Connect with us

Xuất Bản

Phát triển công nghiệp văn hóa trong thời đại mới

Được phát hành

,

Theo ông Nguyễn Thế Kỷ, để phát triển công nghiệp văn hóa, chúng ta cần xây dựng nền tảng từ văn hóa Việt Nam, nội lực Việt Nam và học tập kinh nghiệm của các nước bạn.

de cuong van hoa 1943 anh 1

PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học nghệ thuật Trung ương. Ảnh: M.H.

Nhân dịp kỷ niệm 80 năm ra đời Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943-2023) PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ – nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học nghệ thuật Trung ương – trao đổi về tầm quan trọng và tác động của Đề cương văn hóa 1943 tới nền văn hóa Việt Nam.

Trong đó, ông Nguyễn Thế Kỷ phân tích bối cảnh lịch sử ra đời, vai trò của văn kiện quan trọng này đồng thời chia sẻ tầm nhìn về cách chúng ta vận dụng những tư tưởng và giá trị cốt lõi của Đề cương văn hóa để phát triển nền văn hóa nước nhà trong thời đại mới – thời đại của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0).

Đề cương văn hóa là một bước vượt cần thiết

– Theo ông, Đề cương văn hóa Việt Nam (1943) ra đời có ý nghĩa như thế nào?

– Khi nói đến Đề cương văn hóa (1943), cần nhớ đến bối cảnh lịch sử nước ta và thế giới lúc đó. Đầu tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng. Ở Đông Dương, Toàn quyền Jean Decoux tập trung tấn công vào những người Cộng sản và các lực lượng tiến bộ. Hàng nghìn đảng viên cộng sản bị bắt, không khí rất ngột ngạt.

Đến khi Nhật vào Đông Dương tháng 9/1941, coi Pháp như tay sai của mình. Nhật vào Việt Nam bằng súng đạn, đồng thời, bằng cả vũ khí tâm lý chiến nhằm lừa mị dân ta, nhất là tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ, giới trẻ, đó là tầng lớp tinh hoa của Việt Nam. Chúng đề cao chiêu bài Đại Đông Á, thuyết “đồng văn đồng chủng”, đưa một số thanh niên sang du học ở Nhật (mục đích là để sau này phục vụ cho nước Nhật), tổ chức triển lãm, hội chợ, chiếu phim, đề cao văn hóa Nhật. Khi ấy, có một bộ phận thanh niên còn cạo trọc đầu theo Nhật, đua nhau học tiếng Nhật.

Về phía Pháp, thực dân Pháp cũng toan tính những thủ đoạn riêng, cả với Nhật, cả với chính phủ bù nhìn Nam Triều và nhân dân Việt Nam. Chúng cho một số người Việt thuộc giới thượng lưu nắm giữ chức vụ quan trọng để ràng buộc họ với mẫu quốc. Mở thêm một số ít trường cao đẳng (khoa học, kiến trúc, nông lâm…); lập Đông Dương học xá; lôi kéo, ru ngủ thanh niên xa rời những vấn đề cấp thiết của đất nước; rêu rao cái gọi là “Pháp – Việt phục hưng”; mua chuộc, đánh lạc hướng dân ta, nhất là giới trí thức, văn nghệ sĩ.

Đầu năm 1941, Bác Hồ về nước, Người chủ trì Hội nghị Trung ương 8, trong đó, Người nhận định mâu thuẫn lúc này là mâu thuẫn giữa dân tộc ta và phát xít Nhật-Pháp. Cuối tháng 2/1943, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp và chủ trương mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất nhằm chuẩn bị lực lượng trong nước, khi có thời cơ thì khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Thời cơ đó là khi Nhật Pháp mâu thuẫn về lợi ích cao độ sẽ cắn xé lẫn nhau.

Xuất phát từ tình hình trong nước như thế, Đảng ta cho rằng đã đến lúc phải ra sức tập hợp và đoàn kết nhân dân, đặc biệt là tầng lớp tinh hoa, phải làm sao để họ hiểu được bản chất, âm mưu xảo quyệt của Nhật và Pháp, sự lừa gạt và mua chuộc tinh vi của chúng, hướng dẫn nhân dân ta đi vào con đường sáng. Tổng Bí thư Trường Chinh khởi thảo Đề cương văn hóa Việt Nam (1943).

Lúc bấy giờ, Đề cương văn hóa, dù chỉ mới ở tầm mức “đề cương” nhưng đã chỉ rõ nguy cơ của nền văn hóa Việt Nam dưới ách đô hộ và tàn phá của phát xít Nhật, Pháp; phân tích mối quan hệ giữa cách mạng chính trị và cách mạng văn hóa; khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng văn hóa.

Đề cương văn hóa ra đời như một tiếng chuông cảnh tỉnh, một tia sáng soi rọi con đường, để tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ hiểu rõ tình hình thời cuộc trong nước và quốc tế, thấy được âm mưu, thủ đoạn lừa gạt của Nhật và Pháp và biết phải làm gì để bảo vệ đất nước, bảo vệ văn hóa.

Văn kiện này như là một cương lĩnh văn hóa; xác định nội dung, tính chất, tổ chức, định hướng phát triển của một cuộc cách mạng văn hóa chỉ có thể gắn với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và tương lai của nền văn hóa ấy sau khi cách mạng đã thành công.

– Nội dung, tính chất của nền văn hóa nước nhà khi ấy được Đề cương văn hóa xác định như thế nào, thưa ông?

– Đề cương văn hóa Việt Nam có 5 vấn đề chính: (I) Cách đặt vấn đề; (II) Lịch sử và tính chất nền văn hóa Việt Nam; (III) Nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách phát-xít Nhật, Pháp; (IV) Vấn đề cách mạng và văn hóa Việt Nam; (V) Nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa Mác-xít Đông Dương và nhất là những nhà văn hóa Mác-xít Việt Nam.

Đề cương xác định ba nguyên tắc: “Dân tộc hóa”, “Đại chúng hóa”, “Khoa học hóa”; khẳng định việc kế thừa, xây dựng và phát triển nền văn hóa hàng nghìn năm của dân tộc, tự tôn văn hóa dân tộc.

Đề cương văn hóa xác định xây dựng nền văn hóa Việt Nam (bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật) và sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thế giới.

Sự nghiệp văn hóa là của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng; tính chất nền văn hóa mới Việt Nam là dân tộc về hình thức, tân dân chủ về nội dung. Đề cương xác định ba nguyên tắc: “Dân tộc hóa”, “Đại chúng hóa”, “Khoa học hóa”; khẳng định việc kế thừa, xây dựng và phát triển nền văn hóa hàng nghìn năm của dân tộc, tự tôn văn hóa dân tộc, khắc phục tư tưởng tự ti; nâng cao lòng yêu nước, chí khí anh hùng, độc lập, tự do.

– Vậy, Đề cương văn hóa ra đời đã có tác động thế nào đến nền văn hóa, nghệ thuật lúc bấy giờ?

– Ở góc độ dân tộc hóa, Đề cương văn hóa đã giúp dân ta thức tỉnh trước chiêu trò của Pháp và Nhật, yêu quý văn hóa hàng nghìn đời của cha ông, phải luôn coi đó là gốc rễ, là nền tảng.

Ở góc độ khoa học hóa, nền văn hóa phải đạt tới sự tiến bộ, khoa học, ta tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại nhưng quan trọng hơn là phải kế thừa được tinh hoa văn hóa của cha ông. Đại chúng hóa là xác định văn hóa do quần chúng nhân dân sáng tạo nên, nhân dân cũng thụ hưởng những giá trị văn hóa cao đẹp, văn hóa, nghệ thuật phải vị nhân sinh. Người trí thức, văn nghệ sĩ cần đi vào đời sống, chiến đấu và cống hiến vì hạnh phúc của nhân dân.

– Trong Đề cương văn hóa có nói đến đấu tranh về học thuật và tông phái, sau này các nhà nghiên cứu có nhiều tranh luận về các nội dung này. Xin hỏi quan điểm của ông thế nào?

– Khi Tổng bí thư Trường Chinh soạn thảo Đề cương văn hóa, ông chưa thể nắm bắt đầy đủ, sâu sắc tình hình trong nước và thế giới, nhất là các vấn đề về tư tưởng, học thuật, về khuynh hướng và tông phái nghệ thuật. Điều này cũng dễ hiểu. Và do đó, sau này chúng ta nhìn nhận, đánh giá sự việc trên quan điểm lịch sử cụ thể; không nên lấy con mắt của bây giờ nhìn lại 80 năm trước phê phán một vài bất cập.

Nghiên cứu các vấn đề trong quá khứ, cần áp dụng quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Lấy tầm nhìn, cách nhìn hiện đại hôm nay để ngược về 80 năm trước, hiển nhiên là dễ nhận thấy những hạn chế khó tránh khỏi lúc trước.

Trong Đề cương, khi nói đến học thuật, đến tông phái, có chi tiết phê phán học thuyết Khổng Tử, Mạnh Tử, Descartes, Bergson, Kant, Nietzsche…; nói đến văn nghệ thì phê phán chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa tượng trưng cũng chỉ là đề cao chủ nghĩa hay xu hướng, khuynh hướng tả thực xã hội thắng.

Chúng ta cần hiểu rằng vào thời điểm đó, Đảng ta cần người dân thức tỉnh, muốn nghệ thuật phải bám vào hiện thực, phê phán chế độ phát xít, thực dân, phong kiến thối nát, tàn bạo. Chúng ta muốn trí thức, văn nghệ sĩ hiểu hiện trạng khổ đau của đất nước, để tập trung đấu tranh, hướng tới một xã hội tốt đẹp hơn.

Có thể liên hệ sau này, thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, văn học nghệ thuật ta phê phán chiến tranh phi nghĩa, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đề cao những chiến công, còn những mất mát, nhất là mất mát của bộ đội ta, ta phản ảnh có chừng mực.

Nhà văn Nam Hà từng viết “Xa nhau không hề rơi nước mắt / Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt”… Làm như vậy để không ảnh hưởng đến chí khí, tinh thần của nhân dân và bộ đội ta.

Đến sau năm 1975, văn học ta mới có những tác phẩm nói nhiều hơn, sâu hơn về những mất mát trong chiến tranh như Bến không chồng của Dương Hướng, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Chim én bay của Nguyễn Trí Huân; Bến đò xưa lặng lẽ của Xuân Đức; Lính trận của Trung Trung Đỉnh…; các trường ca Mở bàn tay gặp núi của Nguyễn Đức Mậu, Biển của Hữu Thỉnh; Sông Mê Kông bốn mặt của Anh Ngọc, Đổ bóng xuống Mặt trời của Trần Anh Thái……

Đề cương văn hóa của Đảng ra đời trước khi ta giành được chính quyền. Đó là một sự đi trước, một sự vượt trước sáng suốt và cần thiết. Ta hãy thử đặt câu hỏi: giả như không có Đề cương văn hóa (1943) để thức tỉnh nhân dân, tập hợp lực lượng đông đảo cho Mặt trận Việt Minh thì liệu ta có cách mạng thành công tháng tám năm 1945 hay không? Có thể sẽ muộn hơn, có thể sẽ không hào hùng và thành công toàn diện và vang dội như đã xảy ra trong lịch sử.

Tầm quan trọng của Đề cương văn hóa là ở chỗ đó. Suy cho cùng, hành động cách mạng phải bắt đầu từ nhận thức của người dân, của tầng lớp tinh hoa, tiến bộ. Dân chúng có thức tỉnh, mới đi theo Đảng để đánh đổ chế độ phát xít, thực dân, phong kiến.

de cuong van hoa 1943 anh 2

Hình ảnh trong Để Mị nói cho mà nghe – sản phẩm âm nhạc hiện đại sử dụng nhiều chất liệu văn hóa dân tộc. Ảnh: HTL.

Phát triển công nghiệp văn hóa từ nền tảng văn hóa Việt

– Đặt trong bối cảnh thời đại mới, chúng ta cần chiến lược gì để phát triển văn hóa?

– Bây giờ, chúng ta đang trong thời đại của cuộc cách mạng 4.0; thế giới đã có nhiều nước đi trước ta và Việt Nam ta cần tích cực, chủ động đón nhận, tận dụng lợi thế của cuộc cách mạng này, đẩy mạnh chuyển đổi số, sử dụng trí tuệ nhân tạo. Ngày nay, văn hóa số, kinh tế số, truyền thông số… lên ngôi. Chúng ta dứt khoát phải nắm bắt và làm chủ cuộc cách mạng này.

Trong bối cảnh mới, chúng ta sẵn sàng mở cửa với thế giới, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Cuộc cách mạng công nghiệp và công nghệ tạo tiền đề để các ngành văn hóa, văn nghệ phát huy tối đa sức sáng tạo, những phương thức biểu đạt mới và hiện đại chưa từng có trong lịch sử nhân loại, đặt ra cả cơ hội và thách thức trong quá trình lãnh đạo và quản lý văn hóa.

Ta cần nhìn nhận được cả mặt trái của nó. Đó là khi có người sử dụng công nghệ vào mục đích không tốt, mục đích phi văn hóa. Vì vậy, quan trọng là phải giáo dục cho mọi người, đặc biệt là giới trẻ, sao cho hướng đến những điều tốt đẹp. Khi con người có ý thức tự giác, ý thức chủ động, tích cực, họ sẽ tự biết cách loại bỏ những điều xấu.

– Thời gian gần đây, cụm từ “công nghiệp văn hóa” được nhắc đến rất nhiều. Theo ông, cần làm gì để phát triển công nghiệp văn hóa?

– Để phát triển công nghiệp văn hóa, chúng ta cần xây dựng nền tảng từ văn hóa Việt Nam, đồng thời học tập bài học thành công của các nước bạn.

Gần nhất, ta có thể thấy Hàn Quốc hoặc Nhật Bản, công nghiệp văn hóa của họ đi vào truyền thông, điện ảnh, âm nhạc, phát thanh, truyền hình, xuất bản, mỹ thuật, nhiếp ảnh, quảng cáo, thủ công mỹ nghệ, kiến trúc, thời trang, thiết kế đồ họa, phần mềm và các trò chơi trực tuyến, triển lãm, du lịch văn hóa…; đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm, dịch vụ văn hóa.

Ở nước ta, chúng ta cũng đang có những dấu hiệu phát triển văn hóa tích cực, có độ lan tỏa cao. Cách đây mấy năm, Hoàng Thùy Linh có bài hát múa Để Mị nói cho mà nghe, rất cuốn hút, gần đây lại có See tình, gây sốt ở nhiều quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ… Những hiện tượng như vậy, theo tôi, nhà nước có thể có chính sách ủng hộ, từ đó, quảng bá được nghệ thuật nước nhà, đem lại kinh tế cho cả nghệ sĩ và đất nước. Đây có thể là bước đầu cho công nghiệp âm nhạc, giải trí, nghệ thuật của Việt Nam.

Ngoài ra, điện ảnh cũng có thể phát triển thành một ngành công nghiệp, không những đem lại hiệu quả kinh tế mà còn quảng bá được văn hóa Việt Nam ra quốc tế một cách ấn tượng.

Rồi cả xuất bản, những cuốn sách tốt cần được dịch và bán ra nước ngoài, câu chuyện hay có thể chuyển thể thành kịch bản điện ảnh, từ đó, quảng bá được văn học Việt Nam, văn hóa Việt Nam.

Phát triển văn học, nghệ thuật đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xây dựng con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới là nhiệm vụ quan trọng.

Chúng ta cần tạo điều kiện cho sự tìm tòi, sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ để có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân tộc, dân chủ, tiến bộ, phản ảnh chân thật, sinh động, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước; đẩy mạnh sáng tác, quảng bá tác phẩm, công trình về đề tài cách mạng, kháng chiến, lịch sử dân tộc, công cuộc đổi mới đất nước, từ đó từng bước xây dựng hệ thống lý luận văn học, nghệ thuật Việt Nam.

Nguồn: https://zingnews.vn/phat-trien-cong-nghiep-van-hoa-trong-thoi-dai-moi-post1406877.html

Xuất Bản

Liên hoan Văn chương Hòa bình ở Khu Phi quân sự

Được phát hành

,

Bởi

Nhà văn là nhân chứng sáng suốt, là người tỉnh táo, đủ trí tuệ để ghi lại rất nhiều sự kiện xảy ra trong cuộc sống.

Le Minh Khue anh 1

Nhà văn được giải Nobel Svetlana Alexievich và nhà văn Lê Minh Khuê tại liên hoan.

Lịch sử chỉ nói được về sự kiện đó trong vài dòng. Nhưng nhà văn nhìn sự kiện đó thấu đáo thông qua các số phận, ghi chép lại cho các thế hệ tiếp theo.

Văn chương hòa bình ở thành phố sách Pazu

Từ nhiều năm nay, có rất nhiều cuộc gặp gỡ văn chương được Hàn Quốc tổ chức, quy tụ nhiều nhà văn ở các nước đến để dự liên hoan và hội nghị về các vấn đề lớn. Các nhà văn thường đại diện cho những vùng đất ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latin. Ít khi có khuôn mặt đại diện của châu Âu và Bắc Mỹ. Giáo sư Kim Jae Yong, người trong ban tổ chức các hội thảo nói với tôi: “Tôi thích đại biểu của châu Á, châu Phi và Mỹ Latin”.

Năm 2008, tôi được dự hội nghị có hàng trăm nhà văn nhiều màu da. Những cuộc gặp gỡ, những ý kiến khác nhau, nhiều tiếng nói của các miền đất. Nhưng cũng giống như các hội nghị trên thế giới, không ai biết người đang đối thoại của mình từng viết gì. Vui vẻ như vậy, và cũng biết là đã đến các cuộc gặp gỡ này thì ai cũng có “thành tựu” nào đấy, nhưng chẳng ai biết rõ về ai, cuộc sống, tài năng, công việc hàng ngày… Mà có lẽ như thế lại hay.

Nhìn thấy nhau đột nhiên thấy quý mến vì nụ cười, vì màu da, vì xa cách địa lý nhưng cũng có một công việc và cũng có sự quan tâm sâu sắc tới cuộc sống của đất nước mình.

Cuối tháng 11/2023, tôi được mời đến Liên hoan Văn chương Hòa bình ở Khu Phi quân sự DMZ (De-military Zone) do Quỹ văn hóa tỉnh Gyeong-gi chủ trì. Gyeong-gi là tỉnh lớn, một đơn vị hành chính rất quan trọng của Hàn Quốc, có 13 triệu dân, ở ngay cạnh Thủ đô Seoul. Liên hoan tổ chức ở thành phố xuất bản Pazu, nơi chỉ có các nhà xuất bản, và chỉ sách là sách. Khi nhận lời mời tôi nghĩ chắc liên hoan sẽ đặt trọng tâm vào vấn đề về chiến tranh. Chiến sự Nga – Ukraine đang ác liệt. Và từ mấy hôm trước chiến sự ở dải Gaza đang làm cả thế giới thấy bất an.

Đến dự liên hoan, người đầu tiên tôi chú ý nhìn là nhà văn Adania Shibli đến từ Palestine, một người phụ nữ gầy gò, khuôn mặt thông minh nhưng trông có gì đó như thảng thốt. Quê hương của cô ở dải Gaza đang hứng chịu bom đạn chết chóc, trẻ con chết hàng ngày. Tôi bắt tay cô, không nói với nhau được gì nhưng có vẻ cô thấu hiểu tình cảm của người chia sẻ.

Liên hoan có 12 tác giả nước ngoài và 38 tác giả Hàn Quốc, toàn người rất nổi tiếng. Sáu nhà văn trong ban tổ chức là các giáo sư kiêm tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà thơ. Giáo sư Kim Jae Yong rất bận rộn. Ông có những giờ giảng bài ở các trường đại học nên khi đến muộn, ông bắt tay tôi rất chặt. Chúng tôi quen nhau từ năm 2008 và khi tôi tới Hadong nhận giải thưởng văn học quốc tế mang tên văn hào Byeong-ju Lee, ở xa ông đã gọi điện chúc mừng.

Các nhà văn đến từ Nigeria, Ấn Độ, Tunisia, Peru, từ Đài Loan (Trung Quốc), Philippines, Nhật Bản đều ở độ tuổi từ 50 đến 70. Nhà văn da đen Niyi Osundare là người gốc Nigeria nhưng là công dân Mỹ, sống ở bang Louisiana. Ông cười cởi mở, thân thiện với tôi và hát một bài hát gì đó mà điệp khúc nhắc đi nhắc lại Việt Nam… Việt Nam. Ông hát say sưa và bảo với tôi: Đấy, người dân châu Phi rất yêu quý Việt Nam. Ông cùng tuổi với tôi, có ba người con trai, ông hay khoác tay tôi và bảo: Nào, các ông bà già hãy ngồi xuống! Rồi nhắc đi nhắc lại: Việt Nam – Mọi chuyện đều ổn!

Những khi như vậy lại cứ tiếc là chưa được đọc tác phẩm của họ. Cô gái người Philippines cũng vậy. Xinh đẹp, sinh động, tuổi chỉ hơn 40, cô hỏi tôi: Đột nhiên chị gặp tôi ở Hà Nội thì chị sẽ thế nào? Rồi cười tươi tắn bảo: Tôi sẽ tới Việt Nam!

Tham luận của các nhà văn đều hướng đến những vấn đề ở đất nước họ. Xung đột vùng đất, sắc tộc, cách để tồn tại ở một nơi xa lạ. Tôi nói đến những người mẹ trong chiến tranh Việt Nam. Giáo sư Kim Jae Yong bảo tham luận của tôi rất gần với tiêu chí của hội thảo. Thực ra ở Việt Nam đề tài chiến tranh gắn kết với cuộc đời của nhiều thế hệ, cho đến rất lâu sau chiến tranh vẫn chưa thể ra khỏi vùng đất mà nhà văn đề cập.

Trong bữa sáng ở khách sạn, Priya Basil, nhà văn gốc Ấn Độ hiện sống ở Đức có hỏi tôi: Thế khi tham gia chiến tranh chị sợ ai nhất? Cô ấy hỏi ai chứ không hỏi cái gì. Tôi bảo tôi sợ cái chết. Chị có căm thù người Mỹ không? Không. Lúc ấy thì không. Tôi chỉ sợ hãi. Sợ hãi choán hết tâm trí con người. Còn căm thù thì có. Nó tới dần dần. Qua nhận thức, qua thời gian.

Ở Khu Phi quân sự, biên giới giữa Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên, trong khi đứng bên này nhìn sang phía Bắc Triều Tiên, hôm ấy mù trời, không thấy rõ, chỉ thấy thấp thoáng cánh đồng lúa, nhà văn người Ấn Độ nhìn tôi cười: Việt Nam có hoàn cảnh như thế này lâu không? Tôi bảo hơn hai mươi năm. Anh ấy trầm ngâm: Ừ, cũng phải bao nhiêu xương máu…

Diễn đàn khơi gợi ký ức

Mọi người đều có vẻ cảm thông, chia sẻ với nhau. Nhất là khi lúc này bom đạn đang làm thế giới chao đảo, bất ổn. Các bản tham luận đều nói tới ước mong hòa bình cho các vùng đất. Bản tham luận của nhà văn đoạt giải Nobel nói rất nhiều đến ký ức chiến tranh, khi nước Pháp bị xâm chiếm và đội quân xâm lược có những lúc như muốn lấy lòng người dân. Tên lính Đức đưa cho tác giả, lúc ấy còn bé, mấy thanh sôcôla. Lát sau bà ngoại của ông phải giấu vứt đi, vì sợ bị đầu độc. Ông nói nhiều tới ký ức chiến tranh trong các buổi giao lưu, ông nhắc tới những cuộc đối đầu với quân Đức và ký ức bạo lực hầu như theo ông suốt đời.

Le Minh Khue anh 2

Các nhà văn quốc tế dự Liên hoan Văn chương Hòa bình ở Khu Phi quân sự DMZ Hàn Quốc, tháng 11.2023

Jean-Marie Gustave Le Clézio – một cái tên không xa lạ với độc giả Việt Nam. Tôi đã đọc tiểu thuyết Sa mạc của ông. Đọc các truyện ngắn. Đặc biệt là tiểu thuyết Sa mạc, rất khác với các tiểu thuyết có vẻ hơi nhẹ nhõm bóng bẩy ở một số nhà văn Pháp, tiểu thuyết của ông tràn đầy chi tiết, sự kiện, dày đặc tình huống về đời sống trên sa mạc, rất hấp dẫn và không dễ đọc. Ông là một trong ba nhà văn Pháp nổi tiếng, tiêu biểu, là người đã xuất bản trên 30 tác phẩm.

Le Clézio nhận giải Nobel Văn chương năm 2008. Trong lần đi thăm Khu Phi quân sự DMZ, nơi chia cắt hai miền Triều Tiên, ông ngồi giữa hai người phụ nữ, chắc một người là thư ký. Ông cao dong dỏng, thẳng thớm, rắn rỏi, dù đã ngoài 80. Trông ông rất trẻ. Chắc thời trẻ ông cực kỳ hấp dẫn. Tôi chỉ nói được với ông hai ba câu, nhờ Choi Hana dịch qua tiếng Anh. Tôi nói ở Việt Nam sách của ông nhiều người đọc nhất là thanh niên. Ông bình thản gật đầu. Tôi hỏi ông có đọc một vài nhà văn gốc Việt ở Pháp không. Ông bảo ông biết Linda Lê. Ông hỏi sách của tôi có được dịch ở Pháp không? Không, tôi chỉ được in sách ở Mỹ. Ông bảo sắp tới ông sẽ đi Mỹ, ông sẽ tìm đọc…

Tôi biết đó là điều không thể, vì ông hiếm thời gian, vì đi tìm một cuốn sách in đã lâu là điều không thể. Và vì sự quan tâm đến một nhà văn xa lạ cũng rất không thể. Nhưng tôi cảm động vì cách cư xử lịch sự của ông, nó gây nên thiện cảm, sự ấm áp và trân trọng… Những ngày ở Hàn Quốc, giữa các cuộc hội thảo và tham quan, Le Clézio rất trầm lặng, thậm chí có vẻ xa cách. Cũng không thấy nhà văn của nước nào ngồi trò chuyện với ông ngoài các cuộc hội thảo ông ngồi trên diễn đàn, trả lời vài câu hỏi, bàn tới vấn đề chiến tranh – hòa bình và điều ông nói trong hội thảo cũng như trong bản tham luận làm ta suy nghĩ.

Ông nói đến những bi kịch lớn của lịch sử thế giới, những cuộc chinh phục thuộc địa, sự tàn sát người vô tội ở châu Mỹ da đỏ, buôn bán nô lệ từ châu Phi, các cuộc chiến tranh thế giới… Không điều nào trong số đó bị văn chương ngăn chặn. Có lẽ đó không phải là vai trò của văn chương. Nhà văn không phải là nhà tiên tri hay nhà chính trị. Trên hết họ là nhân chứng… Tác phẩm của họ cộng hưởng, đôi khi khuếch đại những sự kiện xảy ra cùng thời với họ, nhưng chúng không ảnh hưởng đến tiến trình chung…

Người cùng ngồi trên diễn đàn với ông là bà Svetlana Alexievich, nhà văn người Belarus được giải Nobel Văn chương năm 2015. Tôi chú ý khuôn mặt hiền hậu của bà, nhưng cái vẻ không khoan nhượng của bà giống như một đặc điểm của các nhà văn nữ hay quan tâm đến các đề tài khó như chiến tranh, như chính trị và thuyết phục người đọc bằng quan điểm cứng rắn. Tôi chú ý tìm bà ngay từ đầu khi bà đi ra cùng hai cô thư ký. Tôi nói với bà: Tôi là nhà văn Việt Nam. Tôi đã trải qua chiến tranh.

Đôi mắt bà nhìn rất nhanh qua tôi. Như nắm bắt nhanh một ấn tượng. Cái nhìn vừa như muốn quen biết vừa như dò hỏi. Nhưng thiện cảm thì rất rõ. Chúng tôi bắt tay nhau nhưng nói chuyện lại khó. Bà nói tiếng Nga. Phải có một phiên dịch tiếng Anh biết tiếng Nga. Đành chỉ biết cười vậy!

Svetlana Alexievich gây ấn tượng với tôi từ lâu khi tôi đọc quyển Chiến tranh không có khuôn mặt phụ nữ của bà. Sách được ông Nguyên Ngọc chuyển ngữ thu hút người đọc Việt Nam hơn vì tác giả và dịch giả cùng trải qua chiến tranh, có sự đồng cảm lớn.

Trong quyển sách của bà có một chi tiết làm tôi xúc động ngay từ lần đọc đầu tiên. Một nhóm nữ du kích bị bọn Đức bắt giam. Những tên Gestapo độc ác. Một người phụ nữ có đứa con nhỏ hơn một tuổi chưa biết nói. Khi bọn lính lôi người mẹ đi, đứa trẻ lần đầu tiên trong đời hét lên: Mẹ!

Quyển sách sắp xuất bản của bà cũng thuộc thể loại văn xuôi phi hư cấu. […]

Rất nhiều câu chuyện Svetlana nói trên diễn đàn. Cuộc chiến đang diễn ra và chuyện của bà thu hút người nghe.

Những tác giả Nobel Văn chương đến Hàn Quốc là một sự kiện. Hội trường đông nghẹt người nghe. Buổi giao lưu quan trọng có vị phó tỉnh trưởng tỉnh Gyeong-gi cầm trịch. Vị quan chức của tỉnh là người rất am hiểu văn chương. Ông dẫn dắt, gợi ý, từ đại biểu đến thính giả đều như hướng về cách gợi mở của ông. Trong dàn người đông đúc khi chụp ảnh lưu niệm, ông nhìn về phía tôi rồi tiến tới hỏi tôi ở đâu. Tôi ở Việt Nam đến! Ông cười rạng rỡ, nói như chúc mừng: Chào Việt Nam!

Nhìn cách đón tiếp trân trọng, sự nể nang của mọi người mới thấy người được giải Nobel cực kỳ hạnh phúc. Những điều ông Le Clézio nói làm tôi vừa tâm đắc vừa lấy lại niềm tin vào công việc mà lâu nay mình đã xem nhẹ. Văn chương đích thực phải được nuôi dưỡng trong môi trường tương xứng. Không khí tinh thần ô nhiễm khiến người viết chán nản, tự rẻ rúng với nghề. Nhà văn ta cũng có nhiều sự đáng bị xem thường, nhưng nếu như cần lấy lại sự tôn trọng thì cần hiểu hơn nữa cái nghề mình theo.

Bởi theo nhà văn đoạt giải Nobel mà tôi gặp, văn chương không giúp ích trực tiếp cho bất kỳ một mặt nào của cuộc sống. Văn chương không ngăn cản được chiến tranh, không ngăn cản được đói nghèo, không làm dịu được sự phẫn nộ của thiên nhiên. Nhưng nhà văn là nhân chứng sáng suốt bậc nhất, là người tỉnh táo, đủ trí tuệ để ghi lại rất nhiều sự kiện xảy ra trong cuộc sống. Lịch sử chỉ nói được về sự kiện đó trong vài dòng. Nhưng nhà văn nhìn sự kiện đó thấu đáo thông qua các số phận, ghi chép lại cho các thế hệ tiếp theo.

Nhà văn – có lẽ cũng là người cần thiết.

Nguồn: https://znews.vn/lien-hoan-van-chuong-hoa-binh-o-khu-phi-quan-su-post1453329.html

Tiếp tục đọc

Xuất Bản

Những dự án lan tỏa tình yêu sách

Được phát hành

,

Bởi

Không chỉ đầu tư nâng cao chất lượng sách, các đơn vị xuất bản còn tổ chức nhiều hoạt động nhằm lan tỏa tình yêu sách, góp phần xây dựng thói quen đọc.

Du an tang sach anh 1

“Chia sẻ yêu thương – Chào xuân mới” là chương trình Nhà xuất bản (NXB) Phụ nữ Việt Nam phối hợp cùng Ban Quản lý Phố sách Hà Nội và Câu lạc bộ Gia đình người tự kỷ Hà Nội tổ chức trong tuần này với mong muốn đáp ứng mong ước của các gia đình có con tự kỷ là được đưa con ra phố, để con mình vào nhịp sống thường nhật, và có một ngày hội để con được biểu diễn, được xem các tiết mục văn nghệ, được gặp gỡ nhau.

Ngày hội ấy còn là dịp để các phụ huynh và các giáo viên làm việc trong lĩnh vực giáo dục trẻ đặc biệt có cơ hội gặp gỡ, chia sẻ thông tin, hỗ trợ và động viên nhau.

Đây chỉ là một trong số nhiều hoạt động vì cộng đồng mà NXB Phụ nữ Việt Nam tổ chức thường xuyên trong nhiều năm qua như đưa sách về vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, tặng sách đến các không gian đọc cộng đồng và các không gian đọc do những người khuyết tật quản lý, tổ chức các buổi trò chuyện chuyên đề và trao tặng sách tới các trại giam.

Đại diện NXB cho biết những năm gần đây, trung bình mỗi năm NXB Phụ nữ Việt Nam tổ chức khoảng 50 sự kiện khuyến đọc. Năm 2022, một Quỹ sách Cộng đồng cũng đã được NXB Phụ nữ Việt Nam cho ra mắt, từ đó nhận được sự đồng hành của nhiều cá nhân, tổ chức để có được nhiều chương trình trò chuyện khuyến đọc và tặng sách tới cộng đồng.

Điểm đặc biệt, không chỉ khuyến đọc ở vai trò của một đơn vị xuất bản mà nhiều cán bộ của NXB Phụ nữ Việt Nam cũng luôn mang trong mình một tình yêu với sách và truyền lửa đọc ấy đến xung quanh. Như một cán bộ truyền thông của NXB Phụ nữ Việt Nam đã thành lập Quỹ Khuyến đọc trong nhóm facebook “Mạng lưới cha mẹ” với mong muốn quyên góp sách tặng của nơi có sách tới nơi cần sách, quyên góp tiền ủng hộ mua sách, giá sách, các trang thiết bị liên quan tới việc đọc sách, và góp phần thúc đẩy văn hóa đọc trong cộng đồng.

Hướng tới cộng đồng bằng Quỹ Chibooks Kết nối yêu thương, năm vừa qua Công ty sách Chibooks hoạt động mạnh mẽ với dự án xây dựng 300 tủ sách thư viện miễn phí vào các trường học trên cả nước, từ tiểu học, THCS, THPT đến các trường cao đẳng, đại học. Đây là dự án đã được triển khai từ năm 2011 đến nay với tổng kinh phí ước tính 12 tỷ đồng nhằm nâng cao ý thức đọc sách trong cộng đồng. Đọc sách để chúng ta thêm hiểu và yêu thương con người, mở rộng cánh cửa tâm hồn ra với thế giới xung quanh. Chibooks mong muốn dự án sẽ lan tỏa ảnh hưởng sâu rộng về ý thức đọc sách đến học sinh từ tiểu học, THCS, gieo mầm tìm hiểu, khát khao khám phá, mở rộng trí tưởng tượng và tri thức cho các em thông qua sách vở.

Dịch giả Nguyễn Lệ Chi, Giám đốc Công ty sách Chibooks, cho biết: “Riêng năm 2023, Quỹ Chibooks Kết nối yêu thương đã trao tặng 32 tủ sách thư viện với 14.242 bản sách, tổng trị giá trên 1,61 tỷ đồng, trong đó gồm 14 tủ sách thư viện cho các trường học và trao tặng sách tới 18 thư viện cộng đồng, 15 thư viện của 15 nhà văn hóa bản”.

Với hoạt động tặng sách cho học sinh tại các trường học ở những nơi chưa đủ điều kiện để thiết lập tủ sách, chương trình “Sách đến tay em” là một trong những Dự án của Câu lạc bộ Vườn yêu thương Thái Hà được triển khai từ cuối tháng 7/2022. Bên cạnh đó, Thái Hà books cũng tổ chức nhiều chương trình khuyến đọc như “Tết sách”, “Sách đồng hành cùng sinh viên”, “ATM sách miễn phí – phiên bản 2”, “Đổi sách lấy cây – gây quỹ khuyến đọc”…

Omega Plus books chọn hướng đi là hỗ trợ xây dựng tủ sách cộng đồng cho các doanh nhân muốn xây dựng thư viện cho cộng đồng, doanh nghiệp, cho các cá nhân, nhóm muốn xây dựng thư viện cho gia đình, quê hương, dòng họ, thư viện cho bệnh viện hay thư viện cho trường học… Danh mục sách là các tác phẩm kinh điển, nền tảng do Omega Plus books tuyển chọn và xuất bản ở nhiều chủ đề khác nhau từ lịch sử Việt Nam, lịch sử thế giới, chính trị, kinh tế, khoa học vật lý, văn học thiếu nhi, giáo dục, y học, nghệ thuật, âm nhạc…

Với NXB Kim Đồng, hoạt động khuyến đọc và trao tặng sách được tổ chức thường xuyên, liên tục như chương trình “Một triệu cuốn sách cho trẻ em nghèo”, tặng tủ sách cho các trường học ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, cho cộng đồng trẻ em nghèo người Việt tại nước ngoài – những nơi còn khó khăn, không có điều kiện tiếp cận với sách vở, tài liệu trong nước; bảo trợ, thường xuyên tặng sách cho các thư viện, không gian đọc.

Mỗi đơn vị chọn một cách làm riêng nhưng điểm chung là đều hướng đến vì cộng đồng, đặc biệt với những cộng đồng còn khó khăn, nhằm mang tri thức đến với lớp trẻ, lan tỏa tình yêu sách và góp phần xây dựng thói quen đọc.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho ZNews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. ZNews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/nhung-du-an-lan-toa-tinh-yeu-sach-post1454645.html

Tiếp tục đọc

Xuất Bản

‘Hồn Trương Ba da hàng thịt’ – Một cách tiếp cận thế hệ công chúng mới

Được phát hành

,

Bởi

Kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Tsuyoshi Sugiyama là sự tiếp cận ráo riết thế hệ người xem mới, song gây ra tiếng thở dài cho phần công chúng còn luyến nhớ những mẫu mực.

Hon Truong Ba anh 1

Đạo diễn người Nhật Bản Tsuyoshi Sugiyama từng gây được dư luận ở Việt Nam với cách xử lý độc đáo hai vở kịch kinh điển Cậu Vanya (Anton Chekhov) và Hedda Gabler (Henrik Ibsen) ở Nhà hát Tuổi Trẻ. Lần này, vẫn với tư duy sân khấu độc đáo đó, anh mang đến cho bản dựng Hồn Trương Ba da hàng thịt nhiều nét lạ.

Một tổng thể những nét lạ

Cái lạ đầu tiên là hóa trang và trang phục. Tất cả nhân vật đều ăn mặc khá hiện đại và có phần được Nhật hóa. Vợ chồng con cái nhà Trương Ba như những người nông dân đâu đó bên nước Nhật. Vợ anh hàng thịt, đặc biệt là đám tiên nữ nhà trời, không khác gì những vũ nữ tân thời trong một màn tạp kỹ (nói như một ông quan thiên đình trong kịch “thiên đình gì mà như cái chợ”, thì ở bản dựng này thiên đình gì mà như sân khấu tạp kỹ). Hai ông quan liêu tùy tiện ở thiên đình là Nam Tào Bắc Đẩu trang phục như công chức, nhưng được phân biệt với người hạ giới bằng cách đội trên đầu cặp sừng trâu và sừng dê, vừa như quỷ sống vừa như đám đầu trâu mặt ngựa.

Các nhân vật phần nhiều mang điểm nhấn hóa trang bôi mặt trắng như kiểu kịch Nô của Nhật, cũng có khi là những vạch vằn vện kiểu tuồng Tàu hoặc thổ dân đâu đó. Hóa trang và phục trang gây không khí Nhật hóa và gợi liên tưởng một câu chuyện dân gian không chỉ riêng một đất nước nào.

Cái lạ nữa là đạo diễn chuyển đổi giới tính cho một số nhân vật. Đế Thích cao cờ không phải là phi giới tính như cách thể hiện của nghệ sĩ Trần Tiến trong bản dựng đầu tiên gần bốn chục năm trước, mà là một… bà, bà tiên Đế Thích.

Lý trưởng bê bối tham nhũng ngày trước là nghệ sĩ Phạm Bằng thì nay là một người đàn bà, một bà có chức có quyền và cũng không hẳn là giới tính nữ. Một số nền văn minh cổ coi thần thánh mang trong mình cùng lúc nhiều giới tính, và kẻ tham nhũng trong kịch này có lẽ cũng đa sắc như vậy.

Đạo diễn dụng công tạo ra những mảng miếng lạ, chẳng hạn trong vở Cậu Vanya, ông để cho nghệ sĩ Lê Khanh và các diễn viên khác lăn lộn trong nhem nhuốc cát bụi. Cát thật. Cát mịt mù trên sân khấu. Còn ở Hồn Trương Ba da hàng thịt, lối sử dụng các nguyên vật liệu làm đạo cụ vẫn còn đó. Cái chậu tiết anh hàng thịt hất văng ra nhuộm đỏ một mảng sân khấu. Cốc nước của bà quyền chức cũng màu máu. Xô nước mà người con dâu hắt vào cái hồn-Trương-Ba-da-hàng-thịt để thức tỉnh phần hồn ông Trương Ba cũng là… nước thật.

Đạo diễn không ngần ngại để cho nước lênh láng trên sàn diễn, mà theo một quan niệm sân khấu nào đó thì không nhiều mỹ cảm. Nhưng chỉ có cách tự lý giải: đó là chủ ý của riêng đạo diễn Tsuyoshi Sugiyama. Các động tác lên thiên đình xuống trần gian của Đế Thích và bà vợ Trương Ba là ước lệ không gian kiểu chiếu chèo nhưng cũng là phép ước lệ của sân khấu dân gian nhiều nước.

Cuộc giằng co giữa thể xác hàng thịt và linh hồn của Trương Ba được cụ thể bằng một vật kết nối như sợi dây thừng, lại cũng như những khúc dồi hoặc dây xúc xích của anh hàng thịt. Ấy vậy, người xem vừa tưởng như có thể kết luận rằng sử dụng ước lệ và biểu tượng là căn tính của đạo diễn thì lại va ngay vào những động tác hình thể quá cụ thể như động chạm cầm nắm sờ soạng. Diễn viên đã làm thật, như có dụng ý bác bỏ ước lệ mà khẳng định họ đang làm dạng kịch truyền hình trong nhà ngoài phố.

Nhiệt tình mang đến cái lạ cũng có thể đã làm cho kịch thiếu đi những khoảng lặng, những phút lắng lại, trầm sâu trong tâm tưởng và gieo vào người đọc những cảm xúc mà kịch bản đã sẵn có. Những yếu tố kỹ thuật tân thời và sự mải mê thủ pháp mảng miếng lạ có khi đã khiến cho kịch thiên về tính kỹ nghệ và duy lý.

Hon Truong Ba anh 2

Tạo hình tiên Đế Thích và bà vợ Trương Ba trong vở kịch. Ảnh: Se sẽ chứ.

Chiến trường của linh hồn và thể xác

Dù có tránh bớt liên tưởng đến cây cao bóng cả, thì cũng thấy sau mấy thế hệ của sân khấu kinh điển như Trọng Khôi, Mỹ Dung, Trần Tiến, Lan Hương (Quắm), Phạm Bằng… truyền thống dựng kịch kinh điển duy mỹ có thể đã dừng lại sau thế hệ của những Lê Khanh, Ngọc Huyền, Chí Trung, Anh Tú (và Thành Lộc ở Sài Gòn)…

Trong tình thế hiện nay, chạm đến những vở kịch kinh điển giàu tính biểu tượng và ẩn dụ, đạo diễn vẫn phải thỏa hiệp với lớp diễn viên mới để làm nên một thứ “tân cổ giao duyên” – chỉ nói về nghệ thuật diễn xuất. Phải chấp nhận pha trộn giữa động tác hình thể cách điệu và cách diễn tả thật, pha trộn lối diễn xuất giữa sân khấu và phim truyền hình. Đến thế mới thấy diễn viên đóng vai hồn-Trương-Ba-da-hàng-thịt nỗ lực rất nhiều mà cái gánh nặng ấy vẫn là quá sức.

Diễn viên không làm cho người xem thấy được cơn vật vã giằng giật của hồn bên trong xác, một khi hình thể khô cứng thiếu sinh sắc. Đài từ các diễn viên vốn quen được hỗ trợ khuếch âm của các phương tiện âm thanh hiện đại, khi bị khước từ dùng micrô, phải dùng giọng mộc, dùng âm thanh gốc, thì nỗi hoang mang không tự tin vào giọng mình bộc lộ qua những phát âm nhả chữ thiếu tròn vành, thậm chí nhiều khi díu và dính, nhòe và hụt hơi.

Trở lại với cách xử lý của đạo diễn. Kết thúc vở kịch, hồn ông Trương Ba chấp nhận cái chết và anh hàng thịt được sống lại. Đạo diễn Nguyễn Đình Nghi khi xưa đã để cho anh ta vùng dậy, nhìn quanh rồi thô lỗ quát mắng cô vợ – ngựa quen đường cũ, thói xưa khó bỏ.

Nhưng đạo diễn Tsuyoshi Sugiyama đã xử lý cách khác. Không chỉ ông Trương Ba chết, tất cả nhân vật từ anh hàng thịt, vợ chồng con cái nhà anh cho đến gia đình Trương Ba và bạn bè, cả tiên nữ và Đế Thích đều đi những bước giật lùi, họ đi ngược không gian và thời gian, để rồi tất thảy cùng đổ xuống, cùng lăn ra chết. Mới trước đó các nhân vật còn luận về chuyện hồn nọ xác kia, hồn không cần cậy nhờ cái xác, xác cũng chẳng phải mượn hồn, giờ thì hồn nào xác nào cũng chết. Tại sao vậy? Rằng không phải chỉ có một ông Trương Ba mới phải mượn thể xác người khác? Có khi cả thế gian này đều là hồn nọ xác kia, chẳng có ai được nguyên vẹn là mình, có khi ai ai cũng đều là những thực thể lắp ghép, để mà sống với đời?

Trên cái thế gian mà hóa ra chẳng có ai nguyên vẹn, chỉ còn lại một nhạc công ôm cây đàn ghi ta, đi như trên một bãi chiến trường sau trận đấu hồn và xác. Anh ta cũng là người dẫn chuyện bằng âm thanh trong suốt vở diễn. Và những âm thanh cuối cùng được cất lên, có thể là khúc cầu siêu, cũng có thể là khúc hoan ca.

Ở bản Hồn Trương Ba da hàng thịt của Tsuyoshi Sugiyama, đài từ và hình thể của các diễn viên nếu đạt chuẩn kịch kinh điển, sẽ chuyển tải nội dung trọn vẹn, và cái trải nghiệm sân khấu lạ lùng này sẽ thật sự là cách xử lý sân khấu kinh điển có ý nghĩa cho người xem hôm nay.

Tất nhiên sự tiếp cận ráo riết thế hệ người xem mới sẽ gây ra tiếng thở dài cho phần công chúng còn luyến nhớ những mẫu mực. Nhật hóa và quốc tế hóa một vở kịch Việt như vậy, không chỉ vì đạo diễn Nhật Bản nhớ quê hương, mà biết đâu Tsuyoshi Sugiyama cũng mong một ngày nào đó bản dựng này sẽ đến với người xem ở quê hương anh và cả đâu đấy bên ngoài đất Việt.

Hồn Trương Ba da hàng thịt, kịch của Lưu Quang Vũ, đạo diễn: Tsuyoshi Sugiyama, sản xuất: Nguyễn Hoàng Điệp, diễn viên của nhiều nhà hát: Chiều Xuân, Kim Oanh, Xuân Tùng, Hương Thủy, Hoàng Tùng, Mạnh Hoàng, Thanh Lê, Hirota, Trường Khang… Ba buổi công diễn tác phẩm diễn ra từ 12 đến 14/1 tại rạp Công Nhân, Hà Nội.

Nguồn: https://znews.vn/hon-truong-ba-da-hang-thit-mot-cach-tiep-can-the-he-cong-chung-moi-post1454673.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng