Connect with us

Sách hay

Bao lâu nữa sẽ có robot xây dựng thành phố Sao Hỏa?

Được phát hành

,

Robot sẽ làm việc hiệu quả hơn rất nhiều so với các phi hành gia phải mang bộ đồ vũ trụ kềnh càng cùng các bình oxy nặng nề, cơ bắp yếu ớt và cử động chậm chạp.

Được sự đồng ý của alphabooks, Zing trích đăng cuốn sách “Tương lai nhân loại” của tác giả Michio Kaku.

Đó là năm 2084. Người công nhân xây dựng bình thường Arnold Schwarzenegger cứ bị ám ảnh với những giấc mơ lặp đi lặp lại về Sao Hỏa. Ông quyết định mình phải đến tận Hành tinh đỏ để tìm hiểu nguồn gốc của những giấc mộng này.

Trên Sao Hỏa, ông thấy những đại đô thị hối hả, những tòa nhà vòm kính lấp lánh và những công trường khai thác mỏ rộng lớn. Một hạ tầng phức tạp gồm các đường ống, dây cáp và máy phát cung cấp năng lượng và oxy đến cho hàng nghìn dân định cư.

Bộ phim Total Recall (Truy tìm ký ức) cho chúng ta thấy viễn cảnh hấp dẫn của một thành phố tương lai trên Sao Hỏa: hào nhoáng, sạch sẽ, thời thượng. Tuy vậy, có một vấn đề nhỏ. Những thành phố tưởng tượng trên Sao Hỏa này được Hollywood dàn dựng tuyệt đẹp, nhưng trong thực tế, nếu xây dựng chúng với công nghệ hiện tại thì chi phí sẽ vượt qua ngân sách cho bất cứ nhiệm vụ NASA nào.

Tuong lai nhan loai anh 1
Hình ảnh trong phim Total Recall (1990).

Công nghệ nano

Nên nhớ rằng ban đầu, từng chiếc búa, từng tờ giấy và từng chiếc kẹp giấy đều phải được vận chuyển lên Sao Hỏa, cách Trái Đất hàng chục triệu kilomet. Và nếu vượt ra khỏi Hệ Mặt Trời để đến những ngôi sao láng giềng, nơi mà việc liên lạc ngay tức khắc với Trái Đất là bất khả thi, thì vấn đề còn nhân lên gấp bội.

Thay vì dựa vào hàng tiếp tế từ Trái Đất, ta phải nghĩ ra cách khác để phát triển sự hiện diện trong vũ trụ nhưng không làm sụp đổ ngân khố quốc gia. Câu trả lời có thể nằm ở việc vận dụng làn sóng công nghệ thứ tư. Công nghệ nano và trí tuệ nhân tạo (AI) có thể sẽ thay đổi mạnh mẽ luật chơi.

Cuối thế kỷ 21, những tiến bộ trong công nghệ nano sẽ cho phép ta sản xuất số lượng lớn graphene và ống nano cacbon những vật liệu siêu nhẹ sẽ tạo ra cách mạng trong ngành xây dựng.

Graphene là một mạng phân tử gồm nhiều nguyên tử cacbon gắn kết chặt chẽ với nhau, tạo thành một tấm phẳng cực mỏng, cực bền. Graphene gần như trong suốt và có trọng lượng gần như bằng không, nhưng khoa học chưa biết đến vật liệu nào bền hơn nó – nó cứng hơn thép 200 lần và thậm chí cứng hơn cả kim cương.

Trên lý thuyết, bạn có thể đặt con voi đứng trên một chiếc bút chì, rồi đặt đầu bút chì lên tấm graphene mà không hề làm tổn hại đến tấm graphene đó. Ngoài ra, graphene còn dẫn điện. Các nhà khoa học hiện đã chế tạo được linh kiện bán dẫn kích cỡ phân tử trên tấm graphene. Máy tính trong tương lai có lẽ sẽ được làm từ loại vật liệu này.

Ống nano cacbon là những tấm graphene cuộn lại thành ống dài. Chúng gần như không thể bị phá hỏng và trong suốt đến vô hình. Nếu dây văng của cầu Brooklyn làm bằng ống nano cacbon, cây cầu trông sẽ như đang bồng bềnh giữa không trung.

Nếu quả thực graphene và ống nano cacbon thần kỳ như vậy thì tại sao ta chưa dùng chúng để xây nhà cửa, cầu đường và đường cao tốc? Là vì hiện tại việc tạo ra lượng lớn graphene tinh khiết vẫn còn vô cùng khó khăn. Chỉ một chút xíu tạp chất hoặc khiếm khuyết ở cấp độ phân tử cũng phá hỏng những tính chất vật lý thần kỳ của graphene. Rất khó để tạo ra tấm graphene có kích thước lớn hơn con tem thư.

Nhưng các nhà hóa học hy vọng trong thế kỷ tới, graphene sẽ có thể được sản xuất hàng loạt, nhờ vậy, chi phí xây dựng hạ tầng ngoài không gian sẽ giảm dáng kể. Do graphene cực nhẹ, ta có thể vận chuyển chúng đến các địa điểm vũ trụ xa xôi một cách hiệu quả, thậm chí có thể chế tạo tại chỗ ở hành tinh khác.

Các thành phố được xây dựng hoàn toàn bằng loại chất liệu từ cacbon này sẽ mọc lên trên sa mạc Sao Hỏa. Các tòa nhà đều trong suốt một phần. Trang phục vũ trụ sẽ trở nên siêu mỏng và bó sát. Ôtô sẽ cực kỳ tiết kiệm năng lượng do có trọng lượng cực thấp. Toàn bộ ngành kiến trúc sẽ thay đổi với sự xuất hiện của công nghệ nano.

Nhưng dù có những tiến bộ như thế thì ai sẽ lo thực hiện những công việc nặng nhọc và bụi bặm để xây dựng khu định cư trên Sao Hỏa, khai thác vành đai tiểu hành tinh, hay lập căn cứ trên Titan và các ngoại hành tinh? Trí tuệ nhân tạo có thể mang đến giải pháp.

Tuong lai nhan loai anh 2
Tỷ phú Elon Musk với tham vọng phóng 1.000 tàu vũ trụ đưa người lên Sao Hỏa.

AI – ngành khoa học sơ khai

Năm 2016, ngành trí tuệ nhân tạo chấn động trước tin AlphaGo – chương trình máy tính của hãng DeepMind – đã đánh bại Lee Sedol nhà vô địch cờ vây thế giới. Trước đó, nhiều người cho rằng AI phải cần tới vài thập niên nữa mới lập nổi thành tích này. Báo chí bắt đầu than vãn rằng sự kiện trên là cáo phó cho nhân loại. Máy móc cuối cùng đã vượt dòng Rubicon và sẽ sớm chiếm quyền thống trị. Tình hình sẽ không thể đảo ngược được.

AlphaGo là phần mềm trò chơi cao cấp nhất hiện nay. Khi chơi cờ vua, chúng ta có trung bình 20 đến 30 lựa chọn cho mỗi nước đi, nhưng với cờ vây, số lựa chọn khả thi lên tới 250. Thực tế, tổng số nước đi tiềm năng trên bàn cờ vây còn nhiều hơn số lượng nguyên tử trong vũ trụ. Mọi người vẫn nghĩ máy tính khó mà đếm được tất cả các nước đi khả thi, nên sự kiện AlphaGo hạ gục Sedol đã lập tức gây cơn sốt trên truyền thông.

Tuy nhiên, dễ nhận thấy là dù tinh vi cỡ nào, AlphaGo cũng chỉ diễn được một trò mà thôi. Đánh thắng trong môn cờ vây là tất cả những gì nó có thể làm. Như Oren Etzioni, Giám đốc điều hành Viện Trí tuệ Nhân tạo Allen nói: “AlphaGo thậm chí không thể chơi cờ vua. Nó không thể bàn luận về trò chơi. Đứa con 6 tuổi của tôi còn thông minh hơn AlphaGo”.

Dù phần cứng của máy có mạnh mẽ đến đâu thì ta cũng không thể tiến đến, vỗ lưng, chúc mừng nó đã đánh thắng con người và mong được nó đáp lại rành mạch. Cỗ máy này hoàn toàn không biết nó đã làm nên lịch sử trong ngành khoa học. Thật ra, nó còn không biết nó chính là máy móc.

Ta vẫn thường quên rằng robot hiện đại chỉ là những máy móc được gán danh xưng khoa trương, không có khả năng tự nhận thức, óc sáng tạo, hiểu biết cơ bản hay cảm xúc. Chúng có thể thực hiện rất tốt một nhiệm vụ cụ thể, hạn hẹp và lặp đi lặp lại nhưng không thể làm được những nhiệm vụ phức tạp hơn, đòi hỏi kiến thức tổng quát hơn.

Bất chấp việc lĩnh vực AI đã thực sự có những tiến bộ vượt bậc mang tính cách mạng, ta vẫn cần nhìn nhận đúng đắn vấn đề. Nếu so sánh sự phát triển của robot với ngành khoa học tên lửa, ta thấy ngành robot học hiện đã vượt qua giai đoạn của Tsiolkovsky – giai đoạn suy đoán và xây dựng lý thuyết. Ta đã bước sâu vào giai đoạn của Goddard: thiết lập mô hình thật, tuy còn thô sơ nhưng có thể chứng minh lý thuyết nền tảng của ta là chính xác. Tuy nhiên, ta chưa đi đến giai đoạn sau – giai đoạn von Braun, với các robot sáng tạo và mạnh mẽ được xuất xưởng hàng loạt để xây dựng thành phố ở các hành tinh xa xôi.

Đến nay, robot đặc biệt thành công với vai trò là máy móc điều khiển từ xa. Đứng sau tàu Voyager bay qua Sao Mộc và Sao Thổ, tàu Viking đổ bộ lên bề mặt Sao Hỏa hay tàu Galileo và Cassini bay quanh các hành tinh khí khổng lồ là cả một đội ngũ con người điều khiển. Giống với máy bay không người lái, các tàu robot này chỉ đơn giản chấp hành mệnh lệnh của người điều khiển tại Trung tâm điều khiển Pasadena.

Tất cả các “robot” ta xem trên phim ảnh đều là con rối, sản phẩm đồ họa máy tính, hoặc máy móc được điều khiển từ xa. (Con robot yêu thích của tôi trong phim khoa học viễn tưởng là Robby trong Forbidden Planet (Hành tinh cấm). Tuy trông rất hiện đại nhưng thật ra có người ngồi bên trong nó).

Nhưng trong các thập niên vừa qua, cứ 18 tháng là sức mạnh máy tính lại tăng gấp đôi, vậy ta có thể kỳ vọng những gì ở tương lai?

Bước tiếp theo: Người máy thực thụ

Vượt trên robot điều khiển từ xa, mục tiêu tiếp theo của chúng ta là thiết kế người máy thực thụ, tức robot có khả năng tự quyết định và chỉ cần con người can thiệp ở mức độ tối thiểu. Người máy thực thụ sẽ thực hiện công việc ngay khi nghe thấy mệnh lệnh, chẳng hạn: “Nhặt rác lên”. Robot hiện tại chưa có khả năng này. Chúng ta sẽ cần người máy có thể tự khai thác và cải tạo các hành tinh xa xôi, bởi sẽ mất hàng tiếng đồng hồ để liên lạc được với chúng qua tín hiệu radio.

Những người máy thực thụ này sẽ có vai trò thiết yếu để xây dựng căn cứ trên những hành tinh và vệ tinh ở xa. Nên nhớ rằng trong nhiều thập niên tới, số cư dân trong các khu định cư vũ trụ mới chỉ là vài trăm người. Nhân lực khan hiếm và đắt đỏ sẽ là áp lực lớn trong việc xây dựng các thành phố trên những hành tinh xa. Và đây là điểm mà robot sẽ tạo ra sự khác biệt. Ban đầu, nhiệm vụ của chúng là thực hiện những công việc “3D” = dangerous (nguy hiểm), dull (buồn chán) và dirty (bẩn).

Khi xem phim Hollywood, đôi khi ta quên mất vũ trụ nguy hiểm biết chừng nào. Ngay cả khi làm việc ở môi trường trọng lực thấp, robot vẫn đóng vai trò cốt yếu để làm các công việc xây dựng nặng nhọc, mang vác những thanh xà, rầm lớn, phiến bê tông, máy móc cồng kềnh, v.v. mà không gặp mấy khó khăn.

Đây là những việc cần thiết khi xây dựng căn cứ ở thế giới khác. Robot sẽ làm việc hiệu quả hơn rất nhiều so với các phi hành gia phải mang bộ đồ vũ trụ kềnh càng cùng các bình oxy nặng nề, cơ bắp yếu ớt và cử động thì chậm chạp. Trong khi con người nhanh kiệt sức thì robot có thể làm việc liên tục cả ngày lẫn đêm.

Ngoài ra, khi gặp sự cố, robot có thể dễ dàng được sửa chữa và thay thế trong nhiều hoàn cảnh nguy hiểm. Chúng có thể tháo ngòi nổ để mở đất dựng công trường hoặc đường cao tốc, bước vào lửa để giải cứu phi hành gia nếu có hỏa hoạn hoặc làm việc trong môi trường lạnh lẽo ở các vệ tinh tự nhiên xa xôi. Chúng cũng không cần oxy nên sẽ không có nguy cơ bị nghẹt thở, vốn là mối đe dọa thường trực đối với các phi hành gia.

Robot cũng có thể thăm dò những vùng đất nguy hiểm trên các hành tinh xa xôi. Ví dụ, chúng ta chưa rõ về độ bền vững và cấu trúc của các chỏm băng ở Sao Hỏa hay các hồ băng trên Titan, trong khi chúng có thể là nguồn oxy và hydro thiết yếu. Robot có thể thăm dò các ống dung nham ở Sao Hỏa, nơi có thể dùng để tránh các cấp bức xạ nguy hiểm; hoặc chúng có thể khám phá các vệ tinh của Sao Mộc.

Trong khi lóa mặt trời và các tia vũ trụ làm tăng nguy cơ ung thư cho các phi hành gia thì robot có thể làm việc cả ở môi trường bức xạ chết người. Có thể thay thế các bộ phận hao mòn của robot do bức xạ cường độ cao gây ra bằng cách xây dựng và che chắn kỹ càng nhà kho chứa phụ tùng robot.

Ngoài những công việc nguy hiểm, robot còn làm được những việc tẻ nhạt, đặc biệt là những việc lặp đi lặp lại trong chế tạo sản xuất. Bất cứ căn cứ hay vệ tinh hành tinh nào cũng cần số lượng lớn các sản phẩm công nghiệp do robot thực hiện. Điều này đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra khu định cư tự duy trì, có thể khai thác khoáng sản tại chỗ và sản xuất ra mọi sản phẩm cần thiết cho căn cứ vệ tinh hoặc hành tinh.

Sau cùng, người máy có thể làm những công việc vấy bẩn. Chúng có thể bảo trì, sửa chữa cống và hệ thống vệ sinh tại các khu định cư ngoài vũ trụ. Chúng cũng có thể làm việc với những chất hóa học hay khí độc hại trong các máy móc thực hiện tái chế và tái xử lý.

Rồi ta sẽ thấy, những người máy có thể tự hoạt động mà không cần con người can thiệp trực tiếp sẽ đóng vai trò thiết yếu đối với các thành phố hiện đại, đường sá, nhà chọc trời và nhà ở mọc lên trên Mặt Trăng cằn cỗi hay sa mạc Sao Hỏa.

Tuy nhiên, câu hỏi tiếp theo là: Đến chừng nào ta sẽ chế tạo được người máy thực thụ? Nếu quên đi những con robot tưởng tượng trên phim ảnh và tiểu thuyết khoa học viễn tưởng thì trình độ công nghệ hiện tại của chúng ta đang ở đâu? Còn bao lâu nữa ta sẽ có những robot có thể xây dựng thành phố trên Sao Hỏa?

Nguồn: https://zingnews.vn/bao-lau-nua-se-co-robot-xay-dung-thanh-pho-sao-hoa-post1095604.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng