Connect with us

Sách hay

Góc nhìn mới về mỹ thuật Việt

Được phát hành

,

TS Trần Hậu Yên Thế đã định vị mỹ thuật Việt trong một hệ tọa độ tham chiếu Đông – Tây, đồng thời, nhìn lịch sử mỹ thuật Việt Nam để mở rộng ra lịch sử văn hóa Việt Nam.

My thuat Viet anh 1

TS Trần Hậu Yên Thế. Ảnh: Minh Châu.

Mỹ thuật Việt – Soi từ phía khác (hình ảnh và bình luận) là cuốn sách chuyên khảo về mỹ thuật Việt Nam của tiến sĩ Trần Hậu Yên Thế – một nghệ sĩ thị giác kiêm giảng viên Đại học Mỹ thuật Việt Nam.

Sách gồm 25 bài viết về lịch sử mỹ thuật người Việt từ thời sơ sử đến nửa đầu thế kỷ 20, bắt đầu từ bài Nghệ thuật Đông Sơn và hệ sinh thái duyên hải (cách đây hơn 2.500 năm) cho đến bài Chiếc veston của Chủ tịch Hồ Chí Minh và con tem của họa sĩ Nguyễn Sáng (trong ngày Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập). Trong tất cả bài viết, tác giả phần hình ảnh luôn được đưa lên trước, mục đích cung cấp tư liệu cho độc giả. Phần phân tích, lập luận, biện giải của tác giả ở phía sau, nhất quán với nguyên tắc soi tới đâu nói tới đó.

Nghiên cứu mỹ thuật phải bắt đầu từ những chi tiết nhỏ

Khác với các công trình nghiên cứu về lịch sử mỹ thuật Việt Nam của các nhà nghiên cứu trước đây viết theo lối biên niên sử, hoặc là những cuốn sử Việt, của người Việt, viết cho người Việt, Trần Hậu Yên Thế lại chọn một hướng đi khác, cách tiếp cận khác. Cách làm của ông là soi kỹ từng chi tiết, phát hiện những điều nhỏ nhặt, tưởng như vặt vãnh để hiểu thêm lịch sử mỹ thuật người Việt.

Theo Trần Hậu Yên Thế nghiên cứu mỹ thuật phải bắt đầu từ những chi tiết nhỏ, là soi tới đâu nói tới đó, chứ không phải biết tới đâu nói tới đó. Nhìn là quan sát, soi cũng là nhìn, nhưng nhìn một cách kỹ lưỡng, nhìn một cách đầy nghi hoặc. Mặc dù soi mói mang một ý nghĩa tiêu cực, nhưng soi thật kỹ lưỡng để soi tỏ, phát hiện ra những vấn đề thú vị.

Trong cuốn sách, Trần Hậu Yên Thế đã định vị mỹ thuật Việt trong một hệ tọa độ tham chiếu Đông – Tây, đồng thời, nhìn lịch sử mỹ thuật Việt Nam để mở rộng ra lịch sử văn hóa Việt Nam. Để thực hiện điều này ông đã chọn phương pháp nghiên cứu chính là so sánh.

So sánh ở đây không chỉ đơn thuần là chỉ ra điểm chung và riêng, giống và khác, không để phân biệt cao thấp, không luận hơn thua, trái lại, đây là nghiên cứu những mối quan hệ tương đồng, quan hệ họ hàng hay ảnh hưởng giữa hai nền mỹ thuật, hai nền văn hóa. Một nghiên cứu đối sánh như vậy đòi hỏi sự tổng hợp những góc nhìn, cả quen thuộc lẫn xa lạ.

Với cách tiếp cận đó, cuốn sách cung cấp những tư liệu, chứng cứ mới, từ nhiều nền văn hóa khác lạ (thậm chí rất xa xôi, chắc chắn không có những liên hệ ảnh hưởng, trực tiếp nào) để liên hệ so sánh, đối chiếu. Bạn đọc có thể tiếp tục từ đó đồng hành cùng người viết để lần theo những dấu vết manh mối, tìm ra những mối liên hệ ngầm chi phối những phong cách nghệ thuật của người Việt.

My thuat Viet anh 2

Sách Mỹ thuật Việt – Soi từ phía khác. Ảnh: Việt Linh.

Giá trị nghiên cứu từ con mắt của kẻ lạ

Tác giả sách cho biết lịch sử mỹ thuật Việt, ngay từ ban đầu, được ghi chép lại qua con mắt của những người xa lạ. Có thể là một sứ giả Trung Hoa, một thương nhân, nhà hàng hải, thầy tu hay học giả phương Tây.

Những người đến từ phương xa, rất khác biệt về tập tục, lối sống, quan niệm cùng đức tin, tất có sự khác biệt trong bình luận, nhận xét về mỹ thuật của người Việt. Nhờ góc nhìn từ phía khác, chúng ta mới có cơ hội phát hiện ra cái khác lạ trong mỹ thuật Việt.

Chẳng hạn như con nghê ở ngai vàng dùng để các hoàng đế đặt chân lên. Trong sách L’Empire d’Annam (Đế quốc An Nam), viên đại úy Ch.Gosselin đã gọi sai là con rồng. Hoặc như, nếu đọc các tài liệu nghiên cứu nước ngoài về trống đồng, dù là tiếng Pháp hay tiếng Trung đều nói hình ảnh trên trống là con ếch. Nhưng phần đông sách vở chúng ta lại gọi là con cóc.

A. Rhodes trong cuốn sách Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài cũng là người phương Tây đầu tiên lớn tiếng phản đối tín ngưỡng thành hoàng làng của người Việt. Nhưng chính qua con mắt của Alexandre de Rhodes, chúng ta có thể chắc chắn rằng, tới thế kỷ XVI thì đình làng đã là không gian văn hóa đặc biệt quan trọng của người Việt.

Samuel Baron đã cảm thấy lạ kỳ khi các quan lại triều Lê khi vào chầu vua phải đi chân đất. Chắc ông cũng sẽ ngạc nhiên không kém khi các đô vật trong tranh Đông Hồ lại đi hài khi thi đấu. Chắc chắn đi hài và không đi hài trong quan niệm của người Việt rất khác người phương Tây, người Hán.

Trần Hậu Yên Thế cũng cho biết ngay cùng một thời kỳ lịch sử, tuy cùng là người phương Tây, khi nhận định về mỹ thuật Việt Nam, ta thấy quan điểm của Louis Bezacier, G.Coedès hay Léopold Michel Cadière, Edmond Gras rất khác Marcel Bernanose…

Bezacier và Coedès hẳn đã ngầm phản đối cách nhìn nhận thành kiến và áp đặt của những người như Bernanose: Người ta thường hay lầm lẫn nghệ thuật Việt Nam với nghệ thuật Trung Quốc. Có người đã gọi nghệ thuật Việt Nam là nghệ thuật phỏng theo nghệ thuật Trung Quốc một cách vụng về và cho nghệ thuật Việt Nam là một nền nghệ thuật thuộc địa. Đây là một sự ngộ nhận rất lớn, tuy nhiên ngộ nhận sẽ bị tiêu tan đi ngay khi nào người ta chịu xem xét kỹ lưỡng đôi chút những di tích cổ truyền của nghệ thuật Việt Nam.

Soi kỹ từng chi tiết, phát hiện những điều nhỏ nhặt, tưởng như vặt vãnh để hiểu thêm lịch sử mỹ thuật người Việt, Mỹ thuật Việt – Soi từ phía khác đã đưa ra một góc nhìn mới về mỹ thuật Việt từ sơ sử đến nửa đầu thế kỷ 20.

Nhận xét về cuốn sách, TS Phạm Long viết: “Nếu cho rằng: ‘Mỹ thuật là một hình thức nhận thức’, thì nghiên cứu mỹ thuật lại càng là một quá trình tự ý thức. Trong nhiều bài viết của cuốn sách, TS Trần Hậu Yên Thế đã hơn một lần trở đi trở lại với những nghiên cứu, phán đoán, nhận định trước đây của mình, để rồi tự phản biện.

Và, dưới những góc nhìn mới, có tham khảo và đối chiếu với những kết quả nghiên cứu mới của đồng nghiệp trong nước và quốc tế – rút ra những kết luận mới có giá trị học thuật. Đây là một thái độ khảo cứu nghiêm túc, có trách nhiệm và khoa học, cũng là một điểm sáng của cuốn sách tổng hợp các kết quả nghiên cứu mỹ thuật mới này của tác giả Trần Hậu Yên Thế”.

Giải thưởng Sách Quốc gia do Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Xuất bản Việt Nam tổ chức. Lễ trao Giải thưởng Sách Quốc gia lần thứ sáu (2023) tổ chức ngày 29/12/2023 tại Nhà hát Lớn (Hà Nội). Đơn vị tài trợ Kim cương: Ngân hàng VIB, Đơn vị tài trợ bạc: THACO.

Nguồn: https://znews.vn/goc-nhin-moi-ve-my-thuat-viet-post1453390.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1
Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2
Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Bảo vệ bản thân khỏi các mối quan hệ độc hại

Được phát hành

,

Bởi

Tác giả Angela Sen, với kinh nghiệm hơn 15 năm trong lĩnh vực tư vấn điều trị tâm lí sẽ đưa ra những lời khuyên hữu ích, hướng độc giả đến những lối sống bền vững, cân bằng về cảm xúc và hiểu bản thân mình hơn.

Giao tiếp lành mạnh là một kỹ năng mà mỗi người nên học hỏi và bồi đắp thường xuyên. Nó sẽ giúp bạn xây dựng được những mối quan hệ chất lượng, tạo lòng tin với đối phương.

Giao tiep lanh manh anh 1

Bình đẳng và tôn trọng đối phương là nguyên tắc quan trọng trong quá trình giao tiếp. Ảnh: T.N.

Giao tiếp lành mạnh có thể được định nghĩa là “sự trao đổi hiệu quả những suy nghĩ và cảm xúc giữa con người với nhau, và truyền đạt một cách trung thực, rõ ràng những yêu cầu, đồng thời là sự tôn trọng quyền lợi của nhau”. Theo định nghĩa này, có thể chia thành ba yếu tố chính sau đây:

– Giao tiếp lành mạnh là bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc, nhu cầu của bản thân và tự chịu trách nhiệm về chúng.

– Giao tiếp lành mạnh tôn trọng quyền thể hiện bản thân của chính mình và của cả đối phương.

– Giao tiếp lành mạnh là một kỹ năng, không phải là tính cách.

Yếu tố đầu tiên trong giao tiếp lành mạnh là bày tỏ rõ ràng và độc lập những gì mình nghĩ, mình cảm nhận và cả những điều mình mong muốn. Ở đây, suy nghĩ của tôi là của tôi, cảm xúc của tôi là của tôi và nhu cầu của tôi là của tôi. Tôi có quyền tự do lựa chọn, tôi chịu trách nhiệm về điều đó và đối phương cũng vậy.

Yếu tố thứ hai là thừa nhận rằng đối phương có quyền nói những gì họ muốn, cũng như bạn có quyền nói những gì mình muốn nói mà không bị giao động. Ở đây, sự quan tâm và tôn trọng quyền lợi của đối phương không có nghĩa là bạn phải thay đổi mọi thứ của bạn để phù hợp với họ.

Cũng không phải là việc đồng ý một cách vô điều kiện hoặc bị cuốn theo những suy nghĩ cho rằng đối phương là đúng, để rồi phải thay thế họ gánh vác cảm xúc và chịu trách nhiệm cùng họ.

Càng không phải là không thể từ chối hoặc chấp nhận tất cả các yêu cầu của họ. Trong trường hợp đó, bạn chỉ đang tôn trọng quyền lợi của đối phương mà quên mất đi quyền lợi của chính mình.

Đơn giản, bạn chỉ cần thừa nhận rằng đối phương cũng có suy nghĩ, cảm xúc, nhu cầu của riêng họ, họ cũng như quyền bày tỏ chúng ra bên ngoài, đây chính là bước khởi đầu trong giao tiếp lành mạnh. Giao tiếp lành mạnh không nhất thiết phải là đồng tình, thông cảm và giải quyết ngay lập tức.

Yếu tố quan trọng thứ ba chính là cần phải hiểu rõ việc giao tiếp không phải tính cách hay tài năng sẵn có mà đó là kỹ năng do con người tích lũy được. Cũng có nghĩa là khả năng giao tiếp lành mạnh không phải là khả năng bẩm sinh, chắc chắn sẽ có những lúc bạn không thể nói được điều mình muốn nói, để rồi cuối cùng phải hối hận. Điều này cũng giống như một vận động viên có thể mắc lỗi ngay cả khi họ đã luyện tập cùng một động tác hàng chục nghìn lần.

Hơn nữa, trong cuộc sống, có thể chúng ta sẽ gặp rất nhiều tình huống giống nhau, nhưng không phải lúc nào cũng xử lý theo một cách rập khuôn. Vấn đề giao tiếp cũng vậy, nó giống như một bài toán tìm cách giải mới nên không thể giải quyết chỉ bằng cách nhìn vào đáp án được.

Nói cách khác, vì đây là một quá trình không ngừng học hỏi và trau dồi thông qua việc thử nghiệm và mắc sai lầm nên bạn không cần phải quá khắt khe với bản thân nếu như bạn có lỡ mắc lỗi.

Và cho dù bạn có “tài năng” đi chăng nữa, nhưng nếu không trau dồi thì mãi mãi không thể phát triển được kỹ năng này, nếu chăm chỉ học hỏi và luyện tập thì ai cũng có thể tốt lên. Dù vậy thì không ai là không mắc sai lầm. Kỹ năng giao tiếp cũng không ngoại lệ.

Nguồn: https://znews.vn/bi-quyet-de-giao-tiep-lanh-manh-post1511519.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng