Connect with us

Sách hay

Các ‘ông lớn’ thay đổi ngành xuất bản Mỹ ra sao?

Được phát hành

,

Một tác phẩm mới hé lộ sự xuất hiện của các tập đoàn xuất bản lớn đã tác động tới mọi ngõ ngách của đời sống văn học Mỹ.

Vào những năm 1980, ngành xuất bản Mỹ dần đón nhiều thay đổi sâu sắc. Trong vài thập kỷ, ngành xuất bản Mỹ đã chuyển đổi từ một ngành phát triển cục bộ, chủ yếu tập trung ở Bờ Đông, thành một ngành kinh doanh vươn ra quốc tế.

Bắt đầu từ những năm 1960, những công ty như Random House và Penguin được đưa vào tầm ngắm của các tập đoàn đa quốc gia như RCA và Pearson, những tập đoàn muốn đa dạng hóa nguồn doanh thu của mình.

Chiến lược đa dạng của những tập đoàn lớn này đã thúc đẩy hoạt động kinh doanh sách tại Mỹ, khiến các nhà xuất bản như Random House và Penguin nhanh chóng mở rộng, sáp nhập và dần thâu tóm thị trường xuất bản Mỹ.

xuat ban My anh 1
Độc quyền trong ngành xuất bản gia tăng với sự kiểm soát của các nhà xuất bản lớn. Ảnh: Newyorker.

Biến đổi nhanh chóng nhờ sự lớn mạnh của các tập đoàn

Và trong tác phẩm mới của mình Big Fiction: How Conglomeration Changed the Publishing Industry and American Literature, tác giả Dan Sinykin đã lập luận cụ thể những bí mật kinh doanh trong quá trình hình thành nên những tập đoàn xuất bản lớn đã thay đổi ngành sách Mỹ ra sao.

Năm 1960, New American Library, một trong những nhà xuất bản bìa mềm lớn nhất và thành công nhất trên thị trường đại chúng Mỹ thời điểm đó, đã bị công ty báo chí Times Mirror mua lại. Một nhà xuất bản đại chúng khác, Pocket Books, đã sáp nhập với nhà xuất bản thương mại Simon & Schuster vào năm 1966.

Một năm sau khi lên được sàn chứng khoán, Random House mua lại một trong những đối thủ của mình, Knopf. Hay đến năm 2013, khi Penguin sáp nhập với Random House để tạo nên đế chế xuất bản mới, việc xuất bản sách tại Mỹ ngày càng gắn nhiều hơn với giá trị thương mại thực tế.

xuat ban My anh 2
Tác phẩm ra mắt ngày 24/10. Ảnh: Amazon.

Theo tác giả quan sát, trước khi các nhà xuất bản lớn hợp nhất với nhau, viết và ra mắt sách “là một trải nghiệm hoàn toàn khác”. Vào những năm sau chiến tranh, ngành xuất bản Mỹ còn tương đối nhỏ và hoạt động cục bộ.

Các nhà xuất bản chủ yếu do gia đình sở hữu, điều hành và số lượng hiệu sách, nhà phê bình sách không quá nhiều. Nhà xuất bản Random House ban đầu cũng do hai nhà văn Bennett Cerf và Donald Klopfer sáng lập, không khí làm việc cũng rất thân mật. Thời điểm đó, cơ hội được xuất bản của một tiểu thuyết gia phụ thuộc vào việc “có thể dễ dàng đưa cuốn sách của mình đến tay người biên tập phù hợp hay không”.

Nhưng khi các tập đoàn xuất bản ngày càng lớn mạnh, hoạt động của ngành dần quan tâm nhiều hơn đến tính thương mại. Ngày nay, nhà xuất bản giống một quỹ bảo hiểm rủi ro hơn là nơi tạo nên những tác phẩm văn học giàu hương vị.

Mỗi cuốn sách họ muốn xuất bản đều là một lần đặt cược vào lợi nhuận. Và các công đoạn trong quá trình xuất bản đều nhằm hạ chỉ số rủi ro thua lỗ đến mức thấp nhất. Quy trình này hiện đều diễn ra trong mọi nhà xuất bản, bất kể quy mô nào. Ví dụ, 5 nhà xuất bản lớn (Big Five) đều muốn theo đuổi những tác phẩm có tiềm năng ăn khách và có thể thành nhượng quyền thương mại hoặc chuyển thể thành phim.

Trong khi đó, các nhà xuất bản độc lập và tổ chức phi lợi nhuận như W.W. Norton và Graywolf Press thì tìm cách tạo dựng chỗ đứng riêng của họ bằng cách tập trung vào những cuốn sách có đối tượng độc giả hẹp nhưng sẵn sàng chi tiền (như thơ, văn của những tiếng nói bị gạt ra ngoài lề xã hội).

Thế hệ nhà văn công nghiệp

Trong tình hình mới, các nhà văn có nhiều điều cần làm hơn là sáng tác. Các tác giả phải đáp ứng nhiều tiêu chuẩn hơn từ thị trường như: “Các nhà tiếp thị có nhìn thấy tiềm năng của cuốn sách không? Những người mua sách tại các chuỗi nhà sách có cảm nhận ra sao? Các nhà báo đánh giá ra sao về khả năng một tác giả xuất hiện trên TV hay radio? Bản quyền sách ra nước ngoài có ‘đắt hàng’ tại Hội chợ sách Frankfurt không? Tác phẩm đó có thể chuyển sang sách nói hay chuyển thể thành phim không?…”.

Sinykin gọi những tác giả thành công đáp ứng rất nhiều yêu cầu như trên là “những nhà văn công nghiệp”, bao gồm các nhà văn đứng đầu bảng xếp hạng doanh số, chẳng hạn như Danielle Steel, Michael Crichton hay Stephen King. Hay một trường hợp rõ ràng khác là Cormac McCarthy.

Năm 1965, cuốn tiểu thuyết đầu tiên của McCarthy The Orchard Keeper được một biên tập viên huyền thoại của Random House tên là Albert Erskine xuất bản. Erskine, người từng là quản lý cho những nhà văn nổi tiếng nhất của công ty, như William Faulkner và Ralph Ellison, tình cờ tìm thấy một bản thảo của McCarthy trong đống bản thảo bỏ đi và tuyên bố sẽ nỗ lực hỗ trợ cho nhà văn này. Mặc dù những cuốn sách đầu tiên của McCarthy không có nhiều lợi nhuận nhưng ông vẫn có thể sống bằng nghề viết văn nhờ sự giúp đỡ của các chương trình trợ cấp được đảm bảo nhờ ảnh hưởng của Erskine.

Khi Erskine nghỉ hưu vào năm 1987, McCarthy cần một người biên tập bảo trợ mới. Ông đã liên hệ với Lynn Nesbit, người đại diện văn học của Robert Caro. Nesbit sau đó đã giới thiệu McCarthy cho nhà biên tập bảo trợ của bà là Amanda (Binky) Urban. Tình cờ thay, Urban lại là người ngưỡng mộ tác phẩm của McCarthy và bà đảm bảo rằng cuốn sách tiếp theo của ông sẽ thành công.

Với sự hỗ trợ của Urban và nhiều người khác được bà nhờ tới, tác phẩm của McCarthy được chau chuốt cả về nội dung, hình ảnh tác giả và trang bìa. Tất cả đã mang tới thành công cho cuốn All the Pretty Horses năm 1992. Cuốn sách này đã bán được 190 nghìn bản trong sáu tháng đầu tiên và được chuyển thể thành phim Hollywood vào năm 2000. Đến năm 2007, khi Câu lạc bộ sách của Oprah và Giải Pulitzer vinh danh cuốn The Road, McCarthy không còn là một nhà văn viết những cuốn tiểu thuyết khó hiểu nữa mà là một tác giả nổi tiếng dễ tiếp cận.

Tuy nhiên, không dễ dàng để các nhà văn trẻ có được cơ hội gây dựng quan hệ với biên tập viên như Cormac McCarthy vào thời điểm ban đầu sự nghiệp. Ngày nay, nếu cuốn tiểu thuyết đầu tiên thất bại, những tác phẩm sau đó của họ rất khó có cơ hội ra mắt.

Và dù không đưa ra kết luận rõ ràng nào về việc liệu sự phát triển của các tập đoàn có mang đến tiêu cực cho thế giới xuất bản hay không, thì Sinykin vẫn cho độc giả thấy rằng thế giới của các “ông lớn” xuất bản đang đầy biến động giữa một nền kinh tế bùng nổ và suy thoái.

Với quy mô quá lớn, việc quản lý các nhân viên xuất bản, từ nhà kho đến văn phòng, cũng như việc tiếp cận tác phẩm, tác giả, còn nhiều lỗ hổng.

9 tháng sau khi Bộ Tư pháp Mỹ thành công ngăn chặn việc sáp nhập giữa Penguin Random House và Simon & Schuster, thì một công ty tư nhân đã thành công tiếp quản Simon & Schuster. Tương lai của các “ông lớn” xuất bản dường như không chắc chắn và hỗn loạn hơn bao giờ hết.

Nguồn: https://znews.vn/cac-ong-lon-thay-doi-nganh-xuat-ban-my-ra-sao-post1448095.html

Sách hay

Dám làm

Được phát hành

,

Bởi

“Dám làm: Những bài học về lãnh đạo của tôi tại GE” ghi lại những kinh nghiệm và bài học của Jeff Immelt, cựu CEO của General Electric (GE), từ thời gian lãnh đạo tập đoàn này.

Tôi là một gã chăm “cày cuốc” đích thực, một tín đồ chân chính, đã có hình xăm “thịt viên” của GE (cách người trong nhà gọi logo của công ty) bên eo trái để làm bằng chứng.

Năm 2001, tôi trở thành CEO của một công ty, nơi nhận thức không tương đương với hiện thực. Công ty tôi kế thừa từ Jack Welch có một văn hóa hùng mạnh và những con người tuyệt vời. Nhưng chúng tôi đã cạn kiệt ý tưởng. Một năm trước, khi đang điều hành GE Healthcare, tôi đã cố mua một công ty siêu âm tên Acuson, nhưng Jack gạt đi vì nó nằm ở Mountain View, California và “dân ở đấy điên lắm”.

Tôi không đồng tình; địa điểm của nó sẽ cho chúng tôi một bàn đạp (như nó đã mang lại cho đối thủ Siemens của chúng tôi, tập đoàn về sau đã mua lại nó) tại Thung lũng Silicon, thiên đường của đổi mới. Trong khi một số người trong nội bộ GE tin rằng công ty chắc chắn sẽ ăn nên làm ra mãi mãi, song tôi lại lo lắng rằng chúng tôi đã trở nên quá trì trệ và thiếu óc tò mò.

Than chu anh 1

Hình ảnh Jeff Immelt gắn liền với thương hiệu GE. Ảnh: CNBC.

Trong ít nhất một thập kỷ, chúng tôi đã sử dụng gã khổng lồ dịch vụ tài chính GE Capital để thúc đẩy tăng trưởng và hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp của mình. Nhưng khi tôi tiếp quản chức vụ, rất hiếm nhà quan sát hiểu được rằng chúng tôi đã đầu tư ít ỏi đến mức nào vào các doanh nghiệp công nghiệp đó.

Chúng tôi là một tập đoàn đa ngành cồng kềnh, ôm đồm đủ mọi thứ từ động cơ phản lực đến mạng truyền hình hay hợp đồng bảo hiểm cho chó mèo. Tuy nhiên, chúng tôi được định giá như một công ty công nghệ, về cơ bản là được giao dịch ở mức cao hơn đáng kể so với giá trị của các doanh nghiệp mà chúng tôi có.

Vì vậy, khi lên làm CEO, tôi đã nỗ lực cải tổ công ty, tái đầu tư vào danh mục đầu tư công nghiệp, cải thiện công nghệ và mở rộng dấu ấn toàn cầu của chúng tôi. Và tôi đã làm điều đó mà không hở một lời tiêu cực nào về Jack Welch.

Đó là một lựa chọn đầy rủi ro. Rất khó thúc đẩy thay đổi trong khi đội ngũ của bạn cảm thấy mọi thứ đều đã hoàn hảo. Nhưng vào thời điểm đó, cách tiếp cận này có vẻ đúng đắn. Người tiền nhiệm của tôi được xem là CEO tốt nhất trong lịch sử. Hy vọng của tôi là bảo tồn di sản của ông bằng cách khắc phục những chỗ mà tôi thấy là đã hỏng hóc trước khi chúng kịp hủy hoại chúng tôi.

Nhưng quá thường xuyên trong nhiệm kỳ của tôi, mong muốn bảo vệ GE bằng cách phát triển nó phải bị đặt xuống hàng thứ yếu khi các cuộc khủng hoảng đe dọa thành công của công ty – và nhiều khi là chính sự tồn vong của nó.

Đối với tôi, GE là một câu chuyện không thể đậm tính cá nhân hơn. Tôi là con trai của người đã làm đại diện thu mua của GE suốt 38 năm. Trước khi trở thành CEO, tôi đã bước lên từng nấc thang trong công ty, học hỏi tại ba mảng của GE. Tôi là một gã chăm “cày cuốc” đích thực – một tín đồ chân chính, đã có hình xăm “thịt viên” của GE (cách người trong nhà gọi logo của công ty) bên eo trái để làm bằng chứng. (Tôi sẽ nói thêm về vụ đó sau).

Tôi là gã cuối tuần nào cũng làm việc, là gã không bao giờ tiêu một xu để trang trí văn phòng của riêng hắn, là gã mang tem mình tự mua đến công ty để dán lên thư cá nhân. Nếu tôi có một câu thần chú, thì đó sẽ là: Tôi không phải trung tâm, GE mới là trung tâm.

Nguồn: https://znews.vn/than-chu-cua-ceo-tap-doan-da-quoc-gia-post1533409.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Bộ não đau buồn

Được phát hành

,

Bởi

Sách mang đến một góc nhìn mới nhưng không kém phần hấp dẫn về ảnh hưởng của nỗi đau đối với bộ não và phương pháp bộ não mã hóa tình yêu của con người đối với người thân, giúp chúng ta hiểu rõ nguồn gốc của nỗi đau khi không còn người thân bên cạnh và giải pháp vượt qua các cảm xúc khủng hoảng đó.

Bạn đang sử dụng bản đồ não để đi tới đi lui trong không gian quen thuộc này, thân thể bạn sẽ đến nơi mà não bạn đã gửi nó đi.

Khi giải thích mặt sinh học thần kinh của nỗi đau buồn, tôi thường bắt đầu bằng một phép ẩn dụ dựa trên một trải nghiệm quen thuộc. Tuy nhiên, để phép ẩn dụ này dễ hiểu, bạn phải chấp nhận một giả thiết. Giả thiết ấy là có kẻ nào đó đã trộm mất chiếc bàn ăn nhà bạn.

Tưởng tượng là bạn trở mình dậy khát khô lúc nửa đêm. Bạn bước khỏi giường và đi tới phía bếp lấy một ly nước. Xuống hành lang, bạn băng qua phòng ăn tối đen về phía nhà bếp. Đúng lúc hông bạn đáng ra sắp va vào góc cứng bàn ăn, bạn cảm thấy… hừm, bạn cảm thấy gì? Không gì hết. Bạn đột nhiên nhận ra là bạn không cảm thấy có bất cứ điều gì ở chỗ cao ngang hông bạn.

Đó là điều bạn nhận ra được, bạn không cảm thấy có điều gì đó, điều gì đó cụ thể. Chuyện vắng mặt thứ gì đó là điều đã thu hút bạn chú ý. Điều này thật lạ kỳ, ta thường nghĩ phải là điều gì đó mới thu hút ta chú ý, làm sao không gì cả có thể thu hút ta chú ý?

Ban do anh 1

Não bộ có một cơ chế vận hành đặc biệt. Ảnh: Science Magazinee.

Vâng, thực tế là bạn không chỉ bước đi trong mỗi thế giới này. Hay chính xác hơn, hầu hết thời gian là bạn đang cùng bước đi trong hai thế giới. Trong đó một thế giới là bản đồ thực tế ảo được tạo nên hoàn toàn trong đầu bạn. Não bạn đang dịch chuyển con người bạn xuyên qua bản đồ ảo mà nó đã tạo ra, đó là lý do tại sao bạn có thể đi lại quanh nhà khá dễ dàng trong bóng đêm; bạn hiện không sử dụng thế giới bên ngoài để định hướng. Bạn đang sử dụng bản đồ não để đi tới đi lui trong không gian quen thuộc này, thân thể bạn sẽ đến nơi mà não bạn đã gửi nó đi.

Bạn có thể coi bản đồ não ảo về thế giới này như bản đồ Google trong đầu bạn. Bạn đã từng bao giờ trải nghiệm làm theo chỉ dẫn di chuyển bằng giọng nói mà hoàn toàn không chú ý nơi mình đang lái xe tới chưa? Có lúc giọng nói yêu cầu bạn rẽ vào một con đường, song bạn phát hiện ra đó thực ra là đường cho xe đạp.

GPS và thế giới thực không phải lúc nào cũng khớp nhau. Giống bản đồ của Google, bản đồ não dựa trên thông tin trước đó nó có về khu vực. Tuy nhiên, để giữ an toàn cho bạn, não có những khu vực chuyên dành phát hiện lỗi, nhận biết bất kỳ tình huống nào bản đồ não và thế giới thực không khớp nhau. Nó chuyển sang thông tin thị giác nhận vào mỗi khi một lỗi được phát hiện (và nếu trời tối, thì ta sẽ quyết định bật đèn).

Ta dựa vào bản đồ não vì việc dẫn dắt cơ thể theo bản đồ tâm trí sẽ bớt tốn công tính toán lại rất nhiều so với xuyên qua ngôi nhà quen thuộc như thể đó là trải nghiệm đầu tiên, như thể mỗi lần lại phải khám phá lại vị trí của ô cửa, bức tường và đồ nội thất, rồi quyết định làm sao định vị và đi qua từng thứ.

Không ai mong đợi bàn ăn nhà họ bị trộm mất. Và càng không ai mong đợi người thân yêu mất. Ngay cả khi một người bị bệnh trong một thời gian rất dài, cũng không ai biết được để bước tiếp trên thế giới này mà không có họ thì sẽ ra sao.

Là một nhà khoa học, đóng góp của tôi là nghiên cứu nỗi đau buồn từ góc độ của não, từ góc độ mà não đang cố giải quyết một vấn đề khi đối diện việc người quan trọng nhất cuộc đời ta không còn.

Nỗi đau buồn là một vấn đề đau lòng thắt ruột mà não phải giải quyết và việc đau buồn đòi hỏi bạn phải học cách sống trong một thế giới vắng mặt người bạn yêu thương đậm sâu, người đã khắc ghi vào hiểu biết trong bạn về thế giới. Điều này có nghĩa là đối với não, người thân yêu của bạn mất đi nhưng đồng thời cũng còn mãi, và bạn đang bước xuyên qua hai thế giới cùng một lúc. Bạn đang phải lèo lái cuộc sống của mình dù thực tế là nó đã bị cướp mất khỏi bạn, một giả thiết vô nghĩa, vừa khó hiểu vừa khó chịu.

Nguồn: https://znews.vn/vi-sao-ban-di-chuyen-duoc-trong-bong-dem-post1533397.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Rủi ro từ những đồng tiền ảo như Pi, Bitcoin

Được phát hành

,

Bởi

Những loại tiền ảo như Pi, Ethereum, Bitcoin có thể tồn tại nhiều rủi ro từ pháp lý, bảo mật cho đến biến động thị trường.

pi network anh 1

Ảnh minh họa Pi Network. Nguồn: The Crypto Times.

Tiền ảo, đặc biệt là Bitcoin và Pi, đã trở thành một hiện tượng tài chính toàn cầu, thu hút sự chú ý của giới đầu tư cũng như các cơ quan quản lý. Tuy nhiên, đi kèm với sự phát triển nhanh chóng, tiền ảo cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro đáng lo ngại, từ pháp lý, bảo mật, gian lận đến biến động thị trường.

Những vấn đề của tiền ảo

Một trong những vấn đề người chơi tiền ảo phải đối mặt là rủi ro pháp lý. Theo cuốn sách Cryptocurrencies and Cryptoassets của nhà xuất bản Taylor & Francis, Bitcoin từng bị sử dụng trong các giao dịch chợ đen, rửa tiền và trốn thuế. Điều này khiến nhiều chính phủ trên thế giới phải đưa ra các biện pháp kiểm soát nghiêm ngặt.

Trung Quốc đã cấm hoàn toàn hoạt động giao dịch tiền ảo, trong khi Nhật Bản yêu cầu các sàn giao dịch phải tuân thủ quy định về chống rửa tiền (AML) và xác minh danh tính khách hàng (KYC). Việc thiếu đi một hệ thống pháp lý thống nhất giữa các quốc gia có thể đặt ra câu hỏi về tính thanh khoản và khả năng tồn tại lâu dài của tiền ảo.

Bên cạnh đó, rủi ro bảo mật là mối lo ngại thường trực. Mặc dù nền tảng Bitcoin chưa từng bị tấn công nghiêm trọng, nhưng các sàn giao dịch tiền ảo lại là mục tiêu thường xuyên của tin tặc.

pi network anh 2

Mark Karpeles, CEO Mt. Gox là người giúp sàn giao dịch này vươn lên vị trí số một vào năm 2013. Ảnh: Bloomberg.

“Sự sụp đổ của sàn Mt.Gox tại Nhật Bản do bị đánh cắp hàng triệu đôla Bitcoin là một minh chứng điển hình. Năm 2018, vụ tấn công vào sàn Coincheck khiến hơn 530 triệu USD tiền ảo bị thất thoát. Trong chín tháng đầu năm đó, tổng giá trị tiền ảo bị đánh cắp lên đến 927 triệu USD“, trích từ cuốn sách Cryptocurrencies and Cryptoassets.

Ngoài vấn đề bảo mật, gian lận cũng là một nguy cơ lớn đối với thị trường tiền ảo. Theo số liệu từ Anh, chỉ riêng trong tháng 6 và 7 năm 2018, có tới 203 vụ lừa đảo liên quan đến tiền điện tử với tổng thiệt hại hơn 2 triệu euro, trung bình mỗi nạn nhân mất hơn 10.000 euro.

Một rủi ro khác là tính biến động cao của tiền ảo. Bitcoin từng có thời điểm mất đến 61% giá trị chỉ trong một ngày vào năm 2013 và giảm tới 80% trong năm 2014. Năm 2018, thị trường tiền ảo tiếp tục chứng kiến sự lao dốc mạnh mẽ trước khi phục hồi dần vào giữa năm 2019. Giá trị của Bitcoin và các đồng tiền khác phụ thuộc phần lớn vào tâm lý thị trường và sự chấp nhận của người dùng, khiến chúng trở thành công cụ đầu tư có độ rủi ro cao.

Khi một sàn giao dịch phá sản, nhà đầu tư có thể mất trắng

Theo cuốn sách Cryptocurrency Risk and Governance Challenges (2023), nhiều nhà kinh tế học lo ngại rằng tiền điện tử không có đầy đủ đặc điểm của một loại tiền tệ thực sự mà chỉ là tài sản đầu cơ với mức độ rủi ro cao hơn nhiều so với các loại tài sản khác.

pi network anh 3

Cuốn sách Cryptocurrency Risk and Governance Challenges của nhà xuất bản Taylor & Francis. Ảnh: Amazon.

Ngân hàng Trung ương Malaysia (Bank Negara Malaysia) từng chỉ ra rằng trái ngược với vàng hay ngoại tệ, những tài sản có tính thanh khoản cao trong thời kỳ bất ổn, tiền điện tử chủ yếu được nắm giữ để đầu cơ, khiến giá trị của chúng dễ bị tổn thương trước sự thay đổi của thị trường. Nếu các bên tham gia không sẵn sàng chấp nhận giao dịch bằng tiền ảo, giá trị của chúng có thể trở nên vô nghĩa.

Những biến động giá mạnh, rủi ro bảo mật cũng là một vấn đề lớn đối với các nhà đầu tư tiền ảo. Theo cuốn The Book of Crypto của tác giả Henri Arslanian, các nền tảng giao dịch tiền ảo không có sự bảo vệ của các tổ chức bảo hiểm như FDIC (Mỹ) hay các hệ thống bảo đảm tiền gửi truyền thống. Khi một sàn giao dịch phá sản, nhà đầu tư có thể mất toàn bộ số tiền của mình.

Ngoài ra, nhiều dự án tiền ảo kêu gọi vốn bằng hình thức ICO (Initial Coin Offering) nhưng thực chất chỉ là mô hình lừa đảo Ponzi. Các nền tảng cho vay tiền ảo cũng đối mặt với nguy cơ sụp đổ do quản lý rủi ro kém, như trường hợp của nền tảng Cred – công ty tuyên bố phá sản vào năm 2020 khiến nhiều nhà đầu tư mất trắng.

Không thể phủ nhận rằng thị trường tiền điện tử vẫn còn nhiều rủi ro tiềm ẩn. Dữ liệu từ báo cáo của Fidelity năm 2021 cho thấy hơn 90% tổ chức tài chính đang quan tâm đến loại tiền này nhưng mức độ tham gia vẫn còn hạn chế do tính bất ổn và thiếu khung pháp lý rõ ràng.

Nguồn: https://znews.vn/rui-ro-tu-nhung-dong-tien-ao-nhu-pi-bitcoin-post1533272.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng