Connect with us

Văn mẫu 7

Cảm nhận bài thơ “Hồi hương ngẫu thư” (4)

Được phát hành

,

Hồi hương ngẫu thư (Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê) của nhà thơ Hạ Tri Chương là bài thơ nói về tình yêu, sự nhớ thương dành cho quê nhà. Nhưng càng yêu bao nhiêu thì nhà thơ lại càng thấy xót xa bấy nhiêu khi ông trở về thăm quê nhưng mọi thứ đã thay đổi, khoảng cách về thế hệ khiến ông cảm thấy chút chua xót, lạc lõng ngay cả khi đã về nơi “chôn nhau cắt rốn” của mình.

Mở đầu bài thơ, Hạ Tri Chương đã kể cho người đọc nghe về câu chuyện riêng của chính mình và cũng tái hiện lại hình ảnh của chính mình sau những năm tháng đằng đẵng xa quê:

Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi

(Lúc trẻ rời nhà, lúc già cả mới quay về)

Nhà thơ đã kể lại một cách tóm tắt quãng thời gian xa quê và bối cảnh hiện tại, khi nhà thơ có cơ hội về lại thăm quê: Nhà thơ xa quê từ khi còn rất nhỏ, rất trẻ “lão đại hồi”. Sau quãng đường bôn ba, tha phương nơi đất khách, khi có điều kiện về thăm quê thì trên đầu mái tóc đã bạc “lão đại hồi”.

Quãng thời gian xa quê đã làm cho tác giả thay đổi cả về tuổi tác, vóc người. Để từ đó làm nền để hé mở tình cảm dành cho quê hương của tác giả:

Hương âm vô cải mấn mao thôi

(Giọng quê không đổi, tóc râu đã rụng dần)

Ở đây, tác giả đã sử dụng phép đối để thể hiện tình yêu của mình dành cho quê hương. Nếu “giọng quê không đổi” tức tình cảm, sự gắn bó dành cho quê hương chưa một lần phai nhạt, thay đổi thì hình dáng bên ngoài nhà thơ đã có sự thay đổi lớn “Mấn mao thôi”. Ở đây, cái nhà thơ muốn nhấn mạnh, muốn làm nổi bật đó chính là thời gian xa quê, thời gian cứ vô tình trôi, thấm thoắt thời gian xa quê của nhà thơ đã hơn năm mươi năm.Vì vậy, tình cảm của nhà thơ với quê hương được khẳng định một cách chắn chắn là chưa từng thay đổi song lại ẩn chứa nỗi buồn xót xa trước sự chảy trôi của thời gian, của đời người.

Vì thời gian tác giả xa quê cũng ngót năm mươi năm nên những đứa trẻ được sinh ra ở nơi này cũng không biết về tác giả. Chính sự xa lạ, khoảng cách của thế hệ ấy mà những đứa trẻ ngây thơ ấy coi Hạ Tri Chương như một người khách lạ mà đón tiếp:

Nhi đồng tương kiến bất tương thức

Tiếu vấn: “Khách tòng hà xứ lai?”

(Gặp lũ trẻ nhỏ nhưng không hề biết nhau

Lũ trẻ cười hỏi: “Khách từ nơi nào đến đây?”)

Những đứa trẻ nhỏ được sinh ra sau khi nhà thơ rời quê nên lẽ tất yếu chúng không hề biết đến nhà thơ “bất tương thức” nên chúng rất hồn nhiên và chào hỏi nhà thơ “Khách tòng hà xứ lai”.Ta có thể thấy ở đây lũ trẻ rất ngon ngoãn, lễ phép với nhà thơ, song chính sự hồn nhiên, ngây thơ của lũ trẻ khiến nhà thơ ngỡ ngàng, xen lẫn cả sự xót xa, buồn tủi. Là người con xa quê đã nhiều năm, nay có dịp về thăm quê lại bị xem như người xa lạ, một người khách vô tình ghé qua nên tác giả không tránh được cảm giác chua xót.

Hạ Tri Chương không trách những đứa trẻ vì không biết mình, chào hỏi như một người khách vì chúng rất ngây thơ và phản ứng theo lẽ rất tự nhiên. Nhà thơ thấy buồn vì thời gian mình xa quê quá lâu, đủ để mọi thứ xung quanh thay đổi. Quê hương vẫn ở đây, tình cảm yêu mến của nhà thơ với nhà thơ không chút thay đổi nhưng những người bạn cùng trang lứa với nhà thơ cũng không còn ai, bản thân thì bị coi là người lạ nên cảm giác chua xót, tự vấn là điều hoàn toàn có thể hiểu được.

Nơi quê hương “chôn nhau cắt rốn” vô cùng quen thuộc, thân thương. Nơi mà người ta sẽ cảm giác tĩnh tâm, yên bình khi trở về. Nhưng ở đây, nhà thơ lại cảm giác lạc lõng, cô đơn giữa chốn thân quen này.

Hồi hương ngẫu thư của Hạ Tri Chương đã thể hiện được chân thực cảm xúc của chính bản thân nhà thơ. Nhà thơ xây dựng được bức chân dung của cảm xúc, của con người nhà thơ. Đó là con người luôn yêu thương tha thiết quê hương của mình và cảm giác buồn tủi, chua xót khi về thăm quê. Từng câu thơ đều khiến cho người đọc cảm động, cùng với đó là sự đồng cảm, thấu hiểu với nỗi niềm của nhà thơ. Đây là một bài thơ chứa chan tình cảm, tâm tư của một người con xa quê.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 7

Biểu cảm về loài cây em yêu: cây bàng

Được phát hành

,

Bởi

Trước sân nhà em có một cây bàng. Trường em cũng rất nhiều bàng. Hai bên hè phố nơi em ở lại là những dãy bàng xanh ngút ngái. Những cây bàng đứng đó, nhìn em lớn lên và lưu giữ bao kỷ niệm ấu thơ. Em yêu cây bàng như yêu một người bạn gần gũi nhất, thân thương nhất và không bao giờ vắng mặt trong cuộc sống của em.

Vào mùa nào, cây bàng cũng có một vẻ đẹp riêng, khi trẻ trung xanh mướt khi già cỗi, sắt siu. Cây bàng lúc tươi tắn, lúc trầm ngâm, lúc vui, lúc buồn như con người vậy.

Em thích nhất là ngắm nhìn cây bàng vào xuân. Đó là mùa hồi sinh của vạn vật. Trong làn mưa bụi, hơi lạnh se se, những chồi non chúm chím hé nở trên những nhành cây gầy mảnh vươn dài, xoè rộng. Màu xanh non nớt, mượt mà ấy làm dãy phố sáng bừng lên sau một mùa đông dài xanh xám. Có lúc em thấy cây bàng đang cháy lên những ngọn nến xanh. Có lúc em lại thấy dường như bàng là một cô gái đang múa đèn duyên dáng. Cây bàng biến hoá với bao hình dáng kỳ diệu.

Những chồi bàng lớn rất nhanh. Khi trong những vòm lá bắt đầu lấp ló nhánh hoa li ti ấy là lúc mùa xuân sắp tàn nhường quyền tạo hoá cho mùa hè rực rỡ. Mùa hè sang mang đến cho cây bàng một sức sống mạnh mẽ. Cả phố phường ngợp bóng mát xanh um của những tán bàng toả rợp. Em lại được nô đùa chơi đồ hàng, chơi nhảy dây với lũ bạn dưới gốc bàng. Cây bàng đu đưa, rì rào hiền như một người bạn lớn tốt bụng xoè rộng cánh tay cầm ô che nắng cho chúng em vui chơi. Và mỗi buổi trưa hè, em lại mở cửa sổ ngủ dưới tiếng ve bàng râm ran êm ả, dưới vòm hương lá bàng nồng dịu và những chùm quả xanh non chao chao trong nắng.

Lũ trẻ trong xóm em bao giờ cũng háo hức đón cây bàng vào thu. Bởi khi ấy những chùm quả bàng bắt đầu chín toả hương thơm nồng nàn ngai ngái phảng phất quyến rũ khắp phố phường. Em còn nhớ một buổi chiều đi lao động ở trường, cả cô trò tụ tập dưới gốc bàng to nhất sân trường đẩy bàng chín ăn. Cô cứ đẩy được chùm nào cả bọn lại xúm xút tranh nhau. Em cắn ngập răng vào quả chín cảm nhận cái vị ngọt rất riêng, bùi ngùi như vị của nắng thu mà thêm yêu da diết cây bàng thân quen ấy. Cây bàng sần sùi, nâu xám. Mỗi vết nám là một kỷ niệm học trò được lưu giữ. Một ngày nào đó, khi em xa rời mái trường yêu dấu, em sẽ về đây đặt tay lên những vết chai sần này để tìm lại bao ký ức đẹp tuổi thơ.

Thương nhất là khi cây bàng vào đông. Dãy bàng ngoài phố thỉnh thoảng lại rùng mình khi cơn gió lạnh lướt qua. Trong nắng đông hao hao, những chiếc lá bàng đỏ sạm buồn buồn. Bà bán xôi đầu ngõ gói xôi bằng chiếc lá đỏ ấy cầm gói xôi vừa thổi vừa ăn, em mới thấy cây bàng dù khi tươi tốt hay khi tàn úa vẫn luôn luôn có ích cho đời. Dưới gốc bàng đơn côi, trơ trọi khẳng khiu ngoài phố, quán cóc mọc lên nhiều hơn, lũ trẻ xóm em ít ngồi chơi hơn. Còn ở sân trường thì thật vắng vẻ. Chúng em chẳng muốn ra ngoài vì lạnh. Lúc ấy trông cây bàng thật tội. Cái dáng gầy guộc, khô se thỉnh thoảng lại lay lay như muốn gọi chúng em “Lại đây chơi với tôi đi, tôi buồn lắm”! Nhưng chắc chắn bàng sẽ vượt qua mùa đông buốt giá một cách dễ dàng thôi. Trong cái giá rét ấy, những nhánh cây ngày nào cũng giơ ngón tay gầy gom nắng đông lại chăm chút, ấp ủ một cái gì đó để khi mùa xuân về thì tách lên những búp nõn xanh tươi. Cây bàng lại hồi sinh, lại bắt đầu một vòng sống mới đẹp đẽ hơn, rực rỡ hơn. Em rất khâm phục sức sống bất diệt của cây bàng.

Em yêu cây bàng như yêu một người bạn lặng thầm bình dị và gần gũi. Người bạn ấy lúc nào cũng ở bên cạnh em, có mặt trong cuộc sống của em. Một ngày nào đó, em không còn được ăn trái bàng chín thơm nồng, không được cầm gói xôi bọc lá bàng đỏ đầu đông nóng hổi, không được nghe tiếng ve bàng rộn rã thì cuộc sống khi ấy sẽ tẻ nhạt biết bao. Cây bàng là nhà ở, là phố phường, là trường học, là kỷ niệm… là tất cả những gì mà em gắn bó và yêu quý.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 7

Biểu cảm về loài cây em yêu: cây dừa

Được phát hành

,

Bởi

Có một loài cây từ lâu đã trở thành sự sống của người dân và trở thành hình tượng bất tử của nhiều vùng quê Việt Nam. Loài cây ấy cũng là nỗi nhớ mong trong lòng của tôi về tuổi thơ êm đềm nơi quê ngoại. Cây dừa ơi! Tôi mãi gọi tên dừa như gọi tên quê hương mình.

Quê ngoại tôi là xứ sở của dừa. Ở đây không chỉ có vài cây, vài rặng dừa mà là cả liếp dừa nối tiếp nhau nhìn xa xa như một cánh rừng. Cây dừa thân to tròn như một chiếc cột lớn giữa nhà. Lá dừa như những ngọn gươm khua xào xạc có lúc lại mềm mại như bàn tay cầm quạt của cô gái đang múa hát. Tôi yêu cái dáng đứng thẳng của dừa và cái ngẩng đầu thách thức dù mưa giông, bão tố. Hứng chịu bao cơ cực của cuộc đời, dừa lại chắt lọc những gì tinh tuý nhất vào quả của mình. Có lần tôi đã nghĩ quả dừa giống như những hủ rượu ngàn năm của Tề thiên đại thánh bỏ quên nơi trần gian. Chỉ khác một điều chắc gì rượu quý kia lại thơm ngon bằng nước dừa. Tôi thích thú với những chiếc rễ dừa to to vươn lên mặt đất. Ngày đó, tôi chưa học dừa là loại cây rễ chùm, chỉ biết rằng bộ rể đồ sộ kia lại có sự sống bền bỉ và bám chặt vào đất giành lấy sự sống của mình.

Làm sao có thể kể hết những lợi ích mà loài cây này mang đến cho con người. Ở quê ngoại tôi, dừa chính là nguồn lợi lớn nhất giúp người dân thoát nghèo, có cuộc sống đầy đủ hơn. Nước dừa vừa ngọt vừa thanh lại là thức uống bổ, rẻ nên được hầu hết mọi người ưa chuộng. Thân dừa già làm gỗ, lá dừa, cọng dừa khô làm củi, chiếc chổi bà tôi quét nhà cũng được làm từ những sóng lá nhỏ….Hình như người dân chúng tôi không bỏ đi thứ gì kể cả vỏ trái dừa. Hiếm có loài cây nào lại hữu ích đến thế và cũng hiếm loài cây nào được người dân chúng tôi trân quý đến thế. Hễ thấy một trái dừa khô nào ra mọng là bà tôi lại chọn một nơi tốt nhất để trồng.

Đối với chúng tôi, dừa là cả một miền thơ mộng. Dưới gốc dừa mát rượi, chúng tôi chơi trốn tìm, chơi nhảy dây, chơi nhà chòi. Có khi lại thích thú cuộn những chiếc lá dừa thành kèn rồi thổi tí te vui tai. Tôi yêu dừa như yêu những đứa bạn thân cùng xóm, yêu người dì tốt bụng gần nhà. Ai biết một ngày có cô bé nhớ mẹ ngồi khóc dưới gốc cây, mẹ đi chợ về mua ít bột, lấy nải chuối chín cây, bẻ thêm trái dừa khô làm bánh. Cô quên làm sao được cái hương vị thơm béo của nước cốt dừa hoà vào từng miếng bánh ngọt lịm ăn mãi vẫn không biết ngán. Ôi, cái hương vị của tuổi thơ là những ngọt, bùi của dừa mang lại khiến bao năm tháng trôi qua vẫn không thể nào quên.

Ai dám bảo mình chưa bao giờ thử uống một ngụm nước dừa thanh mát? Ai dám bảo mình sẽ quên hình bóng một loài cây của quê hương? Tôi có cố nhớ đâu sao cái dáng dừa soi bóng nước những trưa hè vẫn in hằn trong trí nhớ. Phải chăng đó sẽ mãi là kí ức, là kỉ niệm tươi đẹp trong đời. Cảm ơn dừa đã cho tôi bóng mát giữa đời thường và cho tôi những ngày tháng tuyệt vời của tuổi thơ.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 7

Biểu cảm về loài cây em yêu: cây đa làng em (1)

Được phát hành

,

Bởi

Đầu làng em có một cây đa có lẽ đã vài trăm tuổi. Thân cây lớn lắm! Rễ đa ngoằn ngoèo như những con trăn khổng lồ uốn khúc. Xung quanh gốc chính là hàng chục gốc phụ khiến cho cây thêm bề thế và vững chãi. Cách xa hàng cây số đã nhìn thấy bóng đa cao vượt khỏi luỹ tre làng, sừng sững in trên nền trời xanh biếc.

Bóng đa che mát một khoảng đất rộng. Chim chóc làm tổ trên cành, suốt ngày ríu rít. Đang đi trên đường nắng chang chang, khách ghé chân vào quán tranh nghỉ tạm, uống một bát nước chè tươi hãm đặc, tận hưởng cơn gió nồm nam lồng lộng thổi, quả là không có gì sung sướng bằng, bao nhiêu mỏi mệt đều tan biến hết.

Tuổi thơ chúng em cũng tìm được ở cây đa nhiều điều kì thú. Lá đa to, dày và xanh bóng đem cuộn tròn lại, xé hai bên mép lá làm sừng, buộc một mẩu dây chuối khô vào cuống rồi luồn vào trong, khe khẽ kéo… Thế là đã được một con trâu lá đa, cặp sừng cong cong, cái đầu gục gặc như sẵn sàng nghênh chiến. Nào là trâu bố, trâu mẹ, nghé tơ… nằm quây quần bên nhau, nhìn mới thích làm sao!

Những chiếc búp đa khô quăn queo màu nâu rơi trên mặt cỏ có thể nhặt về làm kèn. Kèn búp đa ngậm vào miệng rồi phồng má thổi, nó kêu “toe” lên một tiếng, kèm theo chuỗi cười trong, trẻo vang xa.

Chiều hè, chúng em thường túm năm tụm bảy dưới gốc đa để thi thả diều. Bờ con mương chạy ngang cảnh đồng lang là nơi thả diều lí tưởng. Những cánh diều chấp chới bay cao; tiếng sáo diều vi vu ngân nga giữa không trung bát ngát.

Ông em kể rằng cây đa đã chứng kiến bao sự kiện buồn vui của làng. Lá cờ đỏ sao vàng đầu tiên phất phới bay trên ngọn đa. Cuộc mít tinh đầu tiên của dân làng thành lập chính quyền cách mạng cũng diễn ra dưới gốc đa. Trong hai cuộc chiến tranh chông Pháp và chống Mĩ, những cuộc tiễn đưa thanh niên lên đường nhập ngũ cũng được tổ chức ở đây… Rồi chuyện làm ăn hằng ngày, chuyện đổi mới không ngừng của làng của nước, bà con trao đổi với nhau dưới bóng mát cây đa. Cây đa cổ thụ quả đúng là nhân chứng lịch sử của làng.

Tiếp tục đọc

Xu hướng