Connect with us

Sách hay

Những hoang đường có thật của văn học

Được phát hành

,

Trong “Tuyệt không dấu vết”, tiểu thuyết gia đất Hà Thành chỉ ra cho độc giả của mình thấy: những hoang đường của văn học là có thật.

Cơ địa tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà

Tôi đồng ý với Kundera trong Nghệ thuật tiểu thuyệt, rằng dù muốn hay không, đối với một nhà tiểu thuyết, trong mỗi tác phẩm của anh ta đều chứa đựng cách nhìn ngầm ẩn về ý tưởng thế nào là tiểu thuyết.

Thực ra, không cần đến Tuyệt không dấu vết, với “bộ ba” Cơ hội của Chúa – Khải huyền muộnBa ngôi của người, theo tôi, Nguyễn Việt Hà đã hoàn tất công việc định nghĩa “cơ địa tiểu thuyết” của mình. Chưa kể, những mầm mống ý tưởng về tiểu thuyết đã rải rác ngay cả ở những truyện ngắn được viết rất sớm của anh.

Vòng quay 20 năm của tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà (19992019) gần như được khép lại bằng Thị dân tiểu thuyết – nơi tác giả gói ghém không ít tham vọng đi tìm bản lai diện mục, đi vào “tâm” của cái Hà Nội này (tất nhiên cần phải hiểu “Hà Nội” với tư cách một thực thể văn học). Đang trong thang độ tràn ngập màu sắc Ki-tô (với những Chúa-Khải huyền-Người-Ngôi lời kể lể nhỏ) ấy, sẽ là dễ hiểu, khi thoạt nhiên bạn đọc có cảm giác băn khoăn về một sự “chệch hướng” ở Tuyệt không dấu vết – cuốn tiểu thuyết mới nhất này của anh.

Cần phải nói thêm rằng, Nguyễn Việt Hà là mẫu nhà văn mà chúng ta không nên bàn nhiều về những quan niệm, những diễn ngôn cụ thể, rồi thô bạo gò vào một vài “khung lý thuyết” tân thời và yên tâm với một vài kết luận.

Điều quan yếu là phải nhìn ra cách nhà văn thể hiện và dung hòa chúng trong nghệ thuật tiểu thuyết của mình. Đọc Cơ hội của Chúa, Đoàn Cầm Thi từng nhận định “tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà là một lò thử nghiệm văn phong khổng lồ” (Cơ hội của Chúa: từ nhật ký đến hậu trường văn học, 2006) thì tới Tuyệt không dấu vết, cái văn phong ấy đã thành tựu ở phiên bản hoàn thiện nhất của nó. Đó là thứ ngôn ngữ tiểu thuyết được cá nhân hóa, điển hình hóa triệt để, gần như san định thành một lối bạch thoại của thị dân Hà Nội.

Chính anh vừa là một cá nhân vô thức trong cộng đồng, một “native speaker”, vừa là một “nhà ngữ pháp” vạch ra những quy phạm, những cấu trúc bề sâu của cái hệ thống ngôn ngữ sinh động ấy. Và cuộc khảo thí ngôn ngữ ở quy mô tiểu thuyết này đã từng bước đặt Nguyễn Việt Hà vào một vị trí đặc biệt trong văn học Việt Nam đương đại.

Lối viết “dĩ ảo vi thực” độc thủ

Trên tư cách độc giả, cá nhân tôi chưa từng mong đợi những phiêu lưu phi thường kịch tính ở trong khuôn khổ tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà. Ngay cả ở đây, khi tác giả như cố tình tạo nên một cú “twist” về mặt thể loại ở lời đề từ (“tiểu thuyết trinh thám-kiếm hiệp”), để dành khoảng hoang mang háo hức cho những “độc giả trong trắng” của mình.

Trước tiên ở kết cấu chương hồi theo lối “diễn chí” với những hồi mục nửa Đông nửa Tây, nửa kim nửa cổ, nửa Nôm nửa Hán – một kiểu parody nhuần nhuyễn điển hình của Nguyễn Việt Hà. Tương thích với kết cấu ấy là một cốt truyện điều tra – phá án, dần hé mở cho độc giả một loạt những dấu hiệu bất thường, dở khóc dở cười của hệ thống các nhân vật không thể nói là bình thường.

Câu chuyện của Tuyệt không dấu vết quả nhiên vẫn được đặt trong lòng Phố, trong lòng cái Hà Nội âm trầm “sóng lớp phế hưng” – với tất cả đặc tính cốt lõi trở đi trở lại trong các tác phẩm của anh. Nói theo ngôn ngữ sách giáo khoa, Phố là một chủ thể trữ tình, một “sợi chỉ đỏ xuyên suốt”, kiến tạo nên sinh quyển tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà.

Chỉ có điều, Phố ở trong Tuyệt không dấu vết dường như được xóa mờ đi ranh giới của một thực tại đời sống đô thị cụ thể, để dễ bề lùi vào hậu cảnh, phục vụ cho ý đồ tạo dựng hiệu ứng “trinh thám-kiếm hiệp” của tác giả.

Ngay ở những dòng đầu tiên cái không-thời gian ấy đã mang đầy dấu vết ngụy tạo: “Phố nửa như đang Thu, nửa như đang Xuân, nên chắc là mùa Đông. Người đi trên phố nửa quê nửa tỉnh nửa cao bồi, rất hiếm cao thủ. Gió lạnh hoang mang mưa, trời rét như cắt da cắt thịt. Ngày xưa, cũng chưa xưa lắm, người ta lãng mạn gọi là rét ngọt. Ngày nay tàn bạo hơn, gọi là rét hại. Ngày xưa người ta chống rét bằng cách cầm tay nhau, cùng lắm là hôn nhau. Còn bây giờ, nhà nghỉ đã nhiều hơn quán rượu”.

Thông qua biểu dụ “giang hồ”, lại là một thứ “giang hồ thời mạt”, Phố bỗng phát vãng đến độ hoang đường như thế. Nhưng cũng chẳng lấy gì làm xa lạ, người đọc gần như cùng lúc sẽ nhận ra ngay những chỉ dấu lồ lộ của một đời sống chạng vạng thành thị quen thuộc, nơi mà“Thập loại chúng sinh luôn tự nghĩ đang mang đủ loại trọng bệnh, nườm nượp chen nhau tới cửa Phật. Có bệnh đến từ đắc thời, có bệnh đến từ thất thế. Rồi ngoại tình, rồi vỡ tình, rồi thất tình. Có ung thư muộn giai đoạn cuối, có mới làm quan giai đoạn đầu, cửa chùa từ bi rộng mở chữa tất”.

Dày đặc tâm linh nhưng hoàn toàn thiếu vắng đức tin, ấy là căn bệnh trầm kha của “thời mạt”. Và khi chẳng biết bám víu vào đâu thì, “má mì cũng giống như quan chức, thường rất khó hạ cánh an toàn” và các “sồn sồn thiếu phụ” cũng nườm nượp đốn ngộ ưng vô sở trụ chẳng khác Huệ Năng Lục tổ ngày trước là mấy.

Ngỡ tưởng đây là “buổi hoàng hôn của các thánh thần”, cái cảnh giới mà Nietzsche đã nghiền ngẫm tổng kết – nơi con người vượt thoát khỏi tôn giáo để vươn tới chân hạnh phúc bằng chân thành bản năng. Nhưng không, “VTV rụt rè đưa tin về một đạo lạ mới xuất hiện ở Đắc Nông. Càng gần đến doomsday thì càng đông những tôn giáo tân kỳ. Có những đạo trưởng bắt tín đồ phải mua chum, úp mặt hét vào đấy để xả bớt tham sân si. Có cái lạ là đa phần đám đạo sư đều là đàn bà”. Chắc triết gia lừng danh cáu kỉnh phẫn nộ này cũng phải bật cười khi nhìn vào sự hoang mang trống rỗng thường trực ở các nhân vật của Nguyễn Việt Hà.

Trong cái vòng kim cô – lộn xộn những chân lý mập mờ chế định cõi giang hồ-thời hiện đại ấy, văn phong Nguyễn Việt Hà có điều kiện phát huy hết tiềm năng của lối viết “dĩ ảo vi thực” độc thủ. Vẫn những chiêu số quen thuộc ấy thôi, nhưng chủ ý đưa ra một hình thức-chuyện kể mới lạ rõ ràng đã đắc dụng, giúp nhà văn thoải mái tổ chức chất liệu đời sống theo nguyên lý “nửa hư nửa thực” – “Đám nhà văn buồn cười lắm, họ tưởng tượng nhưng lại tin rằng điều mình tưởng tượng là thực”. Và chẳng phải nó cũng hoàn toàn ăn nhập với cái “Hà Nội muôn đời sâu sắc lãng mạn là nhờ hoang đường, dịu dàng phù phiếm là nhờ hoang tưởng” này hay sao?

Tôi cho rằng, Nguyễn Việt Hà không chủ định tạo dựng nên một thứ tựa như “huyền thoại phố phường” nhưng bản thân những cấu phần câu chuyện được kể lại, tự nó đã mang tính huyền thoại.

Như một thói quen thăm dò thời đại, các cuốn tiểu thuyết trước của anh luôn song hành một mạch truyện lịch sử. Ở đây, dường như cái mạch lịch sử ấy được kéo về tiệm cận, gần như đồng hiện ở trong mạch đương đại.

Những “người muôn năm cũ” của một thời giang hồ đầy tráng khí được tái hiện qua loạt hồi tưởng đan cài của các nhân vật thuộc nhiều thế hệ. Đáng kể nhất trong ấy, và mang tính biểu tượng thời đại, là văn sĩ Đức Trọng – ông nội Thám tử – một nhà văn “chuyên viết truyện trinh thám lẫn kiếm hiệp, lứa đàn em của văn sĩ lừng danh Phạm Cao Củng”, “từng làm báo cùng ông Vũ Bằng, ông Ngọc Giao”, có giao hảo với “một ông nhà thơ hom hem, có tên trong tập khảo luận lừng danh của Hoài Chân- Hoài Thanh”.

Theo đó, ông là “cha đẻ” của nhân vật thám tử Michel Phát Kỳ viết từ hồi Pháp thuộc và rồi đây người cháu đích tôn – Nguyễn Ngọc Tuấn sẽ tiếp tục nối nghiệp ông nội, trước tác chính cuộc đời mình thành một hình mẫu thám tử.

Dễ thấy, “Tuấn còn được tử tế sống, còn minh mẫn biết uống whisky, hoàn toàn là nhờ ông nội”. Cảm hứng lịch sử được di dưỡng ở trong những mạch ngầm như vậy, không cần rạch ròi tách biệt thành một tuyến riêng, vừa đủ giữ cho Tuyệt không dấu vết một làn sương hư ảo cần thiết.

Để độc giả tự do trong những liên tưởng

Trở lại với phần lõi của cốt truyện “trinh thám-kiếm hiệp” này. Hai sự vụ mà thám tử Tuấn của văn phòng “Tam Tuấn” thụ lý, được ghi vào hai folder “Mission 12 – thiếu phụ 7” và “Mission 14 – thiếu phụ 9” thoạt nghe chẳng có gì đặc biệt. Giống đa phần các vụ án đồng dạng trước đây đều “nửa nhì nhằng ích kỷ, nửa thảm thiết tàn bạo, lẫn lộn cả hận lẫn yêu”, khiến thám tử “vừa chán vừa bải hoải”.

Theo đó, chồng của thiếu phụ 7 – Diệu Phong, được gọi với danh xưng “Hà Thành lãng tử” là mối tình đầu của thiếu phụ 9 – Sơn Linh. Tục lụy ái tình vẫn đeo đẳng trong những giấc mơ của “số 9”.

Thói giang hồ, bà ăn nem thì đương nhiên ông sẽ ăn chả, thứ trưởng phu quân của thiếu phụ 9 cũng công khai quan hệ bất chính với thiếu phụ 7.

Xuất phát từ những động cơ khác nhau, cả hai cùng hoang mang đi tìm chồng và đến cậy nhờ Thám tử. Chiểu theo “tự thú” của Lãng Tử, người đọc biết được rằng anh ta đã thực sự chết, nhưng sự chết ở đây dường như cũng chỉ mang bản-chất-mơ, để theo đó cuộc điều tra vẫn hữu lý tiếp diễn.

Người sống biết mơ thì người chết cũng biết mơ, mà một khi đang mơ thì lại không rõ mình đang sống hay chết. chết là hai trạng thái thay phiên nhau xóa nhòa thực tại ở trong tiểu thuyết này. Tức là thực tại hai lần hư cấu.

Đáng lưu ý là ngay từ đầu, thám tử đã nhận thấy ở vụ này “có một cái gì sâu kín cũ kỹ quen thuộc hoang mang tới mức không thể nhớ”; và rồi “rùng mình” khi: “Cách đây chưa lâu, khi vô tình thấy giờ sinh bên lề tờ khai sinh gốc của người mất tích [Lãng tử], thám tử đã lập tay lá số tử vi cho anh ta với bát tự là giờ Bính Ngọ, ngày Nhâm Ngọ, tháng Quý Hợi, năm Mậu Ngọ. Chúa ơi, nó trùng khít với 12h ngày 16 tháng 11 năm 1978, giống y thời gian sinh ra mình.” Những chỉ dấu song trùng xuất hiện không chỉ một lần, chắc hẳn sẽ đẩy về phía độc giả nhiều hoài nghi.

Từ đây, quá trình điều tra vô hình trung biến thành một cuộc thăm dò tiềm thức của chính Thám tử. Theo suy lý thông thường, thám tử đương nhiên phải là kiểu nhân vật tỉnh táo, mẫn tiệp bậc nhất. Vậy một vụ án sẽ đi tới đâu khi căn cước của chính người phá án cũng bị nghi ngờ?

Về mặt hiện tượng, nhân vật Tuấn thám tử ở đây cũng chẳng hoang đường hơn Sherlock Holmes trong truyện của Conan Doyle, Sở Lưu Hương trong “chưởng” của Cổ Long, hay thậm chí là Hoàng là Nhã trong Cơ hội của Chúa. Điểm khác biệt chỉ xuất hiện khi Nguyễn Việt Hà đặt nhân vật của mình vào một trạng thái tinh thần hoàn toàn khác.

Thám tử Tuấn là người không bao giờ mơ, nhưng cuối cùng có vẻ như anh ta cũng đang trong một giấc mơ, và trong giấc mơ ấy lại mơ là mình đang mơ tiếp một giấc mơ khác… Nỗ lực “bơi ngược dòng” để tìm đến một thực tại chắc chắn của nhân vật Thám tử khiến người đọc dễ liên hệ đến dự án triết học của Descartes ở thế kỷ XVII – đi tìm một điểm tựa duy lý vững chắc cho suy tưởng của con người – một vấn đề nhận thức luận (epistimology) bản lề trong triết học phương Tây Hiện đại.

Nôm na hơn, nó thường được minh họa bằng điển tích “Trang Chu mộng hồ điệp” trong sách Trang tử: “Có lần Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm vui vẻ bay lượn, mà không biết mình là Chu nữa, rồi bỗng tỉnh dậy, ngạc nhiên thấy mình là Chu. Không biết phải mình là Chu nằm mộng thấy hóa bướm hay là bướm mộng thấy hóa Chu”.

Đó cũng chính là băn khoăn căn bản về một thực tại “u u minh minh” đeo bám vào cốt truyện: “Thực tại bản lai vốn là ảo hay là thật, hay đúng chỉ là một giấc mộng lớn”.

Trong ngữ cảnh nửa mê nửa tỉnh này, đối trọng với những ảo ảnh mộng mị nơi tuyến nhân vật Thám tử – Lãng tử – Thiếu phụ lại chính là sự tỉnh táo bất thường ở Bách (và đâu đó cả ở nhân vật đệ tử Tuấn Anh) – người bạn thân thiết lâu năm của Thám tử.

Bách – sĩ quan an ninh, xuất hiện lạnh lùng chớp nhoáng qua những cuộc gặp. Người đọc cũng không biết gì thêm về hành tung của nhân vật này ngoài việc nhận thấy cuối cùng, mối quan tâm ở anh ta là chiếc cặp Samsonite chứa “sinh mệnh chính trị của biết bao nhiêu người cao quý” – một vấn đề “thuần túy chuyên môn”.

Tỉnh táo sắc sảo là thế, không ngạc nhiên khi Bách chính là người “giải ảo”, mở ra lối thoát cho những chập chờn nghi hoặc liên miên không hồi kết. Nhưng cũng theo một cách cũng hoang đường chẳng kém, anh ta dụng công đọc hết Thành duy thức luận – hệ thống siêu hình học cơ bản của Phật giáo, lấy đề tài là toàn thể kinh nghiệm của Tâm Thức con người – để “vạch mặt” người bạn thám tử của mình: “…Không phải là Freud đâu, chính những đại sư tông Duy Thức mà cậu vô cùng thích đã phân tích như thế. ‘Lãng tử’ chỉ là bản phô tô đầy lỗi phóng chiếu từ tâm thức đã bị tẩu hỏa nhập ma của một người thích diễn vai thám tử”. Cùng đó, hai cô nhà báo “số 7”, tiểu thư “số 9” “đều là bệnh nhân tâm thần phân liệt”.

Tới đây, một câu hỏi rốt ráo phải được đặt ra: “Cứ cho là thám tử đã bịa ra Lãng tử, vậy ai đã bịa ra Thám tử”? Có lẽ để giải đáp câu hỏi này, ở hồi thứ hai mươi, hồi cuối cùng của tiểu thuyết (“Tứ cú”), Nguyễn Việt Hà đã để cho Thám tử lần đầu tiên xuất hiện với tư cách một chủ thể xưng “Tôi”. Tất nhiên, theo phương pháp luận hoài nghi của Descartes (“nguyên lý thứ nhất”), dù hoang đường mộng mị tới đâu thì cái “Tôi” biết suy tư luôn tiền giả định sự tồn tại của chính nó (“…Và khi tôi quan sát thấy rằng sự thật này: tôi đang suy nghĩ, do đó tôi tồn tại, là hoàn toàn chắc chắc, và đầy đủ bằng chứng hiển nhiên tới mức không có cơ sở nào để nghi ngờ…

Chẳng phải đắn đo, tôi chấp nhận nó như nguyên lý đầu tiên của thứ triết học mà tôi đang nghiên cứu” – (Discourse on the Method of Rightly Conducting One’s Reason and of Seeking Truth in the Sciences, Oxford University Press, Part IV, p.28, – a new translation of Ian Maclean (2006)).

Việc xác lập một cái “Tôi” chắc chắn cho nhân vật Thám tử ở “phút 90” có thể là khởi điểm của một cuộc “lội ngược dòng” nữa, hay nói cách khác, một manh mối quan trọng giúp xoay chuyển “vụ án” này theo những chiều diễn dịch khác nhau. Và thẩm quyền của độc giả tiểu thuyết là được tự do trong những liên tưởng như vậy.

Thực tại và hoang đường trong nghệ thuật tiểu thuyết

Yếu tính của văn học là hư cấu (fictional). Văn học đưa người đọc đến một “thế giới khả dĩ” (possible world), nhưng chính cái thế giới phi thực ấy vẫn phải kết nối với thực tại (reality) bằng logic của nghệ thuật tiểu thuyết.

Trong khuôn khổ bài viết này, tôi tự giới hạn, chú mục vào trình bày và phân tích một vài dấu vết hoang đường trong Tuyệt không dấu vết để thuyết phục bạn đọc rằng: đây là một cuốn tiểu thuyết bình thường của Nguyễn Việt Hà. Giống như khi đọc Edwin Drood của Dickens, Vụ án của Kafka hay Tội ác và trừng phạt của Dostoevsky, ta thấy bình diện thứ nhất của nội dung không nằm ở lớp vỏ trinh thám, phiêu lưu, điều tra phá án mà là cuộc tìm sâu vào đời sống tâm thức con người – với đầy rẫy những khía cạnh phi lý dường như chỉ có thể tiệm cận qua con đường văn học.

Đấy cũng là khi nhà tiểu thuyết chỉ ra cho độc giả của mình thấy: những hoang đường của văn học là có thật.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho ZNews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. ZNews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/nhung-hoang-duong-co-that-cua-van-hoc-post1446939.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng