Connect with us

Sách hay

Chuyện người liệt đá bóng khai mạc World Cup 2014

Được phát hành

,

Tại World Cup ở Brazil, một bệnh nhân bị liệt có thể đi lại và đá bóng. Kỳ tích này nhờ con chip gắn trong não được kết nối với máy tính điều khiển bộ khung xương trợ lực.

Được sự đồng ý của Alphabooks – đơn vị giữ bản quyền – Zing trích đăng cuốn sách Tương lai nhân loại của tác giả Michio Kaku.

Trong phim Iron Man, nhà tư bản công nghiệp khôn khéo Tony Stark khoác bộ giáp máy đẹp mắt được trang bị đầy đủ tên lửa, đạn dược, pháo sáng và chất nổ. Nó có thể nhanh chóng biến con người yếu ớt thành siêu anh hùng.

Nhưng sức mạnh thật sự lại nằm ở bên trong bộ giáp chứa đầy công nghệ máy tính mới nhất và kết nối trực tiếp với não bộ của Tony Stark. Với tốc độ ý nghĩ, Stark có thể bay vọt lên trời hoặc phóng ra hàng loạt vũ khí lợi hại.

Iron Man có thể chỉ là chuyện hư cấu, song hiện tại, việc chế tạo thiết bị giống của Stark là khả thi.

Đây không chỉ là thử nghiệm mang tính học thuật, bởi một ngày nào đó có thể ta sẽ phải biến đổi và nâng cấp cơ thể bằng công nghệ điều khiển học, thậm chí sửa chữa cả gen để sống sót được trong môi trường ngoại hành tinh khắc nghiệt.

Siêu nhân học (transhumanism), từ vị thế chỉ là một nhánh trong truyện khoa học viễn tưởng hay phong trào ngoài lề, sẽ trở thành phần quan trọng trong sự sống còn của nhân loại.

Xa hơn nữa, khi robot ngày một mạnh mẽ và thậm chí thông minh vượt con người, có thể ta sẽ phải hợp nhất với chúng hoặc đối mặt với nguy cơ bị chính các phát minh của mình thay thế.

Hãy cùng khám phá các khả năng kể trên, đặc biệt là những điểm liên quan việc thám hiểm, khai phá vũ trụ.

Sức mạnh siêu việt

Năm 1995, thế giới chấn động khi Christopher Reeve, diễn viên điển trai đóng vai Superman, gặp tai nạn nghiêm trọng và bị liệt từ cổ trở xuống.

Reeve, người từng phóng vút vào không gian trên màn ảnh, giờ đã bị giam vĩnh viễn trên chiếc xe lăn và phải nhờ tới sự hỗ trợ của máy thở.

Ước mơ của ông là có thể dùng công nghệ hiện đại để lấy lại khả năng cử động chân tay. Nhưng ông qua đời năm 2004, đúng một thập niên trước khi công nghệ này hoàn thiện.

Năm 2014, tại World Cup tổ chức ở São Paulo (Brazil), được gần một tỷ người theo dõi, một người đàn ông đã đá quả bóng khai mạc giải đấu. Hành động này không có gì đáng chú ý, mà điều đặc biệt là người đàn ông này bị liệt.

Giáo sư Miguel Nicolelis, Đại học Duke, đã gắn con chip vào não anh. Con chip kết nối với máy tính xách tay điều khiển bộ khung xương trợ lực của anh. Chỉ bằng ý nghĩ của mình, bệnh nhân bị liệt này có thể đi lại và đá quả bóng.

tuong lai nhan loai anh 1
Nhờ bộ khung xương trợ lực, người liệt này đã có thể đi lại, đá quả bóng khai mạc World Cup 2014 ở Brazil.

Khi được tôi phỏng vấn, Nicolelis cho biết ông mê mẩn hành trình chinh phục Mặt Trăng của tàu Apollo từ thuở nhỏ. Mục tiêu của ông là lập nên một kỳ tích khác, cũng ngang với việc đổ bộ lên Mặt Trăng.

Khi giúp kết nối để bệnh nhân liệt đá được quả bóng tại World Cup, giấc mơ của ông đã thành sự thật. Đó chính là “cú sút” lên Mặt Trăng của ông.

Tôi từng phỏng vấn John Donoghue, giáo sư Đại học Brown, một nhà tiên phong trong công nghệ trợ giúp bệnh nhân bại liệt. Ông nói rằng bệnh nhân sẽ phải luyện tập một chút, giống như tập lái xe đạp, nhưng họ sẽ sớm biết kiểm soát chuyển động của khung xương trợ lực và làm được những việc đơn giản (như cầm nắm cốc nước, vận hành máy móc gia dụng, điều khiển xe lăn, lướt web).

Làm được vậy là nhờ máy tính có thể nhận biết những hoạt động não nhất định liên kết với các cử động cụ thể của cơ thể. Tiếp theo, máy tính sẽ kích hoạt khung xương trợ lực để biến xung điện thành hành động.

Một bệnh nhân bị liệt của Donoghue đã rất vui mừng khi cô có thể cầm được cốc soda lên và uống, điều từng nằm ngoài khả năng của cô.

Công trình nghiên cứu tại Đại học Duke, Brown, John Hopkins và nhiều trường khác đã giúp những người từng từ bỏ hy vọng có thể cử động giành lại khả năng đã mất.

Quân đội Mỹ chi hơn 150 triệu USD cho chương trình Revolutionary Prosthetics (Cách mạng Chân tay giả) để giúp đỡ các cựu binh từ chiến trường Iraq và Afghanistan, nhiều người trong số họ bị tổn thương tủy sống.

Sau cùng, hàng nghìn người phải gắn cuộc đời với xe lăn và giường bệnh do chiến tranh, tai nạn ôtô, bệnh tật hay chấn thương thể thao giờ đã có thể sử dụng chân tay trở lại.

Bên cạnh khung xương hỗ trợ bên ngoài, một phương pháp khác là tăng cường sức mạnh cho cơ thể sinh học để con người có thể sống trên hành tinh có trọng lực lớn hơn. Khả năng này được nêu lên khi các nhà khoa học tìm ra một loại gen khiến cơ bắp nảy nở.

Ban đầu, gen này được tìm thấy trên chuột, khi một đột biến khiến chúng phát triển nhiều cơ bắp. Báo chí đặt tên gen này là “gen Chuột Mạnh”.

Sau đó, dạng gen này được phát hiện trên người với tên gọi “gen Schwarzenegger” – đặt theo tên diễn viên Arnold Schwarzenegger.

Nhóm các nhà khoa học tìm ra gen Schwarzenegger chờ đợi những cuộc điện thoại từ các bác sĩ nhằm nhờ trợ giúp các bệnh nhân bị mắc chứng thoái hóa cơ bắp. Tuy vậy, họ bất ngờ khi một nửa số cuộc gọi đến từ các vận động viên thể hình muốn tăng cơ.

Đa phần những người này không quan tâm việc nghiên cứu mới ở giai đoạn thử nghiệm, chưa rõ các tác dụng phụ ra sao. Hiện, giới chức thể thao đang đau đầu vì loại gen này khó phát hiện hơn nhiều so với các dạng chất kích thích hóa học khác.

Khả năng điều chỉnh khối cơ sẽ đóng vai trò quan trọng khi ta thám hiểm những hành tinh có trường trọng lực mạnh hơn Trái Đất. Đến nay, các nhà thiên văn đã tìm thấy nhiều siêu Trái Đất (các hành tinh đá nằm trong vùng sống được và có thể có chứa đại dương).

Chúng sẽ là những ứng cử viên phù hợp để con người sinh sống, trừ việc trường trọng lực của chúng có thể mạnh hơn Trái Đất đến 50%. Để sống yên ổn tại đây, ta phải tăng lượng cơ và xương.

Nâng cấp bản thân

Ngoài việc tăng cường cơ bắp, các nhà khoa học còn sử dụng công nghệ nâng cấp sức mạnh cơ thể sinh học nhằm cải thiện các giác quan. Những người mắc một số dạng khiếm thính giờ đã có lựa chọn sử dụng phương pháp cấy ốc tai điện tử.

Đây là thiết bị rất độc đáo, có khả năng biến sóng âm thanh đưa đến tai thành tín hiệu điện tử để có thể truyền qua dây thần kinh thính giác và tới não. Đến nay đã có khoảng nửa triệu người lựa chọn cấy các cảm biến này vào tai.

Với một số người khiếm thị, võng mạc nhân tạo sẽ giúp phục hồi một phần thị giác giới hạn. Thiết bị này sẽ được đặt ở một máy quay bên ngoài hoặc đặt trực tiếp lên trên võng mạc thật. Nó sẽ chuyển hình ảnh thành xung điện, rồi não bộ lại biến xung điện thành hình ảnh.

Ví dụ, hệ thống Argus II có một máy quay video cực nhỏ gắn trên mắt kính bệnh nhân. Hình ảnh từ máy quay truyền về võng mạc nhân tạo, thiết bị này chuyển các tín hiệu về dây thần kinh thị giác.

Hình ảnh cuối cùng có độ phân giải khoảng 60 pixel, còn một phiên bản mới đang được thử nghiệm thì đạt độ phân giải 240 pixel. (Nhưng mắt người có khả năng nhìn tương đương một triệu pixel, đồng thời cần ít nhất 600 pixel để nhận ra những gương mặt, vật thể quen thuộc).

Một công ty Đức đang thử nghiệm võng mạc nhân tạo 1.500 pixel, nếu thành công, nó sẽ giúp người suy giảm thị lực có thể nhìn gần như bình thường.

Những người khiếm thị đã thử dùng võng mạc nhân tạo đều mừng rỡ vì có thể nhìn thấy màu sắc và hình dạng mờ mờ. Chỉ là vấn đề thời gian để ta có được loại võng mạc nhân tạo với thị lực ngang mắt người.

Thậm chí, trong tương lai, thiết bị này có khi còn thấy được cả những “màu sắc” mà mắt thường không nhìn thấy.

Chẳng hạn, người ta hay bị bỏng trong bếp vì nồi nóng trông giống hệt nồi nguội mà mắt ta lại không thể nhìn thấy bức xạ nhiệt hồng ngoại. Nhưng võng mạc nhân tạo và các loại kính có thể được thiết kế để dễ dàng phát hiện loại bức xạ này, như loại kính nhìn ban đêm dùng trong quân đội.

Vậy là, với giác mạc nhân tạo, con người có thể nhìn thấy bức xạ nhiệt và cả các dạng bức xạ vô hình khác. Khả năng siêu thị lực này sẽ là vô giá ở những hành tinh khác. Điều kiện sống trên các hành tinh xa xôi sẽ khác hẳn Trái Đất.

Khí quyển có thể âm u, mù mịt hay tối tăm vì chứa đầy bụi và tạp chất. Võng mạc nhân tạo “nhìn” qua được bão cát Sao Hỏa có thể trở nên khả thì nhờ có thiết bị dò tìm nhiệt hồng ngoại.

Ở những vệ tinh xa, nơi ánh sáng Mặt Trời gần như không chiếu đến, võng mạc nhân tạo sẽ gia tăng cường độ lượng ánh sáng được phản chiếu.

Dạng công nghệ này cũng cho ta khả năng thần giao cách cảm và điều khiển bằng ý nghĩ. Hiện tại, con người đã chế tạo được loại chíp có thể thu sóng não, giải mã một phần, rồi truyền thông tin đó tới mạng Internet. Chẳng hạn, đồng nghiệp Stephen Hawking của tôi khi còn sống bị bệnh xơ cứng teo cơ một bên (ALS) và mất hoàn toàn khả năng cử động, kể cả các ngón tay.

Một con chip được đặt lên kính của ông để thu sóng não rồi truyền vào laptop hoặc máy tính. Nhờ đó, ông có thể viết ra lời muốn nói bằng ý nghĩ, tuy quá trình diễn ra rất chậm.

Từ trường hợp Hawking, ta thấy công nghệ điều khiển bằng ý nghĩ (khả năng di chuyển đồ vật bằng tâm trí) đã ở rất gần. Vẫn dùng công nghệ trên, có thể kết nối trực tiếp não bộ với robot hoặc máy móc cơ khí để chúng thực hiện những mệnh lệnh trong đầu con người.

Trong tương lai, thần giao cách cảm và điều khiển bằng ý nghĩ sẽ trở thành điều thông thường, ta sẽ tương tác với máy móc hoàn toàn bằng ý nghĩ.

Chỉ với ý nghĩ, ta cũng sẽ có thể bật đèn, mở Internet, ra lệnh cho máy viết thư, chơi trò chơi điện tử, liên lạc với bạn bè, gọi xe, mua hàng hay mở phim ra xem.

Các phi hành gia tương lai sẽ sử dụng sức mạnh tâm thức để lái tàu và khám phá các hành tinh. Các thành phố sẽ mọc lên trên sa mạc Sao Hỏa, tất cả là nhờ các thợ xây bậc thầy điều khiển công việc của robot bằng ý nghĩ.

Đương nhiên, nâng cấp bản thân không phải chuyện mới mà đã xảy ra song song cùng quá trình tồn tại của con người. Xuyên suốt lịch sử nhân loại, ta đã thấy nhiều ví dụ của việc con người dùng các phương tiện nhân tạo để gia tăng sức mạnh và tầm ảnh hưởng: Quần áo, hình xăm, mỹ phẩm, đồ đội đầu, lễ phục, lông vũ, kính, máy trợ thính, micro, tai nghe…

Dường như ở bất kỳ xã hội con người nào, ta cũng luôn tìm cách cải thiện cơ thể, đặc biệt là gia tăng cơ hội sinh sản thành công.

Tuy nhiên, sự khác biệt giữa nâng cấp bản thân trong quá khứ và tương lai nằm ở chỗ, khi khám phá vũ trụ, nâng cấp cơ thể sẽ là chìa khóa để ta sống sót ở nhiều môi trường khác nhau.

Trong tương lai, có lẽ ta sẽ sống trong thời đại tinh thần, dùng ý nghĩ để điều khiển thế giới xung quanh.

Nguồn: https://zingnews.vn/chuyen-nguoi-liet-da-bong-khai-mac-world-cup-2014-post1103278.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng