Connect with us

Sách hay

Mối liên hệ giữa triết học và khoa học

Được phát hành

,

Theo nhà sử học Will Durant, nếu khoa học mà không có triết học, thông tin thực tế mà không có tầm nhìn và sự đánh giá, con người sẽ không thể tránh khỏi sự tàn hoại và tuyệt vọng.

Cau chuyen triet hoc anh 1

Bức họa Trường Athena (1509-1511) mô tả các triết gia Hy Lạp cổ đại nổi tiếng của họa sĩ Raphael.

Triết học và khoa học có vẻ là hai lĩnh vực không mấy liên quan đến nhau. Trong khi khoa học là lĩnh vực gắn liền với những điều chắc chắn, những khám phá đã được công nhận, thì triết học đầy suy niệm khiến người ta bối rối, nơi mà bất cứ câu trả lời nào cũng chẳng thể làm vừa lòng tất cả các triết gia.

Tuy vậy, sự khác nhau đó không thể phủ nhận mối liên hệ mật thiết của hai lĩnh vực này. Trên thực tế, những triết gia đầu tiên cũng là các nhà khoa học. Theo nhà sử học người Mỹ Will Durant trong tác phẩm Câu chuyện triết học, “mọi môn khoa học đều bắt đầu với tư cách triết học và kết thúc với tư cách nghệ thuật”.

Nhiệm vụ của triết học là đương đầu với những vấn đề mà các phương pháp khoa học chưa xử lý được – những vấn đề như thiện và ác, đẹp và xấu, quy củ và tự do, sống và chết… – để khi những tri thức đó được định hình một cách bài bản và chính xác, nó sẽ được gọi là khoa học.

Sự khởi đầu của triết học phương Tây

“Triết học bắt đầu khi người ta học được cách nghi ngờ – đặc biệt là nghi ngờ những niềm tin, giáo lý, và chân lý mà người ta trân quý”, một nhà tiên tri ở Delphi đã tuyên bố. Làm thế nào mà những niềm tin được trân quý này trở thành những điều hiển nhiên với chúng ta, và biết đâu một niềm thôi thúc bí mật nào đó đã ngấm ngầm tạo ra chúng, choàng lên cho chúng vỏ bọc của tư duy?

Sau khi cuộc chiến Sparta và Athens kết thúc vào khoảng năm 490-470 TCN, Athens đã biến hạm đội của mình thành một đội thương thuyền và trở thành một trong những thành phố giao thương vĩ đại nhất thế giới cổ đại. Những bến cảng và khu chợ sầm uất trở thành nơi gặp gỡ của nhiều chủng người, tín ngưỡng và phong tục khác nhau, và những sự tiếp xúc lẫn đối địch giữa những yếu tố này dẫn đến sự so sánh, phân tích, tư duy.

Giữa những trung tâm của sự thông giao đa dạng như vậy, sự va chạm giữa các truyền thống và giáo lý bắt đầu, như Will Durant nói: “Ở nơi nào có hàng nghìn đức tin, chúng ta sẽ có xu hướng nghi ngờ tất cả những đức tin ấy”.

Cau chuyen triet hoc anh 2

William James Durant là một nhà sử học, triết gia và tác giả người Mỹ, đoạt giải Pulitzer cho tác phẩm phi hư cấu năm 1968. Ảnh: quotecollection.

Có lẽ những thương nhân là những nhà hoài nghi đầu tiên vì họ đi và tiếp xúc nhiều, trong khi khuynh hướng chung của thương nhân khiến họ có chiều hướng đặt nghi vấn đối với mọi tín ngưỡng. Dần dần, họ cũng phát triển khoa học: toán học phát triển để phục vụ việc trao đổi hàng hóa, thiên văn học phát triển trong những chuyến đi biển. Về sau, sự gia tăng của của cải đem đến sự an nhàn và an toàn, tức những điều kiện tiên quyết cho việc nghiên cứu và tư biện. Người ta giờ đây không chỉ dò xét những ngôi sao để biết được đường khi đi biển, mà còn để tìm một câu trả lời cho những câu đố của vũ trụ, vì thế mà những nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp là các nhà thiên văn học.

Theo Will Durant, khi con người đã trở nên đủ táo bạo để thử giải thích các quá trình và sự kiện bằng cách xem chúng là hiện tượng tự nhiên, ma thuật và nghi thức dần nhường chỗ cho khoa học, sự kiểm tra và triết học bắt đầu từ đây. Ban đầu, triết học này mang tính vật lý. Nó xem xét thế giới vật chất, đi tìm thành tố cuối cùng không thể chia nhỏ hơn nữa của vạn vật. Kết quả của quá trình ban đầu này là thuyết duy vật của Democritus về các nguyên tử và không gian.

Những triết gia đầu tiên là những người đặt nghi vấn về bất cứ thứ gì, bao gồm cả những điều cấm kị tôn giáo hoặc chính trị. Nhìn chung, triết học bao gồm năm lĩnh vực nghiên cứu chính, bao gồm: logic học, mỹ học, đạo đức học, chính trị học, và siêu hình học. Logic học là môn học bàn về phương pháp lý tưởng trong tư duy và nghiên cứu. Mỹ học là bộ môn nghiên cứu hình thức lý tưởng, hay cái đẹp, là triết học của nghệ thuật. Đạo đức học là bộ môn nghiên cứu hành vi lý tưởng, là tri thức về thiện và ác, tri thức về trí tuệ của cuộc sống. Chính trị học là bộ môn nghiên cứu cách tổ chức xã hội lý tưởng. Và cuối cùng, siêu hình học là bộ môn nghiên cứu “thực tại tối hậu” của vạn vật: của bản chất thực sự và chung đích của “vật chất”, “tâm trí” và mối quan hệ qua lại giữa “tâm trí” và “vật chất” trong các quá trình của tri giác và nhận thức.

Khoa học cho ta tri thức; triết học cho ta trí tuệ

Nhiều người có thể cho rằng triết học không có nhiều tính ứng dụng bởi sự mơ hồ và phức tạp của nó. Cicero – nhà hùng biện nổi tiếng thời La Mã – nói: “Không có thứ gì kỳ quặc như những thứ người ta có thể tìm thấy trong những cuốn sách của các triết gia”.

Việc phân tích thuộc về khoa học, và nó cho chúng ta tri thức; triết học phải mang đến một sự tổng hợp trí tuệ.

Will Durant

Will Durant cho rằng vẫn có những triết gia xa rời tư duy thông thường. Tuy nhiên, triết học vẫn là động lực và nền tảng để con người đạt được trí tuệ? “Khoa học dường như luôn tiến lên, trong khi triết học có vẻ luôn thụt lùi. Ấy thế nhưng nguyên nhân của việc này chỉ là: triết học chấp nhận một nhiệm vụ khó khăn và đầy rủi ro – nhiệm vụ đương đầu với những vấn đề mà các phương pháp khoa học chưa xử lý được; chẳng mấy chốc, với tư cách một lĩnh vực nghiên cứu tạo ra tri thức có khả năng được định hình một cách bài bản và chính xác, nó sẽ được gọi là khoa học”, ông viết.

Khoa học là vùng lãnh thổ đã được khám phá, nơi mà tri thức và nghệ thuật đến gần hơn với cuộc sống của chúng ta. Triết học thì dường như luôn đứng yên trong mơ hồ, nhưng thực chất trái ngọt của nó đã được chuyển đến cho khoa học, trong khi triết học bước tiếp “trong trạng thái bất mãn một cách thần thánh, sang những thứ chưa ngã ngũ và chưa được khám phá”.

