểu ý “Cây có cội”), Tre tàn măng mọc (động viên nỗ lực vươn lên của thế hệ hậu bối). Đặc biệt là tranh chân dung của tổ tiên quá vãng.

Thứ hai là tranh thờ các đối tượng thuộc tín ngưỡng dân gian như tranh Ông Địa, Ông Táo, các thần độ mạng… Thứ ba là tranh thờ của các tôn giáo: tranh thờ của Phật giáo như Phật, Bồ Tát, Tổ sư…; tranh thờ của Đạo giáo như Lão Tử cưỡi trâu, Bát Tiên…, tranh thờ của tín đồ Công giáo; tranh “Thiên nhãn” của đạo Cao Đài… Riêng tranh thờ của cộng đồng Khmer Nam bộ cũng như của cộng đồng người Hoa tạo thành một dòng độc đáo có đặc trưng về đề tài cũng như kỹ pháp tạo hình.

Ngoài ra, tranh kiếng trang trí nội ngoại thất, tranh khánh chúc và đặc biệt là loại tranh trang trí xe bán mì, hủ tíu.

“Tranh kiếng là loại tranh vẽ ngược và tô vẽ ở phía sau mặt kiếng, nên tinh hoa nhất trong nghệ thuật này là tài năng vẽ tranh, vờn màu, sắp xếp bố cục chính phụ sao cho có được một bức tranh đúng với mục đích sử dụng của nó và đẹp mắt về mặt mỹ thuật”, tác giả Huỳnh Thanh Bình chia sẻ. Thách thức lớn nhất của người nghệ nhân tranh kiếng là phải tạo nên những mẫu tranh đáp ứng được đa dạng yêu cầu về đề tài, về chủng loại; và cần sở đắc một vốn liếng chữ Hán để thể hiện thành những câu đối, những đại tự, những tấm hoành, tấm biển tương thích cho từng nội dung tranh.

Ở Nam bộ, hầu như tranh kiếng có mặt ở mọi gia đình, thậm chí nơi đình, đền, chùa, miếu. Việc sử dụng tranh kiếng cho nhu cầu thờ tự, trang trí hoặc chúc tụng… đã trở thành tập quán. Chính vì vậy, tranh kiếng chiếm một vị trí quan trọng trong văn hóa vùng đất này.

Nghệ thuật gắn liền với văn hóa thờ tự

Thờ tự tổ tiên là tập tục quan trọng trong đời sống văn hóa của xứ ta. Nơi thờ tự tổ tiên theo truyền thống là không gian tâm linh chiếm vị trí trung tâm trong mỗi ngôi nhà. Theo đó, việc trang nghiêm nơi thờ tự tổ tiên luôn được coi trọng. Theo tác giả sách Tranh dân gian Nam Bộ, từ cuối thế kỷ 19 đến nay, theo sự phát triển của tranh kiếng, các bộ tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng ra đời và dần dần thay thế loại tranh thờ tổ tiên ở dạng bích họa hoặc tranh thờ cẩn ốc xà cừ hay các bức chạm gỗ sơn son thiếp vàng hay sơn then thiếp vàng.

“Từ bấy đến nay, tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng đã không ngừng canh cải, tạo tác nên nhiều loại khác nhau”, bà Huỳnh Thanh Bình cho hay. Có loại chỉ là những bức đại tự, có loại chỉ là “bài vị” với dòng chữ Cửu Huyền thất tổ, đặc biệt là những bộ tranh vẽ cảnh sơn thủy hoặc có loại phát triển từ bộ tranh Tứ thời Mai-Lan-Cúc-Trúc

nha gia tien anh 4

Nhà nghiên cứu, tác giả Huỳnh Thanh Bình với tác phẩm Tranh dân gian Nam Bộ. Ảnh: Quỳnh My.

Cửu huyền thất tổ – bức tranh kiếng đầu tiên xuất hiện trong Nhà gia tiên – là một kiểu loại của bộ tranh thờ tổ tiên thuộc loại tranh đại tự, với dòng chữ “Cửu Huyền thất tổ”. Loại tranh này phổ biến ở miền Tây Nam Bộ, đặc biệt là các cộng đồng theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo và cả cộng đồng tín đồ đạo Cao Đài Tây Ninh.

Ở loại tranh này thì mỗi bộ gồm năm tấm ghép lại: Tấm biển nằm trên cùng, ghi tên tộc họ: “Nguyễn phủ đường”, “Lê phủ đường”…, hay “Đức lưu phương” hoặc “Phước Lộc Thọ”. Bức chính nằm giữa tranh, ghi bốn chữ Cửu huyền thất tổ và được trang trí bằng đồ hình tứ linh.

Bao quanh tấm tranh chính là bốn tấm tranh khác: bức thượng thổ ở phía trên (vẽ hình cuốn thư, hay năm sản xuất); bức hạ thổ ghép dưới đáy (thường trang trí hoa-điểu hay mâm ngũ quả) và đôi liễn, đặt dọc hai bên tấm chính, nội dung tôn vinh công đức của cha mẹ, tổ tiên.

Ngoài ra còn có bộ tranh thờ tổ tiên ba bức hay giản tiện hơn, loại tranh kiếng thờ tổ tiên này được thu gọn thành một bức duy nhất, đơn giản với chữ “Cửu Huyền Thất Tổ” ở chính giữa; hai bên là hai câu đối:

“Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,

Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu”.

Hay “Kính cửu huyền thiên niên bất tận

Trọng thất tổ nội ngoại tương đồng”.

Loại tranh thờ Cửu huyền thất tổ còn thấy trong bộ ba bức chín tròng với bức chính ở giữa từng chữ Cửu huyền thất tổ được thể hiện trong những ô tròn ở cả dạng thức Hán tự lẫn quốc ngữ trên nền sơn thủy hay dọc theo cội lão mai…

Ngày nay, tranh kiếng bị các loại tranh công nghiệp cạnh tranh. Song theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tranh kiếng vẽ thủ công vẫn được công chúng hâm mộ. Đây đó, nghề vẽ tranh kiếng vẫn còn tồn tại; thậm chí có nơi phát triển có quy mô hơn trước, và tiếp thu các kỹ thuật in lụa, in 3D…

Tác giả Huỳnh Thanh Bình sinh năm 1985, hiện công tác tại Bảo tàng TP.HCM. Bà từng xuất bản một số tác phẩm như Tranh kiếng Nam Bộ (2013); Biểu tượng thần thoại về chư thiên và linh vật Phật giáo (2018, Tái bản 2024); Tranh tường Khmer Nam Bộ (2020); Quy pháp đồ tượng Hindu và Phật giáo Ấn Độ (2021); Tranh dân gian Nam Bộ (2024).

Nguồn: https://znews.vn/nghe-thuat-tranh-kieng-trong-nha-gia-tien-post1535551.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzeimer

Được phát hành

,

Bởi

“Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzheimer” của Tiến sĩ Y khoa Richard Restak là một tác phẩm toàn diện, khám phá cách trí nhớ hoạt động và cách tối ưu hóa khả năng ghi nhớ.

Phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ.

Những lo lắng về trí nhớ phổ biến đến mức nào?

Có nhiều lý do để quan tâm đến trí nhớ của bạn. Hãy xem xét những điều này: phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ. Nói ngắn gọn, trí nhớ chính là chìa khóa cho việc tăng cường trí não.

Ở Mỹ ngày nay, tất cả những người trên 50 tuổi đều đang sống trong nỗi sợ hãi mang tên Big A – bệnh Alzheimer. Các cuộc gặp gỡ nho nhỏ (bữa tối, tiệc cocktail, v.v.) mang bầu không khí như một phân đoạn từ chương trình đố vui hằng tuần “Chờ đã… Đừng nói là” của đài NPR. Đó là chương trình mà các khách mời sẽ ganh đua với nhau trong những cuộc thi căng thẳng để trở thành người đầu tiên nghĩ ra tên của những thứ như diễn viên đóng một vai nào đó trong loạt phim truyền hình ngắn mới nhất mà mọi người đang say mê theo dõi.

Gần như chắc chắn là ai đó sẽ lấy điện thoại di động ra để kiểm tra độ chính xác của người trả lời đầu tiên. Nhanh, nhanh hơn nữa, nhanh nhất kẻo người khác nghi ngờ bạn đang có những triệu chứng ban đầu của Big A.

Tri nho anh 1

Trí nhớ là một phần vô cùng quan trọng của con người. Ảnh: Nativespeaker.

Mặc dù bệnh Alzheimer không phổ biến như nhiều người vẫn lo sợ, nhưng người ta đang ngày càng bày tỏ lo lắng về chứng mất trí nhớ mà họ cảm nhận được với bạn bè của mình. Chúng cũng là những lời than thở phổ biến nhất mà những người trên 55 tuổi chia sẻ với bác sĩ của họ.

Những lo lắng về trí nhớ như vậy thường phi lý và khơi dậy sự lo lắng không cần thiết. Sự lo lắng phổ biến này đã góp phần tạo ra một mối quan ngại rộng rãi về trí nhớ và các dấu hiệu suy giảm trí nhớ. Một trong những lý do của sự hoảng loạn này là sự nhầm lẫn trong tư duy của nhiều người về cách chúng ta hình thành ký ức.

Hãy cố gắng nhớ lại một chuyện gì đó đã xảy ra với bạn vào đầu ngày hôm nay. Nó không nhất thiết phải là một chuyện đặc biệt – bất kỳ sự kiện thông thường nào cũng được. Giờ hãy xem ký ức đó đã hình thành như thế nào.

Theo yêu cầu của tôi, bạn đã truy xuất ký ức về một chuyện gì đó mà có lẽ bạn sẽ không nghĩ tới nếu tôi không thúc giục bạn nhớ lại nó và bạn không nỗ lực để truy xuất nó.

Về bản chất, trí nhớ là trải nghiệm lại một chuyện gì đó trong quá khứ dưới dạng một hồi ức. Về mặt hoạt động, ký ức là sản phẩm cuối cùng của những nỗ lực của chúng ta trong hiện tại nhằm truy xuất những thông tin được lưu trữ trong não mình.

Ký ức – tương tự những giấc mơ và hành động tưởng tượng – khác nhau tùy theo mỗi người. Ký ức của tôi khác biệt rõ rệt với ký ức của bạn vì chúng dựa trên trải nghiệm sống cá nhân của chúng ta.

Ký ức cũng khác với hình ảnh hoặc video về các sự kiện trong quá khứ. Mặc dù các phiên bản dựa trên công nghệ này của quá khứ có thể đóng vai trò là công cụ kích thích trí nhớ, nhưng bản thân chúng không phải là ký ức.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-ban-nen-quan-tam-den-tri-nho-cua-minh-post1535566.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Vương miện xanh

Được phát hành

,

Bởi

Tập sách là hành trình từ hậu trường sân khấu các cuộc thi người đẹp, nơi người thắng cuộc được yêu quý nhưng cũng hứng chịu các phán xét khắt khe của công chúng, đến các dự án xanh của Hoa hậu Môi trường Thế giới Nguyễn Thanh Hà.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất.

Năm 2022, tôi bước lên bục cao sân khấu Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh đăng quang Hoa hậu Môi trường Việt Nam.

Năm 2023, tôi tiếp tục trở thành người Việt Nam đầu tiên chinh phục vương miện Miss Eco International 2023 (Hoa hậu Môi trường Thế giới) tại Cairo, Ai Cập giữa những phấn khích và xúc động.

Chiếc vương miện đã thay đổi tôi. Từ một cô bé vô tư trong chiếc “tổ kén” gia đình nuôi dưỡng gần 20 năm qua, nay tôi bước ra thế giới rộng lớn và choáng ngợp với những điều không thể ngờ đến. Thế giới đã “dạy” tôi lớn lên, trước những vô lo, niềm vui, nỗi buồn, cảm xúc của tuổi vừa rời ghế nhà trường.

Nhiệm kỳ hoa hậu của tôi đã kết thúc, nhưng tôi vẫn tiếp tục sứ mệnh trên con đường đã chọn, đó là tình yêu, là trái tim, là thanh xuân, là giá trị sống.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất. Thế giới đó, có gì ở lại cùng tôi? Có gì đã khiến tôi dũng cảm đi tiếp trong khoảng thời gian đầy khó khăn đó?

Hoa hau anh 1

Hoa hậu môi trường thế giới 2023 Nguyễn Thanh Hà. Ảnh: Vietnam.vn.

Một mình trên sân khấu

Ngay khi vừa đạt cột mốc “đủ tuổi”, tôi lập tức đăng ký cuộc thi Hoa hậu Môi trường Việt Nam. Lúc ấy, tôi chỉ nghĩ rằng, phải thực hiện ước mơ của mình ngay khi có cơ hội. Ước mơ làm hoa hậu? Không hẳn! Đó là ước mơ được làm gì đó, thật cụ thể, thật thiết thực cho môi trường sống này, cho hành tinh này.

Nếu trở thành hoa hậu, tôi sẽ có ưu thế hơn, có thể xuất hiện trước nhiều người để bày tỏ những vấn đề về môi trường, đánh động sự quan tâm của nhiều người hơn. Nghĩ là làm, thật may mắn, tôi đã thành công và đăng quang khi lần đầu thử sức ở một đấu trường sắc đẹp mà mục tiêu không phải để trở thành người đẹp được ca ngợi hay được công nhận về nhan sắc. Tôi chỉ muốn nhắm tới sứ mệnh vì môi trường như chính danh hiệu mà cuộc thi đã trao.

Tôi bỗng nhớ đến câu nói trong Nhà Giả Kim: “Khi bạn thực sự mong muốn một điều gì, cả vũ trụ sẽ hợp lại giúp bạn đạt được nó”. Phải chăng, tôi thành công vì tôi khao khát điều đó mãnh liệt?

Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã nhiều lần tự đặt câu hỏi cho bản thân: Là một người trẻ lớn lên trong điều kiện sống đầy đủ, được ăn ngon mặc đẹp và có nhiều cơ hội học tập hơn thế hệ ông bà, ba mẹ ngày xưa, liệu tôi có thể làm ngơ trước những mối đe dọa đang rình rập môi trường sống của chúng ta như rác thải, ô nhiễm, hạn mặn, lũ lụt, phá rừng hay hiệu ứng nhà kính không? Chính vì vậy, tôi đã quyết định tham gia cuộc thi Hoa hậu Môi trường. Hai chữ “môi trường” trong danh hiệu chính là nguồn sức mạnh và động lực để tôi hành động.

Ban đầu, tôi cũng mang trong mình rất nhiều lo ngại: Liệu mình có đủ khả năng không? Liệu có thể vượt qua những thí sinh tài năng khác? Tuy nhiên, tôi nhận ra, niềm khao khát mạnh mẽ muốn thử thách bản thân và tìm kiếm những cơ hội mới để trưởng thành còn lớn hơn. Điều thôi thúc tôi tham gia không chỉ là mong muốn thể hiện bản thân, mà còn ở khát khao được lan tỏa những giá trị tích cực về bảo vệ môi trường đến cộng đồng.

Nguồn: https://znews.vn/chiec-vuong-mien-thay-doi-cuoc-doi-hoa-hau-moi-truong-the-gioi-post1535563.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng