Connect with us

Sách hay

Các vua Nguyễn giải quyết ngập lụt ở đồng bằng Bắc Bộ ra sao?

Được phát hành

,

Là vùng đất thấp được bồi đắp bởi phù sa sông Hồng, đồng bằng Bắc Bộ xưa hay xảy ra lụt lội. Để trị thủy khu vực này, các vua Nguyễn đều quan tâm đến việc đắp, tu bổ đê điều.

Phong chong ngap lut anh 1

Trận lụt lịch sử năm 1926. Ảnh đoạn đê bảo vệ phía thượng lưu Hà Nội từ phía Chèm về (chụp từ trên cao), rút trong tập Đê Bắc kỳ do Nha Nông nghiệp Đông dương ấn hành năm 1931. Bản số hóa tại thư viện QG Pháp.

Dưới triều Nguyễn, Bắc Thành (1) nhiều lần bị lũ lụt nhấn chìm trong biển nước. Trước tình hình đó, các vua nhà Nguyễn rất đau xót, tìm nguyên nhân, đưa ra các biện pháp để trị thủy như: đắp đê, đặt ra cơ quan, chức quan chuyên quản việc đê điều, ban bố các điều lệ về đê chính…

Phát triển hệ thống đê điều, ứng phó kịp thời với mưa lũ

Theo chính sử Đại Nam thực lục, Vua Gia Long khi vừa mới lên ngôi đã lo đến việc tu bổ các đê cũ và đắp thêm các đê mới. Năm Gia Long thứ 2 (1803), vua cho đắp đê Nhị Hà và 7 đoạn khác ở Bắc Bộ. Năm Gia Long thứ 8 (1809), vua cho đắp đê ở Sơn Nam (vùng Kim Động và Gia Lâm) hết khoảng 87.000 quan tiền.

Cũng trong năm này, vua lại cho đặt ra chức Bắc Thành đê chánh và các chức Tổng lý, Tham lý đê chánh để lo vấn đề đê điều, gồm tu bổ đê cũ, đắp thêm đê mới ở các trấn xứ Bắc Kỳ.

Advertisement

Vua cũng định lệ tháng 10 hàng năm các quan phủ huyện trấn phải lần lượt đến khám đê và quan đê chánh khám lại để chuẩn bị cho mùa lũ. Những đê nào cần phải sửa thì phải xét xem mức độ lớn hay nhỏ rồi mới trình lên, tổ chức tu sửa và có kiểm tra nghiệm thu.

Đến thời vua Minh Mạng, công việc đê điều trị thủy tiếp tục được đẩy mạnh. Năm Minh Mạng thứ 8 (1828), theo đề nghị của các quan, vua cho tăng cường thêm nhân sự cho Nha môn Đê chánh. Tuy nhiên, năm Minh Mạng thứ 13 (1833) vua lại cho bãi bỏ Nha này và chuyển việc đê điều sang cho các Đốc biện ở các tỉnh.

Theo sách Đại Nam Hội điển sự lệ, nhờ vua Minh Mạng quan tâm việc đê điều, nên hệ thống đê tại miền Bắc ngày càng phát triển. Năm 1833, chiều dài hệ thống đê đo được 333.616 trượng (khoảng 1.300 km, so với năm 1809 là 906 km).

Bên cạnh việc phát triển hệ thống đê điều, vua Minh Mạng còn quan tâm tới việc ứng phó kịp thời với mưa lũ. Ông yêu cầu các quan lại địa phương phải nhanh chóng huy động sức người kịp thời khi xảy ra mưa lớn, vỡ đê, ngập lụt.

Theo Châu bản triều Nguyễn tập 33, tờ 18-19 (công bố trong sách Châu bản triều Nguyễn về Hà Nội do tiến sĩ Đào Thị Diến chủ biên), tháng 9 năm Minh Mạng 10, ngay khi nghe tin báo nước lũ dâng cao ở Bắc Thành, Phó tổng trấn Bắc Thành là Phan Văn Thúy đã phái ngay Thống quản Thập cơ Tiền quân Đặng Hữu Chất đem 500 quân ở các quân đến đê Kim Quan (Thạch Thất).

Advertisement

Đồng thời sức gấp cho các trấn thần Sơn Nam, Sơn Tây, Bắc Ninh sức cho các viên ở các phủ huyện sở tại đem quân dân cấp tốc đến các chỗ đê xung yếu dốc sức phòng hộ. Lại lần lượt phái Thống quản Tả quân Trần Văn Lộc, đem 500 quân đến các đoạn đê cũ và mới tại các xã thuộc huyện Từ Liêm trấn Sơn Tây. Lại phái Vệ uý Đinh Mậu Phong đem gấp 300 quân đến các đê điều ở các xã thuộc huyện Thanh Oai. Hết thảy gắng sức kè giữ các đoạn đê xung yếu để khỏi lo ngại.

Phong chong ngap lut anh 2

Trận lụt lịch sử năm 1926. Ảnh biển nước đe dọa Hà nội mùa lũ năm 1926.

Thưởng phạt phân minh

Cùng những chính sách quản lý đê, ứng phó với mưa lũ, vua Minh Mạng còn có những chính sách xử phạt phân minh liên quan đến việc tu sửa đắp đê phòng lũ.

Theo sách Đại Nam hội điển sự lệ, năm Minh Mạng thứ 9 (1829), do không hoàn thành đúng hạn việc đắp đê ở xã Đa Hòa (Khoái Châu, Hưng Yên), lại thêm việc sửa chữa đê Kim Quan sai quy thức, hụt 6-7 thước, vua đã giáng chuyên biện Lê Đại Cương 3 cấp, tham biện Nguyễn Văn Khoa, bang biện Hoàng Quỳnh và Lê Thuận Tỉnh đều giáng 2 cấp cho lưu dung; các viên trấn, phủ, huyện, thừa biện giáng 1 cấp cho lưu dung.

Cũng theo Đại Nam hội điển sự lệ, năm Minh Mạng thứ 10 (1830), thấy biền binh làm việc đê Kim Quan ngày đêm sửa đắp khó nhọc, vua ra lệnh thưởng cho suất đội làm việc 1 tháng tiền lương, còn biền bình mỗi tên được thưởng 1 quan tiền.

Không chỉ quan tâm đến việc bảo vệ và phòng vệ đê, vua Minh Mạng còn rất quan tâm đến cuộc sống của nhân dân vùng đê bị lũ. Trong một số Châu bản công bố trong sách Châu bản triều Nguyễn về Hà Nội, vua đã yêu cầu quan lại địa phương kiểm tra, quan tâm đến đời sống của nhân dân bị trong vùng bị ảnh hưởng bởi lũ lụt và đê điều bị vỡ, chẩn cấp giải quyết những nhu yếu phẩm cần thiết cho nhân dân, mọi việc liên quan đều phải báo cáo vua rõ ràng, cặn kẽ.

Advertisement

Chẳng hạn như Châu bản triều Minh Mạng, tập 43, tờ 120-121 cho biết năm Minh Mạng thứ 10 (1830), đê huyện Thượng Phúc (Thanh Trì) bị vỡ, vua yêu cầu quan lại địa phương “đến đoạn đê ấy xem xét thế nước, tính toán phái binh dân gắng sức bồi đắp và đem tình hình nhân dân, súc vật, mùa màng thiệt hại ra sao tâu báo để Trẫm biết”.

Hay Châu bản triều Minh Mạng, tập 57, tờ 215 cho biết năm Minh Mạng 18 (1837) khi đê Sơn Tây bị vỡ, vua yêu cầu cắt cử Thị vệ kiểm tra, trong đó nêu rõ: “Trừ việc phát hồng bản sẽ dùng ngựa phi báo riêng, nay phụng chọn cử một viên Thị vệ theo trạm dịch đến tỉnh ấy khám nghiệm đích xác nơi đê vỡ. Trước mắt giải quyết công việc ra sao? Ruộng vườn, nhà cửa của dân có tránh khỏi ngập lụt hay không và việc chẩn cấp như thế nào, cốt sao nắm bắt cặn kẽ để phúc trình”.

Phong chong ngap lut anh 3

Trận lụt lịch sử năm 1926. Ảnh đoạn đê phía hạ lưu Hà Nội.

Trưng cầu ý kiến về việc phòng đê ở Bắc Kỳ

Dưới thời vua Tự Đức, việc đắp đê và khám xét đê được triều đình quy định một cách tỉ mỉ; Việc thưởng phạt về phòng hộ đê và phân định trách nhiệm của các phủ huyện, tổng, lý sở tại các nơi đê vỡ cũng được xác định lại.

Vấn đề ngập lụt được giải quyết bằng cách thực hiện quân bình của thủy chế, lịch triều, ngoài việc đắp đê, cũng chủ trương đào sông để nối liền các hệ thống sông lớn với nhau. Công việc này được giao phó cho các quan địa phương, với nhân công được cung cấp bởi dân chúng các miền.

Mặc dù, triều Nguyễn rất quan tâm tới việc đắp và bảo vệ đê điều nhưng việc này vẫn không được giải quyết triệt để như mong đợi.

Advertisement

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Anh (sách Kinh tế và Xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn), các đê không được đắp vững vàng, thành cứ vỡ luôn; nhất là con sông Nhị (sông Hồng), vì đất bồi nên lòng sông giữa hai con đê cao hơn mực đất, mỗi khi nước lớn, đê không tài nào chống lại sức nước được. Trước tình hình này, triều đình đã phân vân trong 3 cách: Giữ đê, phá đê và đào thêm sông.

Ngay từ thời Minh Mạng, nhà vua đã nhiều lần lấy ý kiến quần thần về việc này, khi thì hỏi quan địa phương, lúc lại hỏi đình thần nhưng người thì bàn phá đê, người lại chủ trương đào sông mới, ý kiến bất đồng quá nhiều tới nỗi thời 2 vua Thiệu Trị và Tự Đức phải treo bảng khắp nơi để trưng cầu dân ý.

Năm 1852, vua Tự Đức lại tiếp tục mở cuộc trưng cầu ý kiến về việc phòng đê ở Bắc Kỳ, các ý kiến lại một lần nữa chia thành 2 phái: Giữ đê và bỏ đê. Nhóm chủ trương cứ đắp đê các sông lớn, bỏ đê sông con và sông nhỏ có Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Soạn, Nguyễn Văn Tĩnh, Nguyễn Cẩm, Bạch Tự Cường… Nhóm chủ trương giữ đê có Đặng Văn Hòa, Trương Văn Uyển, Ngụy Khắc Tuần, Nguyễn Khắc Hoan, Nguyễn Văn Siêu, Bùi Quỹ…

Đến năm 1872, các tỉnh Bắc Kỳ đều điều trần về việc đê điều nhưng vẫn tiếp tục có ý kiến khác nhau. Những bài điều trần này đã được đóng thành từng tập dày như Đê chính tập hay Đê chính tân luận. Song vì sở kiến bất đồng kéo dài nên triều đình vẫn phải giữ đê mà đê vẫn tiếp tục vỡ.

Riêng dưới triều Tự Đức, hai huyện Văn Giang và Tiên Lữ thuộc Phủ Khoái Châu (Hưng Yên) 18 năm liền đê bị vỡ và ngập lụt, đến nỗi dân đói khát phải bỏ làng mà đi kiếm ăn nơi khác, ruộng bỏ hoang, sậy mọc cao như rừng.

Advertisement

————————-

1. Bắc Thành là một đơn vị hành chính cấp cao do vua Gia Long đặt ra năm 1802. Đơn vị này quản lý 11 trấn (tương đương cấp tỉnh ngày nay), tính từ khu vực Ninh Bình trở lên phía Bắc. Đến năm 1831, vua Minh Mạng bãi bỏ đơn vị này.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Advertisement

Nguồn: https://znews.vn/cac-vua-nguyen-giai-quyet-ngap-lut-o-dong-bang-bac-bo-ra-sao-post1497287.html

Sách hay

Quyền làm chủ thân thể của phụ nữ

Được phát hành

,

Bởi

Hồi ký “Thân em” của siêu mẫu Emily Ratajkowski gợi suy ngẫm về việc phụ nữ và vẻ đẹp của họ bị đánh giá trên những thang đo, giá trị cũ của xã hội nặng nề “nhãn quan nam quyền”.

Emily Ratajkowski là siêu mẫu người Mỹ có hơn 30 triệu người theo dõi trên Instagram cá nhân và thường xuyên xuất hiện trên trang bìa nhiều tạp chí. Cô đại diện cho nhiều hãng thời trang cao cấp như Versace, Marc Jacobs, Dolce and Gabbana… và tham gia vào những dự án điện ảnh danh tiếng như Cô gái mất tích (Gone Girl).

Đẹp, nổi tiếng, giàu có, tưởng như có tất cả trong tay, nhưng những trải lòng của Emily trong hồi ký Thân em đã tiết lộ tâm tư của một cô gái làm việc trong ngành công nghiệp thời trang – giải trí nhiều góc khuất. Kể về trải nghiệm dần mất đi quyền làm chủ cơ thể của mình, Emily đặt ra loạt câu hỏi có tính bản chất về vẻ đẹp của phụ nữ và quyền làm chủ vẻ đẹp này.

Trong buổi tọa đàm chia sẻ về cuốn sách diễn ra vào giữa tháng 9, TS Ngữ văn Nguyễn Thị Thanh Lưu, ThS Nghiên cứu Phát triển Hoàng Giang Sơn và ThS Phụ nữ học – dịch giả Võ Quỳnh Lan đã phân tích và thảo luận về cách mà cuốn hồi ký của Emily chất vấn nhiều vấn đề xoay quanh phụ nữ và quyền làm chủ cơ thể của phụ nữ.

Advertisement
sieu mau,  co the,  dep anh 1

Siêu mẫu Emily Ratajkowski. Ảnh: Haper’s Bazaar.

Vẻ đẹp đo bằng hệ giá trị cũ

TS Ngữ văn Nguyễn Thị Thanh Lưu nhận xét qua cuốn sách, ta thấy được một cô gái ý thức rất rõ về vẻ đẹp của mình, hoàn toàn không phải một nhân vật ngây thơ đến ngây ngô. Điểm cuốn hút của cuốn sách nằm ở những giằng xé, phân vân, nghi hoặc trong nội tâm Emily. Cô vừa muốn dùng vẻ ngoài của mình để chinh phục thế giới vừa chán ghét việc người ta chỉ để ý đến cô vì vẻ ngoài.

Cô vui sướng được bố mẹ ủng hộ hết mực cho sự nghiệp làm người mẫu nhưng cũng lại cảm thấy xấu hổ hoặc ngại ngùng vì những khoe mẽ mà cô cho là quá đà của gia đình, đặc biệt là người mẹ. Bà rõ ràng rất ủng hộ con gái nhưng dường như đó không phải là vì bà nhìn nhận Emily với giá trị thực sự.

Nhiều đoạn viết về mẹ, Emily hoài nghi rằng bà say mê những lời ca ngợi vẻ đẹp dành cho con gái chỉ vì nhìn thấy ở đó hình bóng của mình thuở trẻ, coi nhan sắc của cô là “món quà thừa kế” của bà. Bà quan sát các cậu trai mới lớn để ý cô con gái tuổi teen của mình, luôn ngấm ngầm lấy thước đo của xã hội nam quyền để đánh giá giá trị của con gái.

Emily không hạnh phúc, không hài lòng với cách thế giới đối xử với mình, dù trong thời kỳ hoàng kim đỉnh cao của sự nghiệp. Cô cay đắng vỡ lẽ ra rằng cô chỉ có vẻ có quyền với cơ thể và cuộc đời mình, nhưng thực chất mọi con mắt đổ dồn về cô đều dưới một thước đo cũ kĩ kinh điển. Trong môi trường làm việc của cô, xã hội luôn đề cao và bảo vệ phụ nữ của cô, thực tế thì vị trí của phụ nữ chưa thay đổi.

Khi cô quyết định viết sách, người ta hỏi: Cô tự viết hay sao? Đây chỉ là một trong nhiều ví dụ trong câu chuyện cho thấy cô bị xem như một ma-nơ-canh không hơn không kém.

Advertisement
sieu mau,  co the,  dep anh 2

Sách Thân em.

“Mình chỉ là cơ thể này thôi sao?”

ThS Phụ nữ học Võ Quỳnh Lan, người chuyển ngữ Thân em sang tiếng Việt, kể về giai đoạn đang học tại Mỹ, dùng thức ăn để vượt qua căng thẳng mà lên đến 80 kg. Khi ấy cô mới cảm nhận rất rõ mọi người dường như chỉ chăm chăm chú ý đến cơ thể mình, khiến cô phải tự hỏi: “Mình chỉ là cơ thể này thôi sao?”

Quỳnh Lan bị cuốn vào rối loạn ăn uống, khủng hoảng về cách nhìn nhận cơ thể, mất kết nối với cơ thể, không ý thức được những gì đang diễn ra với cơ thể. Cô dần dần nhận ra vấn đề cốt lõi ở đây chính là mối quan hệ của cô với cơ thể mình, với thức ăn và cả những người xung quanh. Nhờ bạn bè, huấn luyện viên thể dục mà Quỳnh Lan mới đưa mình về quỹ đạo, lấy lại cảm giác “đây là cơ thể của mình, ở đây, theo ý mình muốn”.

TS Ngữ văn Nguyễn Thị Thanh Lưu quan niệm ta chỉ có thể thoát ra khỏi những thước đo và đánh giá của xã hội bằng cách tự xây dựng giá trị sống bền vững của riêng mình. Một phụ nữ quyết định làm gì dù là làm đẹp hay làm giàu… chỉ vì cô ấy muốn vậy chứ không phải cô ấy muốn chiều lòng ai hay đám đông nào. Đẹp tức là bản thân thấy mình đẹp, không vì ai khen ngợi hay chê bai. Việc này tưởng dễ mà thực ra khó, vì xã hội nào cũng đầy rẫy ràng buộc và đánh giá.

ThS Nghiên cứu Phát triển Hoàng Giang Sơn cho rằng một xã hội chi phối bởi nhãn quan nam giới (male gaze) thì ảnh hưởng rất nhiều tới cách người phụ nữ nhìn nhận bản thân, cơ thể của mình. Phụ nữ luôn bị đưa vào vị thế là “bị nhìn, bị đánh giá” (bởi đàn ông) nên họ luôn được/bị dạy là cần thay đổi để phù hợp với tiêu chuẩn xã hội (hay thực tế là đàn ông) đặt ra.

Dẫu sao chăng nữa, cái đẹp về ngoại hình ngày nay vẫn rất được chú trọng, những người được số đông nhận xét là ưa nhìn vẫn có nhiều đặc quyền riêng. Tuy nhiên, ThS Hoàng Giang Sơn nhận định rằng nếu ta quan tâm nhiều hơn đến những yếu tố khác, như tiếng nói, tự chủ, hay đam mê, thì ta sẽ giảm bớt được áp lực về cái đẹp, áp lực đặt lên người nữ.

Advertisement

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/quyen-lam-chu-than-the-cua-phu-nu-post1498790.html

Advertisement
Tiếp tục đọc

Sách hay

Giải pháp thứ ba

Được phát hành

,

Bởi

Bằng việc nhìn vào vấn đề, thấu hiểu nhu cầu, cùng nhau tìm đến một giải pháp ưu việt hơn hẳn (gọi là “Giải pháp thứ Ba”) so với giải pháp mà mỗi bên đề xuất, vấn đề sẽ được giải quyết. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Bằng việc nhìn vào vấn đề, thấu hiểu nhu cầu, cùng nhau tìm đến một giải pháp ưu việt hơn hẳn (gọi là “Giải pháp thứ Ba”) so với giải pháp mà mỗi bên đề xuất, vấn đề sẽ được giải quyết. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Stephen Covey anh 1Stephen Covey anh 2

Giải pháp thứ ba

Bằng việc nhìn vào vấn đề, thấu hiểu nhu cầu, cùng nhau tìm đến một giải pháp ưu việt hơn hẳn (gọi là “Giải pháp thứ Ba”) so với giải pháp mà mỗi bên đề xuất, vấn đề sẽ được giải quyết. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-7-thoi-quen-hieu-qua-cua-tac-gia-stephen-covey-post1498572.html

Advertisement
Tiếp tục đọc

Sách hay

Kiên cường trong gian khó

Được phát hành

,

Bởi

Truyện ngắn hiện đại Hàn Quốc tiêu biểu – Kiên cường trong gian khó được tuyển chọn từ những tác phẩm in trong Sách giáo khoa Quốc ngữ và Sách giáo khoa Văn học tại Hàn Quốc. Tuyển tập bao gồm những truyện ngắn được sáng tác từ thời kỳ đầu của nền văn học cận đại Hàn Quốc đến cuối những năm 1980, tái hiện những băn khoăn, trăn trở của một vùng đất cổ xưa trước những xáo trộn của thời cuộc.

Suốt tám năm viết lách cho đến khi mất lúc ba mươi mốt tuổi, độ tuổi còn rất trẻ, ông được xem là tác giả đầu tiên thổi một luồng gió mới vào văn đàn Hàn Quốc với dòng “văn học thể nghiệm”.

Choi Seo Hae (1900-1932)

Cuối năm 1924, nhà văn Choi Seo Hae vụt sáng trên văn đàn Hàn Quốc với ngòi bút khắc họa cuộc sống đi ngược lại trật tự vốn có lúc bấy giờ. Ông tự cho mình là “người cô độc tìm hoa mai ở phía Đông trong khi hàng nghìn vạn người khác chạy đi tìm trăng ở phía Tây”.

Advertisement

Suốt tám năm viết lách cho đến khi mất lúc ba mươi mốt tuổi, độ tuổi còn rất trẻ, ông được xem là tác giả đầu tiên thổi một luồng gió mới vào văn đàn Hàn Quốc với dòng “văn học thể nghiệm”. Ông đối đầu với sự đói kém bần cùng trong xã hội do Nhật Bản cai trị những năm 1920. Tất cả những trải nghiệm đều được nhà văn khắc họa một cách chân thực trong các tác phẩm xuất sắc.

Ông làm nhiều công việc khác nhau để trang trải cuộc sống, từ làm công cho nhà giàu đến lang thang phiêu bạt khắp nơi, rồi bị nghiện thuốc phiện, sau lại chuyển sang buôn bán đậu phụ, làm phụ hồ. Khi quay về quê hương, cái đói nhiều lần khiến ông tưởng chừng như cận kề cái chết, ông quyết định rời bỏ gia đình.

Truyen ngan anh 1

Ảnh minh hoạ. Nguồn: Wallace Chuck/Pexels.

Các tiểu thuyết của ông sau này hầu hết đều chứa đựng những trải nghiệm đau đớn từ chính cuộc đời đầy sóng gió của mình. Cố quốc Nhật ký đào tẩu như lời giải thích về hành động tẩu thoát của bản thân nhà văn khi không thể bám rễ và sinh sống ở Gian Đảo, đành về nước và rời bỏ gia đình; Mười ba won là giai thoại mà chính ông gặp phải trong thời gian ở Hweryeong; Ngọn lửa đỏ là câu chuyện mẹ vợ ông bị chết đói ở Mãn Châu;

Các tác phẩm khác như Đêm trừ tịch, hay Sau khi nước lớn rút cùng những tác phẩm kể trên đều là những thể nghiệm và quan sát của nhà văn trong giai đoạn bần cùng. Đúng như suy nghĩ yêu cuộc sống nhưng không muốn sống lâu với đời, ông đã sớm từ giã trần thế. Tác phẩm của ông với chất hiện thực sâu sắc vẫn tồn tại mạnh mẽ cho đến tận ngày nay.

Choi Seo Hae, người thổi làn gió mới cho một giai đoạn văn học Hàn Quốc, sinh năm 1901 trong một gia đình có bố làm nghề đông y ở Seongjin, tỉnh Hamgyeongbuk. Bản thân ông đã có những năm tháng tuổi thơ đầy sóng gió. Khi còn bé, dưới sự dạy dỗ của cha, ông được học Hán văn và theo học Trường Phổ thông Seongjin, nhưng biến cố gia đình ập đến khiến việc học dang dở và không tốt nghiệp được.

Advertisement

Khao khát và nỗ lực sáng tác văn chương của ông rất mãnh liệt. Thời niên thiếu, ông thích đọc tiểu thuyết. Năm mười bốn tuổi ông đã sáng tác bài thơ theo lối văn xuôi mang tên Học Chi Quang. Thế nhưng sự bần cùng cực độ đã không cho phép ông có tâm trí để viết văn. Năm 1917, ông cùng mẹ đến Gian Đảo tìm kiếm một cuộc đời mới. Tuy nhiên hoàn cảnh tha phương bi thảm, không có người đồng hành, khiến ông phải trải qua vạn nghề để nuôi sống gia đình.

Mùa xuân năm 1923, sau bảy năm vật vờ trên đất Gian Đảo, cảm thấy vỡ mộng với cái nghèo tột độ, ông dắt díu mẹ và vợ về nước. Sau đó, ông làm việc lặt vặt trong một ga tàu gần biên giới và viết bài, đăng tác phẩm thơ Tự thân lên Bắc Tiên Nhật Nhật Tân Văn với bút danh Seo Hae. Thế nhưng liên tiếp khó khăn cùng tai họa khiến ông quyết định rời xa gia đình; mẹ ông và con gái về quê hương Seongjin, vợ về Pyeongan và Seo Hae khăn gói lên đường vô định.

Cậu Kim! Tôi không thể chịu đựng thêm được nữa. Tôi sẽ cứu sống tôi trước tiên. Lúc này tôi đang như một xác chết bị thôi miên. Tôi là xác chết thì những người còn lại (tức gia đình tôi) có được cứu sống không? Nếu vậy, tôi định sẽ đè bẹp bọn đã thôi miên tôi, xóa sạch những thứ làm nên bầu không khí hiểm ác này.

Một đoạn được viết như trên trong Nhật ký đào tẩu là hiện thân của cuộc đời Seo Hae, khi chính ông là nhân vật có hoàn cảnh khốn cùng trong truyện. Năm 1924, với sự giới thiệu của Chunwon, ông tạm thời lưu lại ở chùa Bongseon vùng Yangju, ngay lập tức ông mở lớp văn học và viết Nhật ký đào tẩu.

Trước tác phẩm này, ông đã sáng tác Cố quốc Mười ba won trên Triều Tiên Văn đàn; tuy nhiên đến tận Nhật ký đào tẩu được viết vào tháng Ba năm 1925, phong cách văn học của ông mới bắt đầu nhận được sự quan tâm. Tiếp theo, ông cho ra đời loạt tác phẩm Cái chết của Bakdol, Đói nghèo và thảm sát, Sau khi nước lớn rút và nhận được rất nhiều sự tán dương từ trường phái văn học khuynh hướng mới đương thời. Bỗng chốc, ông trở thành tác gia nổi tiếng chỉ trong thời gian ngắn.

Advertisement

Năm 1926, Choi Seo Hae xuất bản tập truyện Vết máu, tháng tư cùng năm ông tái hôn với chị của một người bạn của ông là nhà thơ sijo Joun. Về sau, ông tiếp tục sáng tác và làm việc tại các tạp chí khác nhau như Bình luận hiện đại thế nhưng cái nghèo vẫn bám theo dai dẳng. Sống khắc khổ và ăn uống không điều độ khiến ông mắc bệnh dạ dày mãn tính, bệnh nặng tái phát khiến ông đau đớn trên giường bệnh và từ giã cõi đời vào tháng Sáu năm 1932 khi vừa bước qua tuổi ba mươi mốt.

Những tác phẩm được xây dựng từ chất liệu thực tế là cuộc sống bần cùng, khốn khổ của chính tác giả tuy không được đánh giá cao vì không phải là tinh túy của văn học nhưng chúng được xem là hồi chuông cảnh tỉnh đến quan niệm sáng tác của nhóm tác giả thuộc tầng lớp trí thức đương thời vốn đang nhìn xã hội với thái độ bàng quan. Đồng thời, tác phẩm của ông được đánh giá là văn học dân tộc xét trên phương diện miêu tả một cách chân thực đến mức trần trụi về nỗi thống khổ của dân tộc Hàn Quốc trong trải nghiệm Gian Đảo.

Nguồn: https://znews.vn/cuoc-doi-lang-bat-cua-nha-van-han-quoc-post1498781.html

Advertisement
Tiếp tục đọc

Xu hướng