Bởi vì bản chất của khoa học là sự mô tả mang tính phân tích, còn triết học là diễn giải mang tính tổng hợp. Khoa học phân tách thế giới này thành các phần, sinh thể thành các bộ phận, cái mù mờ mơ hồ thành cái rõ ràng. Tuy nhiên, khoa học không tìm hiểu về giá trị và các khả thể lý tưởng của vạn vật, cũng không tìm hiểu về tầm quan trọng một cách toàn diện và tối hậu của sự vật, đó là công việc của triết học.

Vai trò của triết học ngày nay

Nếu khoa học cho chúng ta biết cách để hành động, thì triết học có nhiệm vụ đánh giá, điều hướng hành động đó. Chẳng hạn, khoa học có thể làm giảm tỷ lệ tử vong ở quy mô đơn lẻ, nhưng nó cũng có thể gây ra cái chết ở quy mô hàng loạt trong chiến tranh nếu thiếu đi sự suy xét đúng – sai, thiện – ác. Will Durant cho rằng bên cạnh khoa học, chúng ta luôn cần có triết học để biết khi nào nên chữa lành, và khi nào nên loại bỏ.

“Khoa học mà không có triết học, thông tin thực tế mà không có tầm nhìn và sự đánh giá, tất cả đều sẽ không thể cứu vớt chúng ta khỏi sự tàn hoại và tuyệt vọng. Khoa học cho chúng ta tri thức, nhưng chỉ triết học mới có thể cho chúng ta trí tuệ”, ông viết.

Cau chuyen triet hoc anh 3

Tác phẩm Câu chuyện triết học lần đầu tiên được dịch trọn vẹn sang tiếng Việt năm 2022. Ảnh: N. N.

Theo tác giả, khoa học giúp quan sát những quy trình và xây dựng phương tiện, trong khi triết học phê phán và điều phối mục tiêu. Vai trò của cả hai không thể tách rời, nhất là trong thời đại tri thức của nhân loại đã trở nên quá mức đồ sộ đối với trí tuệ con người. Ngày nay các phương tiện và công cụ của con người đã nhân lên nhiều lần, vượt quá khả năng diễn giải và tổng hợp các lý tưởng và mục tiêu của chúng ta.

Đó là lý do sau khi Câu chuyện triết học của Will Durant được xuất bản vào năm 1926, doanh số của các tác phẩm triết học kinh điển đã tăng gấp đôi. Và trong nhiều năm sau đó, nhu cầu đọc triết học cũng ngày càng nở rộ và gia tăng nhanh chóng.

Will Durant thẳng thắn nhận định cuốn sách này không phải là một lịch sử triết học hoàn chỉnh. Tác phẩm là một nỗ lực để nhân văn hóa tri thức bằng cách đưa những nhân vật chủ đạo của nền triết học phương Tây vào vị trí trung tâm của câu chuyện. Ông hy vọng sẽ có lúc việc nghiên cứu quá trình nhận thức được công nhận là việc của khoa học tâm lý, và khi đó triết học sẽ một lần nữa được hiểu là sự diễn giải mang tính tổng hợp về tất cả mọi kinh nghiệm, hơn là việc mô tả mang tính phân tích về phương thức và quá trình của chính kinh nghiệm.

“Trong ta luôn có chút gì đó đầy khao khát còn sót lại của cuộc đeo đuổi trí huệ thuở ban đầu ấy. Phần lớn cuộc đời chúng ta là vô nghĩa, một sự phù du và dao động được cấu thành từ những thứ triệt tiêu lẫn nhau; chúng ta nỗ lực với sự hỗn loạn xoay quanh chúng ta và bên trong ta; nhưng chúng ta sẽ tin rằng luôn có một thứ gì đó tối quan trọng và đáng kể bên trong ta, chúng ta chỉ có thể giải mã linh hồn của chính mình”, ông viết.

Nguồn: https://zingnews.vn/moi-lien-he-giua-triet-hoc-va-khoa-hoc-post1398161.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng