Connect with us

Sách hay

Biến Động

Được phát hành

,

Biến động là cuốn sách khảo sát 7 quốc gia ở các châu lục, phân tích quá trình họ gặp phải, đối mặt và vượt qua biến cố lớn trong quá khứ. Cuốn sách kết hợp những kiến thức lịch sử, địa lý, kinh tế, nhân chủng học, tâm lý, đưa ra những bài học từ quá khứ để rút kinh nghiệm cho hiện tại, tương lai.

“Nước Mỹ đến hôm nay vẫn có ít vốn xã hội để đề kháng với sự xuất hiện của những sức mạnh công nghệ hiện đại làm mất đi cá tính con người”, tác giả Jared Diamond viết.

Việc mở rộng câu hỏi của chúng ta về tính phân cực chính trị ở Mỹ ngày nay – từ việc chỉ bàn về quan điểm phân cực của các chính trị gia, đến việc nói quan điểm phân cực của toàn bộ cử tri nước Mỹ – cũng quá hạn hẹp.

Nó chỉ mới đặt vấn đề về sự phân cực trong lĩnh vực chính trị. Tuy nhiên, hiện tượng này thậm chí còn rộng lớn hơn: Sự phân cực, tính không khoan dung và lạm dụng cũng đang gia tăng trong các lĩnh vực khác của đời sống Mỹ, bên cạnh lĩnh vực chính trị.

Xa hoi My anh 1

Cuộc sống người Mỹ bị tác động như thế nào bởi công nghệ? Ảnh minh họa: Storymaps.arcgis.

Thời gian xem truyền hình cùng nhau gấp ba lần nói chuyện với nhau

Những độc giả người Mỹ trên 40 tuổi, xin xem lại những thay đổi mà bạn từng chứng kiến về hành vi ứng xử trong thang máy của người Mỹ (giờ đây những người đang chờ vào thang máy ít khi chờ những người trong thang máy bước ra); giảm tác phong lịch sự trong giao thông (không nhường người lái xe khác); sự thân thiện khi gặp nhau trên đường đi dạo và trên đường phố (người Mỹ dưới 40 tuổi ít chào người lạ hơn so với người trên 40 tuổi).

Và trên hết, trong nhiều giới, những “phát biểu” đủ loại ngày càng bị lạm dụng, đặc biệt là trong giao tiếp điện tử.

Tôi đã trải nghiệm những xu thế này ngay khi bước vào đời sống nghiên cứu học thuật của Mỹ vào năm 1955. Các cuộc tranh luận học thuật ở Mỹ ngày nay trở nên thô bạo hơn so với 60 năm trước.

Khi khởi đầu sự nghiệp học thuật, tôi tham gia các cuộc tranh luận, cũng giống như bây giờ. Nhưng trước đây, tôi xem các nhà khoa học bất đồng ý kiến trong tranh luận như bạn bè cá nhân chứ không phải kẻ thù cá nhân.

Chẳng hạn, tôi nhớ một chuyến nghỉ ngơi ở Anh sau hội nghị sinh lý học, còn đi tham quan các tu viện dòng Cistercian bị hủy hoại với một nhà sinh lý học người Mỹ tốt bụng, hiền lành mà tôi rất không đồng ý về cơ chế vận chuyển nước qua biểu mô tại hội nghị.

Ngày nay, điều này không thể xảy ra được mà thay vào đó, tôi liên tục bị kiện cáo, hoặc bị dọa đưa ra tòa và chịu sự lăng mạ từ các học giả không đồng ý với mình.

Những đơn vị chủ nhà mời tôi thuyết trình đã buộc phải thuê vệ sĩ để che chở tôi khỏi những chỉ trích giận dữ. Một học giả đã kết luận trong bài điểm sách về một trong những cuốn sách của tôi với dòng chữ “Hãy câm miệng lại!”.

Đời sống học thuật phản ánh cuộc sống của người Mỹ nói chung, cũng như các chính trị gia, cử tri, người đi thang máy, người lái xe và người đi bộ. Những đấu trường trong cuộc sống Mỹ là những khía cạnh của cùng một hiện tượng được bàn luận rộng rãi: Sự suy thoái của cái gọi là “vốn xã hội”.

Theo định nghĩa của nhà khoa học chính trị Robert Putnam trong cuốn Bowling Alone (Chơi Bowling một mình): “Vốn xã hội đề cập các kết nối giữa các cá nhân – mạng xã hội cùng chuẩn mực tương hỗ và đáng tin cậy phát sinh từ chúng”.

Theo nghĩa đó, vốn xã hội có liên quan mật thiết đến cái mà một số người gọi là “phẩm hạnh công dân”.

Đó là sự tin tưởng, tình bạn, liên kết nhóm, sự giúp đỡ và mong cầu giúp đỡ được xây dựng qua việc tích cực tham gia và trở thành thành viên của các nhóm, từ câu lạc bộ sách, câu lạc bộ bowling, câu lạc bộ bài Bridge, cộng đồng sinh hoạt nhà thờ, các tổ chức cộng đồng và hội phụ huynh – giáo viên đến các tổ chức chính trị, hiệp hội nghề chuyên nghiệp, câu lạc bộ thiện nguyện Rotary, họp hành trong thị trấn, nghiệp đoàn, hiệp hội cựu chiến binh, và nhiều hội đoàn khác.

Việc tham gia các hoạt động nhóm như vậy thúc đẩy sự tương hỗ: Nghĩa là làm những điều cho người khác và với người khác, tin tưởng họ, đồng thời cũng dựa vào họ và các thành viên khác trong nhóm để hỗ trợ cho bạn.

Nhưng người Mỹ ngày càng giảm tham gia vào các nhóm thường gặp nhau trực tiếp như thế, trong khi việc tham gia vào các nhóm trực tuyến mà không bao giờ gặp, nhìn hoặc nghe thấy nhau ngày càng gia tăng.

Một lời giải thích mà Putnam và nhiều người khác đưa ra về sự suy thoái vốn xã hội ở Mỹ là sự gia tăng giao tiếp gián tiếp gây mất mát cho việc giao tiếp trực diện.

Điện thoại xuất hiện vào năm 1890 nhưng đến khoảng năm 1957 mới bão hòa thị trường Mỹ. Đài phát thanh khởi sự bão hòa từ năm 1923 đến năm 1937 và truyền hình thì từ năm 1948 đến năm 1955.

Thay đổi lớn nhất mới nảy sinh gần đây là Internet, điện thoại di động và tin nhắn điện tử. Chúng ta sử dụng radio và truyền hình để tiếp nhận thông tin và giải trí, trong khi điện thoại và những phương tiện điện tử gần đây cũng cho những mục đích tương tự nhưng cộng với giao tiếp.

Nhưng trước khi phát minh ra chữ viết, mọi thông tin và giao tiếp của con người thường phải mặt đối mặt khi mọi người nói chuyện với nhau hay cùng xem/nghe trình diễn (diễn giả, nhạc sĩ và diễn viên).

Mặc dù các rạp chiếu phim phát triển sau năm 1900 không đem lại thú vui trực diện, chí ít chúng cũng đưa mọi người ra khỏi nhà để nhập vào các nhóm xã hội và thường được cùng bạn bè thưởng thức như một phần mở rộng của việc đi xem diễn giả, nhạc sĩ, và diễn viên cùng bạn bè.

Tuy nhiên, ngày nay, nhiều trò giải trí của chúng ta – điện thoại thông minh, iPod và trò chơi điện tử – mang tính đơn độc hơn là xã hội.

Chúng được chọn lựa để giải trí mang tính cá nhân, cũng như thông tin chính trị được lựa chọn mang tính riêng tư. Tuy vậy, truyền hình vẫn là hình thức giải trí phổ biến nhất đối với người Mỹ, giữ người Mỹ ở nhà, dù chỉ còn là trên danh nghĩa với các thành viên trong gia đình.

Người Mỹ dành thời gian xem truyền hình cùng nhau gấp ba đến bốn lần so với nói chuyện với nhau và ít nhất một phần ba tổng thời gian xem truyền hình chỉ riêng một mình (thường là trên Internet thay vì ngồi trước màn hình tivi). Hệ quả là những người nghiện xem truyền hình ít tin tưởng người khác và ít tham gia tổ chức tự nguyện hơn so với những người không nghiện.

Trước khi đổ lỗi cho việc xem truyền hình gây ra những hành vi đó, người ta có thể phản bác: Cái gì là nguyên nhân và cái gì là kết quả, hoặc hai tập hợp hiện tượng này chỉ tương quan với nhau chứ không phải hành vi này là nguyên nhân của hành vi kia?

Một khảo sát tình cờ ở Canada đã làm sáng tỏ câu hỏi này. Trong một thung lũng ở Canada có ba thị trấn lẽ ra thì giống nhau, nhưng một trong số đó nằm ngoài tầm phủ sóng truyền hình phục vụ trong vùng.

Sau cùng, khi thị trấn đó được phủ sóng, việc tham gia vào các câu lạc bộ và cuộc họp lại giảm đi so với trước đó, xuống đến mức tương đương với hai thị trấn kia.

Điều này cho thấy rằng việc xem truyền hình gây ra sự suy giảm tham gia cộng đồng; đó không phải là trường hợp mà những người vốn đã không tham gia sau đó lại chọn xem truyền hình.

Xa hoi My anh 2

Sách Biến động trong bộ Lịch sử nhân loại của Jared Diamond. Ảnh: Omega Plus.

Mối quan hệ xã hội của người Mỹ

Ở những vùng xa xôi của New Guinea, nơi tôi đi thực địa và cũng là nơi chưa có công nghệ truyền thông mới, mọi thông tin liên lạc vẫn phải trực diện và tham dự đầy đủ – cũng như ở Mỹ trước đây. Người New Guinea dành phần lớn thời gian giao tiếp với nhau.

Trái với các cuộc trò chuyện thưa thớt và không tập trung của người Mỹ, các cuộc đối thoại truyền thống ở New Guinea không bị gián đoạn khi phải nhìn vào điện thoại di động trong tay, cũng không phải nhấn phím gửi email hay tin nhắn trong khi trò chuyện với một người, nhưng chỉ tiếp nhận một phần sự tham gia của họ.

Con trai của một nhà truyền giáo người Mỹ lớn lên ở một ngôi làng New Guinea và khi chuyển đến Mỹ học trung học, đã mô tả cú sốc của mình khi phát hiện sự khác biệt giữa cách chơi đùa của trẻ em ở New Guinea và ở Mỹ.

Ở New Guinea, trẻ em ở một ngôi làng đi lang thang từ túp lều này sang túp lều khác cả ngày. Ở Mỹ, như bạn tôi phát hiện, “trẻ em về nhà, đóng cửa và xem truyền hình một mình”.

Bình quân, người dùng điện thoại di động ở Mỹ, cứ sau bốn phút lại kiểm tra điện thoại một lần, dành ít nhất sáu giờ mỗi ngày để nhìn vào màn hình của điện thoại di động hoặc máy tính và dành hơn 10 giờ mỗi ngày (hầu hết thời gian không ngủ) để kết nối một số thiết bị điện tử.

Kết quả là hầu hết người Mỹ không còn trải nghiệm với nhau như những con người sống động với gương mặt và chuyển động cơ thể mà chúng ta thường thấy, giọng nói mà chúng ta thường nghe và con người mà chúng ta thường hiểu được.

Thay vào đó, chúng ta trải nghiệm lẫn nhau chủ yếu qua tin nhắn kỹ thuật số trên màn hình hay đôi khi chỉ là giọng nói qua điện thoại di động. Chúng ta có xu hướng bị ức chế mạnh mẽ để không trở nên thô lỗ với một người sống chỉ cách chúng ta nửa mét, những người chúng ta có thể nhìn và nghe thấy.

Nhưng chúng ta mất đi những ức chế khi con người chỉ được thể hiện qua từ ngữ trên màn hình. Việc ứng xử thô lỗ và tùy tiện bằng từ ngữ trên màn hình dễ dàng hơn là đối mặt với một con người sinh động nhìn thẳng vào mặt bạn. Vì vậy, một khi chúng ta đã quen với việc lăng mạ ở khoảng cách gián tiếp, thì bước tiếp theo là lăng mạ một con người sinh động sẽ dễ dàng hơn.

Tuy nhiên, lời giải thích đó về sự đổ vỡ của thỏa hiệp chính trị và hành vi lịch thiệp ở Mỹ nói chung hiển nhiên sẽ bị phản đối. Việc giao tiếp gián tiếp không chỉ bùng nổ ở Mỹ mà còn trên toàn thế giới, đặc biệt là ở các nước giàu có.

Người Italy và người Nhật sử dụng điện thoại di động chẳng kém gì người Mỹ. Thế nhưng, tại sao sự thỏa hiệp chính trị không suy giảm và sự thô thiển mang tính xã hội vẫn không gia tăng ở các nước giàu khác?

Tôi có thể nghĩ đến hai lời giải thích khả dĩ. Một là, trong thế kỷ 20, truyền thông điện tử và nhiều phát minh công nghệ khác hình thành đầu tiên ở Mỹ, sau đó chúng và những hệ quả của chúng lan sang các nước giàu khác.

Trên thực tế, những người bạn Anh nói với tôi rằng sự xúc phạm cá nhân ở Anh bây giờ nhiều hơn so với lúc tôi ở đó 60 năm trước, trong khi những người bạn Australia nói với tôi rằng sự không thỏa hiệp đang gia tăng trong đời sống chính trị Australia.

Nếu lời giải thích này là chính xác, thì sẽ chỉ là vấn đề thời gian trước khi các nước phát triển giàu có khác cũng gặp phải tình trạng bế tắc chính trị ở mức độ mà Mỹ đã vướng vào.

Một lời giải thích khả dĩ khác là từ quá khứ, do nhiều lý do, nước Mỹ đến hôm nay vẫn có ít vốn xã hội để đề kháng với sự xuất hiện của những sức mạnh công nghệ hiện đại làm mất đi cá tính con người.

Diện tích nước Mỹ lớn hơn 25 lần so với bất kỳ quốc gia giàu có nào, ngoại trừ Canada. Ngược lại, mật độ dân số Mỹ – những người được chia theo khu vực – thấp hơn tới 10 lần so với hầu hết quốc gia giàu có khác; chỉ có Canada, Australia và Iceland là dân cư thưa thớt hơn.

Mỹ luôn đặt trọng tâm mạnh mẽ vào cá nhân, so với sự nhấn mạnh của châu Âu và Nhật Bản đối với cộng đồng; chỉ có Australia vượt qua Mỹ về xếp hạng chủ nghĩa cá nhân giữa các quốc gia giàu có.

Người Mỹ di chuyển thường xuyên, trung bình cứ sau 5 năm. Do khoảng cách không gian ở Mỹ quá rộng lớn so với ở Nhật hay bất kỳ quốc gia Tây Âu nào, khi người Mỹ di chuyển, họ có thể xa hẳn những người bạn cũ so với những người Nhật Bản và châu Âu ít di chuyển.

Do đó, người Mỹ có nhiều mối quan hệ xã hội ngắn ngủi hơn và bạn bè dễ lìa xa thay vì nhiều người bạn thân thiết sống cận kề.

Nhưng diện tích và khoảng cách trong phạm vi nước Mỹ đã cố định và không suy giảm. Người Mỹ không thể từ bỏ điện thoại di động hay ít di chuyển thường xuyên hơn.

Nguồn: https://zingnews.vn/xa-hoi-my-ra-sao-duoi-tac-dong-cua-truyen-hinh-cong-nghe-post1107460.html

Sách hay

Dám làm

Được phát hành

,

Bởi

“Dám làm: Những bài học về lãnh đạo của tôi tại GE” ghi lại những kinh nghiệm và bài học của Jeff Immelt, cựu CEO của General Electric (GE), từ thời gian lãnh đạo tập đoàn này.

Tôi là một gã chăm “cày cuốc” đích thực, một tín đồ chân chính, đã có hình xăm “thịt viên” của GE (cách người trong nhà gọi logo của công ty) bên eo trái để làm bằng chứng.

Năm 2001, tôi trở thành CEO của một công ty, nơi nhận thức không tương đương với hiện thực. Công ty tôi kế thừa từ Jack Welch có một văn hóa hùng mạnh và những con người tuyệt vời. Nhưng chúng tôi đã cạn kiệt ý tưởng. Một năm trước, khi đang điều hành GE Healthcare, tôi đã cố mua một công ty siêu âm tên Acuson, nhưng Jack gạt đi vì nó nằm ở Mountain View, California và “dân ở đấy điên lắm”.

Tôi không đồng tình; địa điểm của nó sẽ cho chúng tôi một bàn đạp (như nó đã mang lại cho đối thủ Siemens của chúng tôi, tập đoàn về sau đã mua lại nó) tại Thung lũng Silicon, thiên đường của đổi mới. Trong khi một số người trong nội bộ GE tin rằng công ty chắc chắn sẽ ăn nên làm ra mãi mãi, song tôi lại lo lắng rằng chúng tôi đã trở nên quá trì trệ và thiếu óc tò mò.

Than chu anh 1

Hình ảnh Jeff Immelt gắn liền với thương hiệu GE. Ảnh: CNBC.

Trong ít nhất một thập kỷ, chúng tôi đã sử dụng gã khổng lồ dịch vụ tài chính GE Capital để thúc đẩy tăng trưởng và hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp của mình. Nhưng khi tôi tiếp quản chức vụ, rất hiếm nhà quan sát hiểu được rằng chúng tôi đã đầu tư ít ỏi đến mức nào vào các doanh nghiệp công nghiệp đó.

Chúng tôi là một tập đoàn đa ngành cồng kềnh, ôm đồm đủ mọi thứ từ động cơ phản lực đến mạng truyền hình hay hợp đồng bảo hiểm cho chó mèo. Tuy nhiên, chúng tôi được định giá như một công ty công nghệ, về cơ bản là được giao dịch ở mức cao hơn đáng kể so với giá trị của các doanh nghiệp mà chúng tôi có.

Vì vậy, khi lên làm CEO, tôi đã nỗ lực cải tổ công ty, tái đầu tư vào danh mục đầu tư công nghiệp, cải thiện công nghệ và mở rộng dấu ấn toàn cầu của chúng tôi. Và tôi đã làm điều đó mà không hở một lời tiêu cực nào về Jack Welch.

Đó là một lựa chọn đầy rủi ro. Rất khó thúc đẩy thay đổi trong khi đội ngũ của bạn cảm thấy mọi thứ đều đã hoàn hảo. Nhưng vào thời điểm đó, cách tiếp cận này có vẻ đúng đắn. Người tiền nhiệm của tôi được xem là CEO tốt nhất trong lịch sử. Hy vọng của tôi là bảo tồn di sản của ông bằng cách khắc phục những chỗ mà tôi thấy là đã hỏng hóc trước khi chúng kịp hủy hoại chúng tôi.

Nhưng quá thường xuyên trong nhiệm kỳ của tôi, mong muốn bảo vệ GE bằng cách phát triển nó phải bị đặt xuống hàng thứ yếu khi các cuộc khủng hoảng đe dọa thành công của công ty – và nhiều khi là chính sự tồn vong của nó.

Đối với tôi, GE là một câu chuyện không thể đậm tính cá nhân hơn. Tôi là con trai của người đã làm đại diện thu mua của GE suốt 38 năm. Trước khi trở thành CEO, tôi đã bước lên từng nấc thang trong công ty, học hỏi tại ba mảng của GE. Tôi là một gã chăm “cày cuốc” đích thực – một tín đồ chân chính, đã có hình xăm “thịt viên” của GE (cách người trong nhà gọi logo của công ty) bên eo trái để làm bằng chứng. (Tôi sẽ nói thêm về vụ đó sau).

Tôi là gã cuối tuần nào cũng làm việc, là gã không bao giờ tiêu một xu để trang trí văn phòng của riêng hắn, là gã mang tem mình tự mua đến công ty để dán lên thư cá nhân. Nếu tôi có một câu thần chú, thì đó sẽ là: Tôi không phải trung tâm, GE mới là trung tâm.

Nguồn: https://znews.vn/than-chu-cua-ceo-tap-doan-da-quoc-gia-post1533409.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Bộ não đau buồn

Được phát hành

,

Bởi

Sách mang đến một góc nhìn mới nhưng không kém phần hấp dẫn về ảnh hưởng của nỗi đau đối với bộ não và phương pháp bộ não mã hóa tình yêu của con người đối với người thân, giúp chúng ta hiểu rõ nguồn gốc của nỗi đau khi không còn người thân bên cạnh và giải pháp vượt qua các cảm xúc khủng hoảng đó.

Bạn đang sử dụng bản đồ não để đi tới đi lui trong không gian quen thuộc này, thân thể bạn sẽ đến nơi mà não bạn đã gửi nó đi.

Khi giải thích mặt sinh học thần kinh của nỗi đau buồn, tôi thường bắt đầu bằng một phép ẩn dụ dựa trên một trải nghiệm quen thuộc. Tuy nhiên, để phép ẩn dụ này dễ hiểu, bạn phải chấp nhận một giả thiết. Giả thiết ấy là có kẻ nào đó đã trộm mất chiếc bàn ăn nhà bạn.

Tưởng tượng là bạn trở mình dậy khát khô lúc nửa đêm. Bạn bước khỏi giường và đi tới phía bếp lấy một ly nước. Xuống hành lang, bạn băng qua phòng ăn tối đen về phía nhà bếp. Đúng lúc hông bạn đáng ra sắp va vào góc cứng bàn ăn, bạn cảm thấy… hừm, bạn cảm thấy gì? Không gì hết. Bạn đột nhiên nhận ra là bạn không cảm thấy có bất cứ điều gì ở chỗ cao ngang hông bạn.

Đó là điều bạn nhận ra được, bạn không cảm thấy có điều gì đó, điều gì đó cụ thể. Chuyện vắng mặt thứ gì đó là điều đã thu hút bạn chú ý. Điều này thật lạ kỳ, ta thường nghĩ phải là điều gì đó mới thu hút ta chú ý, làm sao không gì cả có thể thu hút ta chú ý?

Ban do anh 1

Não bộ có một cơ chế vận hành đặc biệt. Ảnh: Science Magazinee.

Vâng, thực tế là bạn không chỉ bước đi trong mỗi thế giới này. Hay chính xác hơn, hầu hết thời gian là bạn đang cùng bước đi trong hai thế giới. Trong đó một thế giới là bản đồ thực tế ảo được tạo nên hoàn toàn trong đầu bạn. Não bạn đang dịch chuyển con người bạn xuyên qua bản đồ ảo mà nó đã tạo ra, đó là lý do tại sao bạn có thể đi lại quanh nhà khá dễ dàng trong bóng đêm; bạn hiện không sử dụng thế giới bên ngoài để định hướng. Bạn đang sử dụng bản đồ não để đi tới đi lui trong không gian quen thuộc này, thân thể bạn sẽ đến nơi mà não bạn đã gửi nó đi.

Bạn có thể coi bản đồ não ảo về thế giới này như bản đồ Google trong đầu bạn. Bạn đã từng bao giờ trải nghiệm làm theo chỉ dẫn di chuyển bằng giọng nói mà hoàn toàn không chú ý nơi mình đang lái xe tới chưa? Có lúc giọng nói yêu cầu bạn rẽ vào một con đường, song bạn phát hiện ra đó thực ra là đường cho xe đạp.

GPS và thế giới thực không phải lúc nào cũng khớp nhau. Giống bản đồ của Google, bản đồ não dựa trên thông tin trước đó nó có về khu vực. Tuy nhiên, để giữ an toàn cho bạn, não có những khu vực chuyên dành phát hiện lỗi, nhận biết bất kỳ tình huống nào bản đồ não và thế giới thực không khớp nhau. Nó chuyển sang thông tin thị giác nhận vào mỗi khi một lỗi được phát hiện (và nếu trời tối, thì ta sẽ quyết định bật đèn).

Ta dựa vào bản đồ não vì việc dẫn dắt cơ thể theo bản đồ tâm trí sẽ bớt tốn công tính toán lại rất nhiều so với xuyên qua ngôi nhà quen thuộc như thể đó là trải nghiệm đầu tiên, như thể mỗi lần lại phải khám phá lại vị trí của ô cửa, bức tường và đồ nội thất, rồi quyết định làm sao định vị và đi qua từng thứ.

Không ai mong đợi bàn ăn nhà họ bị trộm mất. Và càng không ai mong đợi người thân yêu mất. Ngay cả khi một người bị bệnh trong một thời gian rất dài, cũng không ai biết được để bước tiếp trên thế giới này mà không có họ thì sẽ ra sao.

Là một nhà khoa học, đóng góp của tôi là nghiên cứu nỗi đau buồn từ góc độ của não, từ góc độ mà não đang cố giải quyết một vấn đề khi đối diện việc người quan trọng nhất cuộc đời ta không còn.

Nỗi đau buồn là một vấn đề đau lòng thắt ruột mà não phải giải quyết và việc đau buồn đòi hỏi bạn phải học cách sống trong một thế giới vắng mặt người bạn yêu thương đậm sâu, người đã khắc ghi vào hiểu biết trong bạn về thế giới. Điều này có nghĩa là đối với não, người thân yêu của bạn mất đi nhưng đồng thời cũng còn mãi, và bạn đang bước xuyên qua hai thế giới cùng một lúc. Bạn đang phải lèo lái cuộc sống của mình dù thực tế là nó đã bị cướp mất khỏi bạn, một giả thiết vô nghĩa, vừa khó hiểu vừa khó chịu.

Nguồn: https://znews.vn/vi-sao-ban-di-chuyen-duoc-trong-bong-dem-post1533397.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Rủi ro từ những đồng tiền ảo như Pi, Bitcoin

Được phát hành

,

Bởi

Những loại tiền ảo như Pi, Ethereum, Bitcoin có thể tồn tại nhiều rủi ro từ pháp lý, bảo mật cho đến biến động thị trường.

pi network anh 1

Ảnh minh họa Pi Network. Nguồn: The Crypto Times.

Tiền ảo, đặc biệt là Bitcoin và Pi, đã trở thành một hiện tượng tài chính toàn cầu, thu hút sự chú ý của giới đầu tư cũng như các cơ quan quản lý. Tuy nhiên, đi kèm với sự phát triển nhanh chóng, tiền ảo cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro đáng lo ngại, từ pháp lý, bảo mật, gian lận đến biến động thị trường.

Những vấn đề của tiền ảo

Một trong những vấn đề người chơi tiền ảo phải đối mặt là rủi ro pháp lý. Theo cuốn sách Cryptocurrencies and Cryptoassets của nhà xuất bản Taylor & Francis, Bitcoin từng bị sử dụng trong các giao dịch chợ đen, rửa tiền và trốn thuế. Điều này khiến nhiều chính phủ trên thế giới phải đưa ra các biện pháp kiểm soát nghiêm ngặt.

Trung Quốc đã cấm hoàn toàn hoạt động giao dịch tiền ảo, trong khi Nhật Bản yêu cầu các sàn giao dịch phải tuân thủ quy định về chống rửa tiền (AML) và xác minh danh tính khách hàng (KYC). Việc thiếu đi một hệ thống pháp lý thống nhất giữa các quốc gia có thể đặt ra câu hỏi về tính thanh khoản và khả năng tồn tại lâu dài của tiền ảo.

Bên cạnh đó, rủi ro bảo mật là mối lo ngại thường trực. Mặc dù nền tảng Bitcoin chưa từng bị tấn công nghiêm trọng, nhưng các sàn giao dịch tiền ảo lại là mục tiêu thường xuyên của tin tặc.

pi network anh 2

Mark Karpeles, CEO Mt. Gox là người giúp sàn giao dịch này vươn lên vị trí số một vào năm 2013. Ảnh: Bloomberg.

“Sự sụp đổ của sàn Mt.Gox tại Nhật Bản do bị đánh cắp hàng triệu đôla Bitcoin là một minh chứng điển hình. Năm 2018, vụ tấn công vào sàn Coincheck khiến hơn 530 triệu USD tiền ảo bị thất thoát. Trong chín tháng đầu năm đó, tổng giá trị tiền ảo bị đánh cắp lên đến 927 triệu USD“, trích từ cuốn sách Cryptocurrencies and Cryptoassets.

Ngoài vấn đề bảo mật, gian lận cũng là một nguy cơ lớn đối với thị trường tiền ảo. Theo số liệu từ Anh, chỉ riêng trong tháng 6 và 7 năm 2018, có tới 203 vụ lừa đảo liên quan đến tiền điện tử với tổng thiệt hại hơn 2 triệu euro, trung bình mỗi nạn nhân mất hơn 10.000 euro.

Một rủi ro khác là tính biến động cao của tiền ảo. Bitcoin từng có thời điểm mất đến 61% giá trị chỉ trong một ngày vào năm 2013 và giảm tới 80% trong năm 2014. Năm 2018, thị trường tiền ảo tiếp tục chứng kiến sự lao dốc mạnh mẽ trước khi phục hồi dần vào giữa năm 2019. Giá trị của Bitcoin và các đồng tiền khác phụ thuộc phần lớn vào tâm lý thị trường và sự chấp nhận của người dùng, khiến chúng trở thành công cụ đầu tư có độ rủi ro cao.

Khi một sàn giao dịch phá sản, nhà đầu tư có thể mất trắng

Theo cuốn sách Cryptocurrency Risk and Governance Challenges (2023), nhiều nhà kinh tế học lo ngại rằng tiền điện tử không có đầy đủ đặc điểm của một loại tiền tệ thực sự mà chỉ là tài sản đầu cơ với mức độ rủi ro cao hơn nhiều so với các loại tài sản khác.

pi network anh 3

Cuốn sách Cryptocurrency Risk and Governance Challenges của nhà xuất bản Taylor & Francis. Ảnh: Amazon.

Ngân hàng Trung ương Malaysia (Bank Negara Malaysia) từng chỉ ra rằng trái ngược với vàng hay ngoại tệ, những tài sản có tính thanh khoản cao trong thời kỳ bất ổn, tiền điện tử chủ yếu được nắm giữ để đầu cơ, khiến giá trị của chúng dễ bị tổn thương trước sự thay đổi của thị trường. Nếu các bên tham gia không sẵn sàng chấp nhận giao dịch bằng tiền ảo, giá trị của chúng có thể trở nên vô nghĩa.

Những biến động giá mạnh, rủi ro bảo mật cũng là một vấn đề lớn đối với các nhà đầu tư tiền ảo. Theo cuốn The Book of Crypto của tác giả Henri Arslanian, các nền tảng giao dịch tiền ảo không có sự bảo vệ của các tổ chức bảo hiểm như FDIC (Mỹ) hay các hệ thống bảo đảm tiền gửi truyền thống. Khi một sàn giao dịch phá sản, nhà đầu tư có thể mất toàn bộ số tiền của mình.

Ngoài ra, nhiều dự án tiền ảo kêu gọi vốn bằng hình thức ICO (Initial Coin Offering) nhưng thực chất chỉ là mô hình lừa đảo Ponzi. Các nền tảng cho vay tiền ảo cũng đối mặt với nguy cơ sụp đổ do quản lý rủi ro kém, như trường hợp của nền tảng Cred – công ty tuyên bố phá sản vào năm 2020 khiến nhiều nhà đầu tư mất trắng.

Không thể phủ nhận rằng thị trường tiền điện tử vẫn còn nhiều rủi ro tiềm ẩn. Dữ liệu từ báo cáo của Fidelity năm 2021 cho thấy hơn 90% tổ chức tài chính đang quan tâm đến loại tiền này nhưng mức độ tham gia vẫn còn hạn chế do tính bất ổn và thiếu khung pháp lý rõ ràng.

Nguồn: https://znews.vn/rui-ro-tu-nhung-dong-tien-ao-nhu-pi-bitcoin-post1533272.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng