Connect with us

Sách hay

‘Câu chuyện nghệ thuật’ – sách khám phá lĩnh vực kỳ thú

Được phát hành

,

Cuốn ”Câu chuyện nghệ thuật” được xem là một trong những sách nhập môn nghệ thuật thị giác quan trọng đối với độc giả trên thế giới.

Cuon sach Cau chuyen nghe thuat anh 1

Tên tuổi của tác giả Sir E. H. Gombrich (1909-2001) không hề xa lạ với giới sử học nghệ thuật thế giới. Sinh ra trong gia đình đại trí thức gốc Do Thái tại thành Vienna, Áo, ông di cư sang Anh vào năm 1939 trước hiểm hoạ của chủ nghĩa quốc xã Đức.

Từng là giáo sư tại London University, ông cũng nhiều năm giữ cương vị viện trưởng viện Warburg Institute và được mời giữ nhiều ghế giáo sư danh tiếng tại các đại học Oxford, Cambridge, Harvard và Cornell. Ông cũng nhận nhiều giải thưởng quốc tế (Goethe, Hegel và Erasmus), được Hoàng gia Anh phong tước hiệp sĩ.

Câu chuyện nghệ thuật (The Story of Art) được xem là một trong những cuốn sách nhập môn nghệ thuật thị giác quan trọng cho nhiều thế hệ độc giả trên khắp thế giới.

Gombrich còn có những tác phẩm mang tính lý thuyết khác như Nghệ thuật và Ảo ảnh (Art and Illusion), Suy tư về một chủ đề yêu thích (Meditation on a Hobby Horse).

Đây là những công trình học thuật được tham khảo chủ chốt của giới nghiên cứu lịch sử nghệ thuật, cũng như có ảnh hưởng đến các nhà nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khác nhau.

Cuon sach Cau chuyen nghe thuat anh 2

Sách Câu chuyện nghệ thuật. Ảnh: Omega Plus.

Viết lịch sử nghệ thuật theo thứ tự minh bạch, dễ hiểu

Còn “lịch sử xuất bản” của chính bản thân Câu chuyện nghệ thuật cũng là một tiền đề hứa hẹn mang lại những ích lợi cho độc giả Việt.

Ra đời lần đầu năm 1950, cuốn sách đã được tác giả liên tục bổ sung, cập nhật và tái bản thêm 15 lần nữa (lần cuối vào năm 1995, sau 45 năm cuốn sách ra đời lần đầu). Việc được dịch ra gần 30 thứ tiếng trên thế giới cũng chứng tỏ độc giả toàn cầu quan tâm đến cuốn sách như thế nào.

Lý giải thế nào về sự phổ biến của cuốn sách khắp năm châu và trong 70 năm qua? Trước hết, chúng ta phải nói rằng tác giả đã đặt trúng mục tiêu và hướng đúng độc giả.

Trong lời tựa ở lần xuất bản đầu, ông nói rõ: “Quyển sách này được viết ra với mong muốn dành tặng cho những ai muốn bắt đầu khám phá một lĩnh vực kỳ thú và lạ lẫm”.

Bởi vậy, thay vì bày ra vô vàn tiểu tiết và khiến những kẻ ngoại đạo cảm thấy mông lung, cuốn sách được viết để đưa độc giả đến một thế giới với những cái tên, thời kỳ và phong cách của các tác phẩm, theo thứ tự minh bạch và dễ hiểu.

Sự sắp xếp ấy nhằm giúp cho quá trình tiếp cận các tác phẩm chuyên ngành sau đó dễ dàng hơn. Khi viết cuốn sách này, đối tượng độc giả mà E. H. Gombrich nghĩ đến trước hết là thanh, thiếu niên muốn tìm tòi và khám phá thế giới nghệ thuật.

Từ đó, tác giả đã chọn được văn phong và cách viết thích hợp: “Tôi sẽ sử dụng thứ ngôn ngữ giản dị, mạo hiểm việc giọng văn của mình có thể bị đánh giá là bình dân và thiếu chuyên nghiệp. Việc hạn chế sử dụng các thuật ngữ chuyên môn của giới sử học nghệ thuật không phải là do tôi né tránh khó khăn trong tư duy, nên tôi hy vọng các bạn không nhầm tưởng quyết định này với thái độ ‘coi thường’ độc giả”.

Với lối kể chuyện súc tích, gần gũi, cảm thông, cuốn sách dễ dàng chinh phục đông đảo bạn đọc. Nhưng nếu chỉ là văn phong thì chưa đủ. Tác giả đã đề ra những nguyên tắc rất khoa học để trình bày các chủ đề, có sức thuyết phục cả những người khó tính hoặc có trình độ.

Ví dụ như “chỉ tập trung những tác phẩm nghệ thuật thực sự, bỏ qua những gì theo thị hiếu hay xu hướng nhất thời”, và nhất quyết “chỉ có tác phẩm nào chính tôi đã thấy tận mắt thay vì qua ảnh chụp lại mới được bàn đến”.

Nguyên tắc cuối này có lẽ sẽ hạn chế số lượng tác phẩm / tác giả được giới thiệu vào sách, song có ưu điểm là rất thuyết phục bởi những gì được “kể” sẽ truyền cảm, sinh động, hấp dẫn, như thể tác giả đang cùng độc giả trò chuyện với sự có mặt của tác phẩm, nghệ sĩ ngay trước mắt vậy.

Cuon sach Cau chuyen nghe thuat anh 3

Sách Câu chuyện nghệ thuật là cẩm nang tin cậy cho bất kỳ ai muốn khám phá nghệ thuật. Ảnh: Omega Plus.

Đặt tác phẩm vào góc nhìn lịch sử

Bên cạnh đó, là nhà sử học nghệ thuật, tác giả đặt các tác phẩm vào góc nhìn lịch sử để độc giả hiểu rõ ý đồ nghệ thuật của các nghệ sĩ tại mỗi thời điểm, thời kỳ, nhất là tại những mốc thời gian có tính bước ngoặt, cách mạng.

“Nếu người Ai Cập vẽ những gì họ biết, người Hy lạp vẽ cái họ thấy, thì nghệ sĩ Trung Cổ vẽ điều mình cảm nhận”, ông nói.

Với châm ngôn “ngày tháng như những cái mốc để tấm thảm lịch sử được treo lên đó”, Gombrich đã đưa độc giả vào cuộc hành trình thú vị xuyên qua Lịch sử Nghệ thuật, từ những bức tranh hang động thời nguyên thuỷ cho đến nghệ thuật thử nghiệm của nửa đầu thế kỷ 20.

Cho tới cuối hành trình (chương 27 của sách), ông tổng kết rằng mình đã “cố gắng kể lại lịch sử nghệ thuật như một câu chuyện về sự đan xen và thay đổi liên tục của các truyền thống, trong đó mỗi tác phẩm đều dựa vào quá khứ và cùng lúc hướng tới tương lai”.

Đến đây, hẳn độc giả nhớ lại câu mở đầu của chương 1: “Xét cho cùng thì không có ‘nghệ thuật’. Chỉ có các nghệ sĩ mà thôi”.

Gombrich ngay từ đầu đã nhấn mạnh quan điểm về sự tôn trọng tính đa văn hoá, rằng định nghĩa về nghệ thuật luôn thay đổi theo các nền văn hoá khác nhau. Do đó, độc giả không nên mang nặng đầu óc định kiến trước khi bước vào tìm hiểu nghệ thuật, hay nói đúng hơn, trước khi bắt đầu đọc cuốn sách này.

Ngoài ra, ông muốn lưu ý vai trò cá nhân của người nghệ sĩ và tác phẩm của họ ngày càng quan trọng hơn bao giờ hết (khác với nghệ thuật dân gian và nghệ thuật quần chúng, vị trí của mỗi cá nhân nghệ sĩ khá mờ nhạt).

Rõ ràng truyền thống, hay lịch sử, đều cần có và được xây dựng nên bởi những nhân vật lịch sử lỗi lạc và cụ thể. Chính Gombrich từng nói: “Tôi tin rằng người ta nên học hỏi để có một sự tôn kính với những thành tích lớn lao của những con người vĩ đại”.

Trước khi kết thúc cuộc hành trình với Câu chuyện nghệ thuật, tác giả không quên đề cập tới trách nhiệm của công chúng và thời đại đối với nghệ thuật, nghệ sĩ.

Ông viết: “Chúng ta tin rằng thời nào chả có nghệ sĩ. Nhưng nghệ thuật có nảy nở hay không lại phụ thuộc một phần không nhỏ vào chính chúng ta, công chúng của những nghệ sĩ này”.

Gombrich cho rằng công chúng có thể quyết định vấn đề bằng sự thờ ơ hay hứng khởi, bằng thành kiến hay hiểu biết của mình. Công chúng phải giữ cho sợi dây truyền thống không bị đứt đoạn để những nghệ sĩ khác cũng có cơ hội góp tài năng vào chuỗi ngọc trai quý giá mà chúng ta được hưởng từ quá khứ.

Gấp cuốn sách lại, có lẽ không phải không có lý khi người đọc vận dụng ý này của Gombrich vào chính Câu chuyện nghệ thuật: “Chúng ta cũng có thể nói rằng ‘Không thực sự có cái gọi là ‘Lịch sử nghệ thuật’, chỉ có các ‘Sử gia Nghệ thuật'”.

Nếu không có các sử gia chân chính và khách quan, những cái gọi là “pho sử nghệ thuật” chỉ là những mẩu giai thoại, những huyền thư đầy tự tôn, phiến diện, phục vụ những nhóm lợi ích hay áp chế xã hội, hoàn toàn không có giá trị khoa học.

Cuon sach Cau chuyen nghe thuat anh 4

Tác giả E. H. Gombrich. Ảnh: Uppa/Photoshot.

Riêng với độc giả Việt ít có cơ hội tiếp cận các nguồn tư liệu quốc tế, phần “Ghi chép về những cuốn sách nghệ thuật” ở cuối sách có giá trị như một cẩm nang nhỏ bổ sung vào thư mục sách nghiên cứu lịch sử nghệ thuật cho những ai muốn tìm hiểu sâu hay tra cứu kỹ lưỡng từng chủ đề cụ thể mà cuốn sách đã đề cập trong các chương.

Thật đáng mừng khi Câu chuyện nghệ thuật phiên bản tiếng Việt ra đời tiếp nối ngay sau thành công vang dội của Leonado da Vinci – ấn phẩm đoạt Giải thưởng Sách Quốc gia lần thứ hai.

Những cuốn sách này thổi luồng gió mới về phong trào đọc sách nghệ thuật ở nước ta đang bắt đầu có những chuyển biến tích cực.

Phạm Long là tiến sĩ vật lý từng công tác tại Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam. Hiện, ông là nhà nghiên cứu nghệ thuật độc lập. Ông tham gia dịch một số đầu sách như: Về cái tinh thần trong nghệ thuật, Hình, không gian và cách nhìn; chuyển ngữ một số tác phẩm như: Du hành vào tâm ánh sáng, Điêu khắc đương đại (chưa xuất bản), Những cuộc phỏng vấn Dalí (chưa xuất bản)…

Nguồn: https://zingnews.vn/cau-chuyen-nghe-thuat-sach-kham-pha-linh-vuc-ky-thu-post1135793.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng