Được sự đồng ý của Alphabooks – đơn vị giữ bản quyền – Zing trích đăng cuốn sách Tương lai nhân loại của tác giả Michio Kaku.
Trong phim Iron Man, nhà tư bản công nghiệp khôn khéo Tony Stark khoác bộ giáp máy đẹp mắt được trang bị đầy đủ tên lửa, đạn dược, pháo sáng và chất nổ. Nó có thể nhanh chóng biến con người yếu ớt thành siêu anh hùng.
Nhưng sức mạnh thật sự lại nằm ở bên trong bộ giáp chứa đầy công nghệ máy tính mới nhất và kết nối trực tiếp với não bộ của Tony Stark. Với tốc độ ý nghĩ, Stark có thể bay vọt lên trời hoặc phóng ra hàng loạt vũ khí lợi hại.
Iron Man có thể chỉ là chuyện hư cấu, song hiện tại, việc chế tạo thiết bị giống của Stark là khả thi.
Đây không chỉ là thử nghiệm mang tính học thuật, bởi một ngày nào đó có thể ta sẽ phải biến đổi và nâng cấp cơ thể bằng công nghệ điều khiển học, thậm chí sửa chữa cả gen để sống sót được trong môi trường ngoại hành tinh khắc nghiệt.
Siêu nhân học (transhumanism), từ vị thế chỉ là một nhánh trong truyện khoa học viễn tưởng hay phong trào ngoài lề, sẽ trở thành phần quan trọng trong sự sống còn của nhân loại.
Xa hơn nữa, khi robot ngày một mạnh mẽ và thậm chí thông minh vượt con người, có thể ta sẽ phải hợp nhất với chúng hoặc đối mặt với nguy cơ bị chính các phát minh của mình thay thế.
Hãy cùng khám phá các khả năng kể trên, đặc biệt là những điểm liên quan việc thám hiểm, khai phá vũ trụ.
Sức mạnh siêu việt
Năm 1995, thế giới chấn động khi Christopher Reeve, diễn viên điển trai đóng vai Superman, gặp tai nạn nghiêm trọng và bị liệt từ cổ trở xuống.
Reeve, người từng phóng vút vào không gian trên màn ảnh, giờ đã bị giam vĩnh viễn trên chiếc xe lăn và phải nhờ tới sự hỗ trợ của máy thở.
Ước mơ của ông là có thể dùng công nghệ hiện đại để lấy lại khả năng cử động chân tay. Nhưng ông qua đời năm 2004, đúng một thập niên trước khi công nghệ này hoàn thiện.
Năm 2014, tại World Cup tổ chức ở São Paulo (Brazil), được gần một tỷ người theo dõi, một người đàn ông đã đá quả bóng khai mạc giải đấu. Hành động này không có gì đáng chú ý, mà điều đặc biệt là người đàn ông này bị liệt.
Giáo sư Miguel Nicolelis, Đại học Duke, đã gắn con chip vào não anh. Con chip kết nối với máy tính xách tay điều khiển bộ khung xương trợ lực của anh. Chỉ bằng ý nghĩ của mình, bệnh nhân bị liệt này có thể đi lại và đá quả bóng.
Nhờ bộ khung xương trợ lực, người liệt này đã có thể đi lại, đá quả bóng khai mạc World Cup 2014 ở Brazil. |
Khi được tôi phỏng vấn, Nicolelis cho biết ông mê mẩn hành trình chinh phục Mặt Trăng của tàu Apollo từ thuở nhỏ. Mục tiêu của ông là lập nên một kỳ tích khác, cũng ngang với việc đổ bộ lên Mặt Trăng.
Khi giúp kết nối để bệnh nhân liệt đá được quả bóng tại World Cup, giấc mơ của ông đã thành sự thật. Đó chính là “cú sút” lên Mặt Trăng của ông.
Tôi từng phỏng vấn John Donoghue, giáo sư Đại học Brown, một nhà tiên phong trong công nghệ trợ giúp bệnh nhân bại liệt. Ông nói rằng bệnh nhân sẽ phải luyện tập một chút, giống như tập lái xe đạp, nhưng họ sẽ sớm biết kiểm soát chuyển động của khung xương trợ lực và làm được những việc đơn giản (như cầm nắm cốc nước, vận hành máy móc gia dụng, điều khiển xe lăn, lướt web).
Làm được vậy là nhờ máy tính có thể nhận biết những hoạt động não nhất định liên kết với các cử động cụ thể của cơ thể. Tiếp theo, máy tính sẽ kích hoạt khung xương trợ lực để biến xung điện thành hành động.
Một bệnh nhân bị liệt của Donoghue đã rất vui mừng khi cô có thể cầm được cốc soda lên và uống, điều từng nằm ngoài khả năng của cô.
Công trình nghiên cứu tại Đại học Duke, Brown, John Hopkins và nhiều trường khác đã giúp những người từng từ bỏ hy vọng có thể cử động giành lại khả năng đã mất.
Quân đội Mỹ chi hơn 150 triệu USD cho chương trình Revolutionary Prosthetics (Cách mạng Chân tay giả) để giúp đỡ các cựu binh từ chiến trường Iraq và Afghanistan, nhiều người trong số họ bị tổn thương tủy sống.
Sau cùng, hàng nghìn người phải gắn cuộc đời với xe lăn và giường bệnh do chiến tranh, tai nạn ôtô, bệnh tật hay chấn thương thể thao giờ đã có thể sử dụng chân tay trở lại.
Bên cạnh khung xương hỗ trợ bên ngoài, một phương pháp khác là tăng cường sức mạnh cho cơ thể sinh học để con người có thể sống trên hành tinh có trọng lực lớn hơn. Khả năng này được nêu lên khi các nhà khoa học tìm ra một loại gen khiến cơ bắp nảy nở.
Ban đầu, gen này được tìm thấy trên chuột, khi một đột biến khiến chúng phát triển nhiều cơ bắp. Báo chí đặt tên gen này là “gen Chuột Mạnh”.
Sau đó, dạng gen này được phát hiện trên người với tên gọi “gen Schwarzenegger” – đặt theo tên diễn viên Arnold Schwarzenegger.
Nhóm các nhà khoa học tìm ra gen Schwarzenegger chờ đợi những cuộc điện thoại từ các bác sĩ nhằm nhờ trợ giúp các bệnh nhân bị mắc chứng thoái hóa cơ bắp. Tuy vậy, họ bất ngờ khi một nửa số cuộc gọi đến từ các vận động viên thể hình muốn tăng cơ.
Đa phần những người này không quan tâm việc nghiên cứu mới ở giai đoạn thử nghiệm, chưa rõ các tác dụng phụ ra sao. Hiện, giới chức thể thao đang đau đầu vì loại gen này khó phát hiện hơn nhiều so với các dạng chất kích thích hóa học khác.
Khả năng điều chỉnh khối cơ sẽ đóng vai trò quan trọng khi ta thám hiểm những hành tinh có trường trọng lực mạnh hơn Trái Đất. Đến nay, các nhà thiên văn đã tìm thấy nhiều siêu Trái Đất (các hành tinh đá nằm trong vùng sống được và có thể có chứa đại dương).
Chúng sẽ là những ứng cử viên phù hợp để con người sinh sống, trừ việc trường trọng lực của chúng có thể mạnh hơn Trái Đất đến 50%. Để sống yên ổn tại đây, ta phải tăng lượng cơ và xương.
Nâng cấp bản thân
Ngoài việc tăng cường cơ bắp, các nhà khoa học còn sử dụng công nghệ nâng cấp sức mạnh cơ thể sinh học nhằm cải thiện các giác quan. Những người mắc một số dạng khiếm thính giờ đã có lựa chọn sử dụng phương pháp cấy ốc tai điện tử.
Đây là thiết bị rất độc đáo, có khả năng biến sóng âm thanh đưa đến tai thành tín hiệu điện tử để có thể truyền qua dây thần kinh thính giác và tới não. Đến nay đã có khoảng nửa triệu người lựa chọn cấy các cảm biến này vào tai.
Với một số người khiếm thị, võng mạc nhân tạo sẽ giúp phục hồi một phần thị giác giới hạn. Thiết bị này sẽ được đặt ở một máy quay bên ngoài hoặc đặt trực tiếp lên trên võng mạc thật. Nó sẽ chuyển hình ảnh thành xung điện, rồi não bộ lại biến xung điện thành hình ảnh.
Ví dụ, hệ thống Argus II có một máy quay video cực nhỏ gắn trên mắt kính bệnh nhân. Hình ảnh từ máy quay truyền về võng mạc nhân tạo, thiết bị này chuyển các tín hiệu về dây thần kinh thị giác.
Hình ảnh cuối cùng có độ phân giải khoảng 60 pixel, còn một phiên bản mới đang được thử nghiệm thì đạt độ phân giải 240 pixel. (Nhưng mắt người có khả năng nhìn tương đương một triệu pixel, đồng thời cần ít nhất 600 pixel để nhận ra những gương mặt, vật thể quen thuộc).
Một công ty Đức đang thử nghiệm võng mạc nhân tạo 1.500 pixel, nếu thành công, nó sẽ giúp người suy giảm thị lực có thể nhìn gần như bình thường.
Những người khiếm thị đã thử dùng võng mạc nhân tạo đều mừng rỡ vì có thể nhìn thấy màu sắc và hình dạng mờ mờ. Chỉ là vấn đề thời gian để ta có được loại võng mạc nhân tạo với thị lực ngang mắt người.
Thậm chí, trong tương lai, thiết bị này có khi còn thấy được cả những “màu sắc” mà mắt thường không nhìn thấy.
Chẳng hạn, người ta hay bị bỏng trong bếp vì nồi nóng trông giống hệt nồi nguội mà mắt ta lại không thể nhìn thấy bức xạ nhiệt hồng ngoại. Nhưng võng mạc nhân tạo và các loại kính có thể được thiết kế để dễ dàng phát hiện loại bức xạ này, như loại kính nhìn ban đêm dùng trong quân đội.
Vậy là, với giác mạc nhân tạo, con người có thể nhìn thấy bức xạ nhiệt và cả các dạng bức xạ vô hình khác. Khả năng siêu thị lực này sẽ là vô giá ở những hành tinh khác. Điều kiện sống trên các hành tinh xa xôi sẽ khác hẳn Trái Đất.
Khí quyển có thể âm u, mù mịt hay tối tăm vì chứa đầy bụi và tạp chất. Võng mạc nhân tạo “nhìn” qua được bão cát Sao Hỏa có thể trở nên khả thì nhờ có thiết bị dò tìm nhiệt hồng ngoại.
Ở những vệ tinh xa, nơi ánh sáng Mặt Trời gần như không chiếu đến, võng mạc nhân tạo sẽ gia tăng cường độ lượng ánh sáng được phản chiếu.
Dạng công nghệ này cũng cho ta khả năng thần giao cách cảm và điều khiển bằng ý nghĩ. Hiện tại, con người đã chế tạo được loại chíp có thể thu sóng não, giải mã một phần, rồi truyền thông tin đó tới mạng Internet. Chẳng hạn, đồng nghiệp Stephen Hawking của tôi khi còn sống bị bệnh xơ cứng teo cơ một bên (ALS) và mất hoàn toàn khả năng cử động, kể cả các ngón tay.
Một con chip được đặt lên kính của ông để thu sóng não rồi truyền vào laptop hoặc máy tính. Nhờ đó, ông có thể viết ra lời muốn nói bằng ý nghĩ, tuy quá trình diễn ra rất chậm.
Từ trường hợp Hawking, ta thấy công nghệ điều khiển bằng ý nghĩ (khả năng di chuyển đồ vật bằng tâm trí) đã ở rất gần. Vẫn dùng công nghệ trên, có thể kết nối trực tiếp não bộ với robot hoặc máy móc cơ khí để chúng thực hiện những mệnh lệnh trong đầu con người.
Trong tương lai, thần giao cách cảm và điều khiển bằng ý nghĩ sẽ trở thành điều thông thường, ta sẽ tương tác với máy móc hoàn toàn bằng ý nghĩ.
Chỉ với ý nghĩ, ta cũng sẽ có thể bật đèn, mở Internet, ra lệnh cho máy viết thư, chơi trò chơi điện tử, liên lạc với bạn bè, gọi xe, mua hàng hay mở phim ra xem.
Các phi hành gia tương lai sẽ sử dụng sức mạnh tâm thức để lái tàu và khám phá các hành tinh. Các thành phố sẽ mọc lên trên sa mạc Sao Hỏa, tất cả là nhờ các thợ xây bậc thầy điều khiển công việc của robot bằng ý nghĩ.
Đương nhiên, nâng cấp bản thân không phải chuyện mới mà đã xảy ra song song cùng quá trình tồn tại của con người. Xuyên suốt lịch sử nhân loại, ta đã thấy nhiều ví dụ của việc con người dùng các phương tiện nhân tạo để gia tăng sức mạnh và tầm ảnh hưởng: Quần áo, hình xăm, mỹ phẩm, đồ đội đầu, lễ phục, lông vũ, kính, máy trợ thính, micro, tai nghe…
Dường như ở bất kỳ xã hội con người nào, ta cũng luôn tìm cách cải thiện cơ thể, đặc biệt là gia tăng cơ hội sinh sản thành công.
Tuy nhiên, sự khác biệt giữa nâng cấp bản thân trong quá khứ và tương lai nằm ở chỗ, khi khám phá vũ trụ, nâng cấp cơ thể sẽ là chìa khóa để ta sống sót ở nhiều môi trường khác nhau.
Trong tương lai, có lẽ ta sẽ sống trong thời đại tinh thần, dùng ý nghĩ để điều khiển thế giới xung quanh.