Connect with us

Tác giả

Diễn từ Nobel của Annie Ernaux

Được phát hành

,

Trong diễn từ Nobel ngày 7/12 Annie Ernaux chia sẻ niềm tự hào về giải thưởng với những người đang hướng đến tự do, bình đẳng và phẩm giá cao đẹp của nhân loại.

tac gia doat giai anh 1

Bắt đầu từ đâu bây giờ? Tôi đã tự hỏi mình câu này hàng chục lần, mắt nhìn chăm chăm vào tờ giấy trắng. Có lẽ tôi cần một câu, một câu duy nhất – một chiếc chìa khóa – để mở đường cho cuốn sách và loại bỏ mọi ngờ vực ngay lập tức. Sau cơn choáng ngợp ban đầu với câu hỏi như: “Có thật là tôi đoạt Nobel không?”, thì hôm nay, tôi đối mặt với tình huống mà cứ mỗi lúc trí tưởng tượng của tôi lại reo thêm chút e ngại, đồng thời nhận thức rõ về sự cần thiết của việc này. Tôi cứ tìm câu mở đầu cho bài diễn từ, câu mở đầu sẽ cho tôi tự do và sự vững vàng để nói mà không run tại nơi tôi được mời tới.

Nhưng tôi chẳng phải tìm đâu xa. Câu mở đầu tự nảy lên trong tôi. Rõ ràng và dữ dội. Thơ ca tụng ngọc. Không thể phủ nhận. Tôi đã viết câu này vào nhật ký từ 60 năm trước. Tôi sẽ viết để trả thù cho cộng đồng mình. Một vọng âm từ lời của Rimbaud: “Tôi là một chủng tộc thấp kém từ muôn thuở”.

Tôi đã hai mươi hai. Tôi là sinh viên khoa Văn của một trường tỉnh, trong đám trai gái chúng tôi, nhiều người thuộc tầng lớp tiểu tư sản địa phương. Tôi tự hào và ngây thơ tin rằng viết sách, trở thành nhà văn, trở thành cuối cùng trong hàng ngũ những người lao động không có đất, công nhân nhà máy và chủ cửa hàng – những người bị coi thường về cách cư xử, giọng nói, sự thiếu giáo dục của họ – sẽ đủ để tôi khắc phục sự bất công giữa các tầng lớp xuất thân trong xã hội.

Tôi những tin rằng một chiến thắng cá nhân có thể xóa bỏ hàng thế kỷ thống trị và nghèo đói. Đây là ảo tưởng mà, nhờ thành tích học tập của tôi, trường học đã nuôi dưỡng trong tôi. Làm thế nào mà những thành quả của một cá nhân có thể phần nào chuộc lại những sự sỉ nhục và hành vi tội lỗi? Tôi chưa từng tự đặt mình câu hỏi đó. Và tôi có một vài lời bào chữa.

Kể từ khi tôi biết đọc, sách đã trở thành người bạn đồng hành của tôi. Đọc sách trở thành hoạt động ngoại khóa tự nhiên đối với tôi. Gu thưởng thức này được nuôi dưỡng bằng bàn tay của một người mẹ – một người mẹ đứng giữa những khách hàng trong tiệm cà phê tư, đọc nhiều tiểu thuyết và thường khuyến khích tôi đọc sách thay vì đan len và may vá. Giá thành cao, cộng với cái cách mà mọi người nghi ngờ việc đọc trong các trường công giáo, khiến sách vở càng trở nên cuốn hút đối với tôi. Don Quixote, Gulliver du ký, Jane Eyre, Truyện cổ Grimm và Andersen, David Copperfield, Cuốn theo chiều gió, rồi Những người khốn khổ, Chùm nho thịnh nộ, Buồn nôn, Người xa lạ. Tôi đọc một cách ngẫu nhiên, không theo chỉ dẫn nào từ trường học.

Bằng cách chọn nghiên cứu văn học, tôi đã chọn sống trong văn chương, điều này có giá trị lớn đối với tôi, thậm chí trở thành một lối sống khiến tôi lao mình vào những trang sách của Flaubert hay Virginia Woolf và sống cùng chúng theo đúng nghĩa đen. Văn học là một loại lục địa mà tôi vô thức đặt ở vị trí đối lập với môi trường xã hội của mình. Và tôi quan niệm viết chính là biến đổi hiện thực.

Tác phẩm đầu tay của tôi là một tiểu thuyết được viết với mục đích kiếm tìm một hình thức văn chương mới. Cuốn sách bị 2-3 nhà xuất bản từ chối nhưng không vì thế mà niềm khát khao và tự hào của tôi bị khuất phục. Chính hoàn cảnh sống nơi sức nặng của những khác biệt trong trải nghiệm sống của nữ giới và nam giới mới khiến tôi phiền lòng.

Xã hội đã thấm nhuần những vai trò xác định theo giới tính; cái xã hội đã cấm những biện pháp tránh thai và kết tội hành vi phá thai. Là người đã có chồng và hai con, làm việc trên giảng đường và việc nhà toàn thời gian, cứ mỗi ngày tôi lại rời xa cái ham muốn được viết và được báo thù cho cộng đồng mình một chút. Tôi không thể đọc phần Trước pháp luật trong tác phẩm Vụ án của Kafka mà không nhìn thấy thân phận mình trong ấy: chết mà chưa từng bước vào cánh cổng dành cho mình, chưa từng dấn thân vào cuốn sách mà chỉ mình tôi mới viết được.

Đó là còn chưa tính đến những tác động như hoàn cảnh riêng và những sự kiện lịch sử. Cái chết của cha tôi, người mất đúng 3 ngày sau khi tôi về thăm nhà trong một kỳ nghỉ; công việc dạy học tiếp xúc với những học sinh xuất thân từ tầng lớp lao động, một gia cảnh từa tựa như mình; các phong trào biểu tình từ khắp nơi: những yếu tố này đưa tôi trở lại với “cộng đồng” của tôi, qua những cung đường khó lường nhưng lại rất gần với gốc gác của tôi. Chúng mang đến cho tôi khát vọng bí hiểm và cấp bách: khát vọng viết.

Chẳng còn cái ảo tưởng được viết vô tư lự của những năm đôi mươi, giờ đây tôi muốn đi sâu vào những điều không thể kể xiết trong ký ức bị kìm nén, đưa ra ánh sáng cái cách cộng đồng tôi sống. Viết để hiểu những lý do, cả nội tâm lẫn ngoại tâm, đã khiến tôi xa rời gốc gác của mình.

Khi viết, chẳng có lựa chọn nào là hiển nhiên. Nhưng những người, như dân nhập cư, không còn nói ngôn ngữ của cha mẹ họ là những người, như kẻ đào ngũ, nói, nghĩ và biểu hiện với ngôn từ khác và đối mặt với những rào cản khác. Tiến thoái lưỡng nan. Họ thực sự cảm thấy khó khăn, thậm chí không thể viết bằng thứ ngôn ngữ phổ biến họ đã được dạy, thứ mà họ đã thành thạo và ngưỡng mộ trong các tác phẩm văn học, hay bất cứ thứ gì liên quan đến cái gốc gác của họ, thế giới đầu tiên của họ, được tạo nên từ những cảm giác và từ ngữ mô tả cuộc sống thường nhật, công việc, địa vị xã hội.

Một mặt là thứ ngôn ngữ đặt tên cho mọi thứ, với sự tàn bạo và thầm lặng riêng, như ngôn ngữ trao đổi thân mật giữa người mẹ và đứa con trai trong bài viết rất hay của Albert Camus, Giữa có và không. Mặt khác là những hình mẫu của các tác phẩm được nội tâm hóa, được ngưỡng mộ, đã mở ra “thế giới đầu tiên” cho độc giả (hẳn những tác phẩm ấy phải cảm thấy mắc nợ vì đã nhờ có thứ ngôn ngữ ấy mà chúng được nâng tầm, có khi còn là chất liệu chính tạo nên một tác phẩm).

Những tác phẩm có kiểu ngôn ngữ này mà tôi đã đọc gồm có Flaubert, Proust, Virginia Woolf. Khi tôi quay lại với việc viết, không ai trong số các tác giả này giúp ích được gì cho tôi. Tôi đã phải đoạn tuyệt với việc “viết hay”, với những câu văn đẹp (chính tôi cũng đã dạy học sinh mình viết kiểu này) để giải quyết tận gốc, bộc lộ và hiểu được những vết nứt chạy dọc người tôi.

Điều đến với tôi một cách tự nhiên là âm thanh của thứ ngôn ngữ truyền đạt vẻ tức giận và chế nhạo, thậm chí thô lỗ; một ngôn ngữ thái quá, nổi loạn, thường được sử dụng trong nhóm người bị sỉ nhục và bị xúc phạm, được sử dụng như phản ứng duy nhất họ có để chống lại ký ức về sự khinh miệt của người khác, về sự xấu hổ và nỗi xấu hổ khi cảm thấy xấu hổ.

tac gia doat giai anh 2

Một vài tác phẩm nổi bật của Annie Ernaux. Ảnh: NYT.

Rất nhanh chóng và dường như hiển nhiên, đến mức tôi không thể tưởng tượng nổi cách nào khác để đặt bút, tôi viết ra những câu chuyện về những rạn nứt trong cuộc sống xã hội của tôi, đặt trong những tình huống tôi từng trải qua khi còn là một sinh viên, một tình huống mà nước Pháp thấy thật đáng tởm. Đất nước này vẫn lên án phụ nữ vì đã có nhu cầu phá thai và phải tìm đến những kẻ hành nghề chui. Tôi muốn mô tả mọi thứ đã xảy ra với cơ thể thiếu nữ của tôi. Và từ đây, không lường trước được, cuốn sách đầu tay xuất bản năm 1974 đã vạch ra lĩnh vực mà tôi sẽ gieo mầm ngòi bút của mình vào, một lĩnh vực vừa xã hội vừa nữ quyền. Kể từ khi ấy, trả thù cho thế hệ và cho giới tính của tôi hợp thành một nhiệm vụ chính.

Làm sao người ta có thể suy ngẫm về cuộc sống mà không suy ngẫm về việc viết lách? Không băn khoăn liệu chữ viết củng cố hay phá vỡ những biểu tượng đã được chấp nhận, được nội tâm hóa về các sinh vật và sự vật? Với tính chất bạo lực và chế giễu của nó, chẳng phải văn phong của phe nổi dậy đã phản ánh thái độ của những người bị thống trị hay sao? Khi độc giả được hưởng những đặc quyền văn hóa, người đó sẽ duy trì một cái nhìn áp đặt và trịch thượng đối với một nhân vật trong sách như cách anh ta sẽ làm trong đời thực.

Do đó, ban đầu, để trốn tránh những ánh nhìn kiểu ấy, khi tôi hướng ngòi bút vào cha mình, tôi đã áp dụng một kiểu viết trung lập, khách quan, cuốn “phăng” theo cái nghĩa là không chứa ẩn dụ hay cảm xúc. Cảm xúc bạo liệt không còn trình diện mà được khơi gợi một cách tự nhiên từ chính sự thật chứ không phải từ văn bản. Việc tìm kiếm những từ chứa đựng cả thực tế và cảm giác do thực tế mang lại trở thành mối quan tâm thường xuyên của tôi khi viết, bất kể chủ đề là gì.

Tôi thấy cũng cần thiết phải tiếp tục sử dụng chủ thể “tôi”, nói một cách văn vẻ là sử dụng ngôi thứ nhất số ít, cái ngôi mà chúng ta tồn tại từ khi biết nói cho đến khi chết (theo hầu hết ngôn ngữ). Ngôi kể này khi mà được áp vào chính tác giả chứ không phải nhân vật hư cấu thì thường bị coi là mang tính ái kỷ.

Nên nhớ rằng cái ngôi kể “tôi”, cho đến nay vẫn là đặc quyền của giới quý tộc kể lại những chiến công trong các hồi ký. Vào thế kỷ XVIII, nước Pháp đã có một cuộc chinh phục dân chủ để khẳng định quyền bình đẳng của các cá nhân và quyền trở thành chủ đề trong câu chuyện của họ, như Jean-Jacques Rousseau đã tuyên bố trong phần mở đầu cuốn Tự thú: “Và đừng ai phản đối rằng, là một công dân, tôi không có gì để nói mà đáng được độc giả quan tâm. […] Dù có thể tôi đã sống một số phận nhỏ bé, nếu tôi tư duy nhiều hơn và hay hơn các vị Vua, thì câu chuyện về tâm hồn tôi sẽ thú vị hơn cả câu chuyện của họ”.

Không phải niềm tự hào bình dân này đã thúc đẩy tôi (mặc dù, đã nói rằng…), mà là mong muốn sử dụng cái “tôi” – một hình thức vừa nam tính vừa nữ tính – như một công cụ khám phá, ghi lại những cảm giác mà ký ức đã chôn vùi, những cảm xúc mà thế giới quanh ta vẫn không ngừng chia sẻ mọi lúc, mọi nơi. Điều kiện tiên quyết của cảm giác đối với tôi vừa trở thành kim chỉ nam vừa trở thành cam kết cho tính xác thực với nghiên cứu của tôi.

hưng để làm gì? Không phải để kể câu chuyện về cuộc đời tôi hay để giải phóng bản thân khỏi những bí mật riêng tư mà để giải mã một tình huống sống, một sự kiện, một mối quan hệ lãng mạn. Từ đó, câu chuyện tiết lộ một điều gì đó mà chỉ có viết lách mới có thể tạo ra, có thể truyền vào ý thức và ký ức của người khác.

Ai có thể nói rằng tình yêu, nỗi đau, nỗi tiếc thương, sự xấu hổ, không phổ biến? Đại văn hào Victor Hugo đã viết: “Không ai trong chúng ta có vinh dự được sống một cuộc đời chỉ của riêng mình”. Nhưng vì mọi thứ đều được sống một cách không lay chuyển trong trải nghiệm cá nhân – “điều này đang xảy ra với tôi” – chúng chỉ có thể được đọc giống nhau nếu cái “tôi” của cuốn sách trở nên trong suốt (trở nên trung tính) và cái “tôi” của người đọc lĩnh hội được nó.

Đó là cách tôi xây dựng bản cam kết viết lách riêng, không viết “cho” một loại độc giả nhất định, mà viết “từ” kinh nghiệm cá nhân với tư cách một phụ nữ, một người nhập cư-nội địa; từ ký ức ngày càng dài của tôi về những năm tháng tôi đã sống cũng như từ hiện tại, một nguồn cung vô tận những hình ảnh và lời nói của người khác.

Cam kết viết lách này được củng cố với niềm tin (nay đã trở nên chắc chắn) rằng một cuốn sách có thể góp phần thay đổi cuộc sống cá nhân, giúp phá vỡ nỗi cô đơn của những trải nghiệm chịu đựng và kìm nén, đồng thời giúp con người nhìn nhận lại chính mình. Khi điều không thể nói ra được đưa ra ánh sáng, nó trở thành chính trị.

Ngày nay, chúng ta thấy nhiều phụ nữ đã nổi dậy. Họ đã tìm ra ngôn từ để phá vỡ quyền lực của nam giới và như ở Iran, họ nổi dậy chống lại hình thức cổ xưa nhất của quyền lực nam giới. Tuy nhiên, khi viết ở một đất nước dân chủ, tôi tiếp tục băn khoăn về vị trí của phụ nữ trong lĩnh vực văn học. Họ vẫn chưa đạt được tính hợp pháp với tư cách là nhà sáng tạo của các tác phẩm viết.

Có những người đàn ông trên thế giới, bao gồm cả giới trí thức phương Tây, đối với họ, những cuốn sách do phụ nữ viết đơn giản là không tồn tại; họ không bao giờ trích dẫn các tác giả nữ. Việc Viện hàn lâm Thụy Điển công nhận tác phẩm của tôi là một dấu hiệu đầy hy vọng cho các nhà văn nữ.

Khi làm sáng tỏ những điều không thể nói ra được của xã hội, về những mối quan hệ quyền lực được nội tâm hóa liên quan đến giai cấp và/hoặc thế hệ, cả giới tính, chỉ được cảm nhận bởi những người đã trực tiếp trải nghiệm tác động của chúng. Đó là khả năng giải phóng cá nhân mà cả tập thể xuất hiện. Giải mã thế giới thực bằng cách tước bỏ nó khỏi tầm nhìn và giá trị của (mọi) ngôn ngữ chính là đảo lộn trật tự đã được thiết lập cho ngôn ngữ, đảo lộn các thứ bậc của ngôn ngữ.

Nhưng tôi không nhầm lẫn tuyên ngôn chính trị của tác phẩm với những lập trường mà tôi cảm thấy bắt buộc phải thực hiện đối với các sự kiện, xung đột và ý tưởng. Tôi thuộc thế hệ hậu chiến, sau Thế chiến thứ II, khi các nhà văn và trí thức đặt mình vào vị trí có quan hệ mật thiết với nền chính trị Pháp và tham gia vào các cuộc đấu tranh xã hội như một lẽ tất nhiên.

Ngày nay, không thể nói liệu mọi thứ có khác đi hay không nếu họ không lên tiếng và cam kết. Trong thế giới đương đại, nơi mà sự đa dạng của thông tin và tốc độ hình ảnh vụt qua khiến cho con người có vẻ thờ ơ thì việc tập trung vào nghệ thuật của một cá nhân trở nên đáng chú ý.

Trong khi đó, ở châu Âu, một hệ tư tưởng thoái lui và “đóng” đang phát triển, dần giành được chỗ đứng ở các nước dân chủ. Hệ tư tưởng lâu nay được thành lập dựa trên việc loại trừ người nước ngoài và dân nhập cư, bỏ rơi nhóm yếu kinh tế, giám sát cơ thể phụ nữ. Hệ tư tưởng này đòi hỏi những người tin vào quyền bình đẳng phải đề cao cảnh giác.

Bằng cách trao cho tôi danh hiệu văn học cao quý nhường này, một ánh sáng rực rỡ đang rọi vào công việc viết lách và nghiên cứu, loại việc được thực hiện trong cô đơn và nghi ngờ. Ánh sáng này không làm tôi lóa mắt. Tôi không cho rằng giải Nobel được trao cho tôi là một chiến thắng cá nhân. Tôi coi đây là một chiến thắng tập thể, không phải vì tự hào hay khiêm tốn.

Tôi chia sẻ niềm tự hào về nó với những người đang hướng đến tự do, bình đẳng và phẩm giá cao hơn cho mọi người, bất kể giới nào, màu da nào và văn hóa nào; và với những người còn nghĩ cho thế hệ tương lai, nghĩ đến việc bảo vệ Trái Đất này, nơi một số kẻ hám lợi đã khiến cuộc sống ngày càng trở nên khó khăn hơn.

Nếu tôi nghĩ lại về lời hứa năm đôi mươi, lời hứa sẽ trả thù cho cộng đồng mình, tôi không thể nói rõ liệu tôi đã thành công hay chưa. Chính từ lời hứa này, và từ tổ tiên của tôi, những người chăm chỉ, quen với những công việc khiến họ phải chết sớm, mà tôi đã nhận được đủ sức mạnh và cơn tức giận để có khát khao và tham vọng dành cho họ một vị trí trong văn học.

Tôi đã viết trong sự đồng hành của tập thể những diễn ngôn, đã được phép tiếp cận những thế giới khác, những cuộc đời khác, được hiểu cách chống đối và hiểu nỗi ham muốn thay đổi, để khắc ghi diễn ngôn của tôi với tư cách là một phụ nữ, một kẻ đào tẩu xã hội, vào không gian mang tính giải phóng của văn chương.

Nguồn: https://zingnews.vn/dien-tu-nobel-cua-annie-ernaux-post1383026.html

Tác giả

Để dòng chảy văn hóa đọc luôn được khơi thông, tiếp nối

Được phát hành

,

Bởi

Khẳng định sách có vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa, Phó thủ tướng Trần Lưu Quang nói cần tiếp tục tạo môi trường thuận lợi nhất để khuyến khích mọi người đọc sách.

Zing News giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Phó thủ tướng Trần Lưu Quang tại lễ khai mạc Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam lần thứ hai, chiều 21/4.

Hôm nay, chúng tôi rất vui mừng khi đến tham dự Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam lần thứ hai tổ chức tại thành phố Huế, một vùng đất có nhiều truyền thống lịch sử và rất đậm đà bản sắc Việt Nam. Tôi nhiệt liệt chào mừng và thân ái gửi đến quý vị đại biểu và các vị khách quý tham dự lễ khai mạc, cũng như bạn đọc cả nước lời chúc mừng tốt đẹp nhất.

Truyền thống hiếu học, trọng sách của dân tộc ta

Thưa quý vị đại biểu, khách quý và bạn đọc cả nước! Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nói về vai trò của sách đã nhấn mạnh: “Bất luận làm công việc gì cũng cần phải đọc sách. Người mới học chữ cần đọc để không mù lại, người làm công an cần đọc để nắm tình hình. Những người làm công việc chuyên môn cần phải đọc để nâng cao trình độ. Người làm quản lý lãnh đạo cần phải đọc để quản lý, lãnh đạo tốt hơn. Làm nhà báo, nhà văn lại càng phải đọc”.

Cách đây hơn 2 thế kỷ, đại thi hào Nguyễn Du, danh nhân văn hóa thế giới từng khẳng định: “Sách vở đầy bốn vách / Có mấy cũng không vừa”.

Những lời khẳng định này đã phần nào đúc kết được truyền thống hiếu học, trọng sách của dân tộc ta.

Để tiếp tục khẳng định vai trò của sách và đẩy mạnh phát triển văn hóa đọc trong đời sống cộng đồng, ngày 24/2/2014, Thủ tướng đã ban hành Quyết định số 284/QĐ-TTg lấy ngày 21/4 hàng năm là Ngày Sách Việt Nam.

Thời gian qua, Ngày Sách Việt Nam đã ngày càng khẳng định được ý nghĩa, vị trí, vai trò, nhiệm vụ và từng bước đi lên một tầm cao mới. Cụ thể là năm 2021, Thủ tướng đã ban hành Quyết định số 1862/QĐ-TTg, lấy ngày 21/4 hàng năm là Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam.

Thực hiện các Quyết định của Thủ tướng, những năm qua, cả hệ thống chính trị, các bộ, ngành, cộng đồng, địa phương, các nhà xuất bản, các đơn vị phát hành, các thư viện và những doanh nghiệp, cá nhân đã nhiệt tình tham gia hưởng ứng Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam, giúp cho công tác xuất bản có bước phát triển nhanh, làm cho văn hóa đọc có sự tiến bộ đáng được ghi nhận.

Phong trào đọc sách, tặng sách đã đến được nhiều nơi trên cả nước, góp phần thực hiện nhiệm vụ mà Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu rõ tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021: “Phải tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là ‘nền tảng tinh thần’, ‘động lực phát triển’, và ‘soi đường cho quốc dân đi’; phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng, tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc”.

Vai trò trung tâm của sách trong đời sống

Năm nay, tại thành phố Huế, trung tâm văn hóa đặc sắc của cả nước, vùng đất giàu tính lịch sử, nơi hội tụ nhiều di sản văn hóa giá trị của Việt Nam, lễ khai mạc Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam lần thứ hai cùng Hội sách chào mừng đã được các đơn vị phối hợp tổ chức trang trọng, đảm bảo xứng tầm với sự mong đợi của bạn đọc trong cả nước.

Sự kết hợp giữa nét văn hóa truyền thống cùng yếu tố hiện đại là một cách để chúng ta tôn vinh sách và khẳng định vai trò trung tâm của văn hóa đọc.

Phó thủ tướng Trần Lưu Quang

Sự kết hợp hài hòa giữa những nét văn hóa truyền thống cùng những yếu tố hiện đại là một cách để chúng ta tôn vinh sách và khẳng định vai trò trung tâm của văn hóa đọc trong đời sống văn hóa để dòng chảy văn hóa đọc luôn được khơi thông, tiếp nối.

Chúng tôi tin tưởng rằng các chuỗi hoạt động và sự kiện chào mừng Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam lần thứ hai được tổ chức hôm nay và trong những ngày tới tại thành phố Huế cũng như khắp mọi miền Tổ quốc sẽ thực sự phát huy nét đẹp văn hóa truyền thống: Tôn vinh sách và những người làm sách, phát triển phong trào đọc sách.

Chúng tôi đề nghị cả hệ thống chính trị các cấp, các bộ ngành, cộng đồng, địa phương luôn quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các đơn vị xuất bản phát triển theo hướng tinh gọn, chất lượng và hiện đại hóa; đề nghị Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp, tập trung đẩy mạnh phát triển văn hóa đọc, đưa sách vào cộng đồng; các bộ, ngành, địa phương tích cực lồng ghép văn hóa đọc trong tất cả phong trào như: Xây dựng văn hóa, khuyến học…; tiếp tục tạo môi trường thuận lợi nhất để khuyến khích mọi người tham gia viết sách, đọc sách nhằm tạo ra tác phẩm tốt, làm phong phú thêm nguồn sách; tôn vinh các tác giả, văn nghệ sĩ, những tấm gương vì cộng đồng đã đưa sách, văn hóa đọc đến với mọi người, mọi nhà.

Nhân dịp này, đề nghị Bộ Ngoại giao, các tổ chức người Việt Nam ở nước ngoài tăng cường cả sự gắn kết, làm cầu nối cho hành trình Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam lan tỏa đến bà con người Việt đang ở xa Tổ quốc nhưng rất gần về tâm hồn và văn hóa của quê cha đất mẹ Việt Nam.

Một lần nữa, xin được thay mặt Chính phủ, xin chúc các vị đại biểu, khách quý và bạn đọc luôn hạnh phúc và nhiều niềm vui!

Chúc Ngày sách và Văn hóa đọc Việt Nam lần thứ hai và các hoạt động chào mừng trên cả nước thành công tốt đẹp!

Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam lần thứ hai khai mạc ngày 21/4 tại Bảo tàng lịch sử Thừa Thiên – Huế, kéo dài đến hết ngày 25/4. Trong khuôn khổ chương trình, bên cạnh hội sách, còn có nhiều sự kiện đáng chú ý như: Tọa đàm “Chuyển đổi số trong hoạt động xuất bản và nền tảng hỗ trợ xuất bản, phát hành” sáng 22/4; tọa đàm “Dư luận nữ quyền tại Huế xưa và nay” chiều 22/4; tọa đàm giới thiệu sách “Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc trong tiến trình đổi mới xây dựng đất nước phồn vinh hạnh phúc” sáng 23/4…

Nguồn: https://zingnews.vn/de-dong-chay-van-hoa-doc-luon-duoc-khoi-thong-tiep-noi-post1424222.html

Tiếp tục đọc

Tác giả

Hiểu về ngành xuất bản qua ‘Những con chữ ngoài trang sách’

Được phát hành

,

Bởi

Ông Trần Đình Ba, tác giả sách “Những con chữ ngoài trang sách”, nhận định rằng in ấn, xuất bản thời nay đã là thời của khoa học công nghệ; các hoạt động cũng được chuyên môn hóa.

Trần Đình Ba là tác giả đã có những tác phẩm nghiên cứu ấn tượng như Việt án – Lần theo trang sử cũ, Đằng sau mặt báo – Hồi ký chân dung báo chí Việt buổi ban đầu đến 1945.

Với kinh nghiệm nghiên cứu lịch sử của mình, kết hợp cùng hiểu biết của một người làm trong ngành xuất bản (là một trong những người làm xuất bản tiêu biểu trong dịp kỷ niệm 70 năm ngành Xuất bản, in và phát hành Việt Nam), ông đã thực hiện cuốn sách Những con chữ ngoài trang sách, trưng ra những mảnh nhỏ về in ấn, xuất bản và phát hành sách từ khi có kỹ thuật in chữ rời người Pháp du nhập đến 1945.

Trao đổi với Zing, tác giả chia sẻ về quá trình nghiên cứu, thu thập tư liệu, đồng thời cung cấp góc nhìn đối chiếu, so sánh xuất bản xưa và nay.

Nỗi tò mò từ khi ngồi trên ghế nhà trường

Điều gì khiến ông nghiên cứu về sách vở, xuất bản giai đoạn trước 1945?

– Lý do thì rất nhiều. Trước hết thời gian nửa cuối thế kỷ XIX đến 1945 có nhiều tác giả, tác phẩm hay, nổi tiếng, để lại dấu ấn lớn trong sự phát triển văn học, lịch sử và nói chung là văn hóa Việt Nam một thời như Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh…

Ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta đã được đọc nhiều tác phẩm liên quan của Hồ Biểu Chánh, Khái Hưng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… nhưng số đó còn quá ít so với kho tàng đồ sộ họ để lại.

Đó là lý do thôi thúc tôi phải tìm đọc thêm và không chỉ ở mảng văn học, mà những tác phẩm lịch sử, địa chí của Diệp Văn Kỳ, Đặng Thúc Liêng, Cao Hải Để, Đào Trinh Nhất, Ngô Vi Liễn, Huỳnh Thị Bảo Hòa…

Thêm nữa, sách vở, hoạt động xuất bản thời gian nửa cuối thế kỷ XIX đến 1945 hiện nay lưu trữ, còn lại không đầy đủ. Hoạt động xuất bản thời gian này rất ít sách viết. Chẳng hạn sách Lịch sử xuất bản sách Việt Nam năm 1996, nội dung dành cho thời gian cuối thế kỷ XIX đến 1945 chỉ hơn 40 trang, không bao quát được diện mạo xuất bản thời gian đó và chỉ tập trung mảng xuất bản.

con chu ngoai trang sach anh 1

Tác giả Trần Đình Ba. Ảnh: Thanh Trần.

Việc cần có tài liệu tìm hiểu, bổ khuyết một mảnh nào đó cho hoạt động in ấn, xuất bản, phát hành sách từ khi có kỹ thuật in chữ rời của phương Tây du nhập vào theo bước chân người Pháp cho đến 1945, là rất cần thiết không chỉ đối với người trong nghề nói riêng, mà cả với độc giả nói chung.

Qua đó, chúng ta hình dung rõ hơn về in ấn, xuất bản, phát hành sách ở Việt Nam trong một khoảng thời gian gần cả 100 năm còn chưa có nhiều người tìm hiểu hệ thống.

Tất nhiên, để thực hiện được một tác phẩm thiên về in ấn, xuất bản, phát hành như thế, cần nhiều thời gian, công sức và nhất là nguồn tài liệu liên quan.

Lợi thế của tôi là người làm trong nghề, hiểu biết mức độ nhất định về lĩnh vực này. Trước khi thực hiện tác phẩm này, tôi đã dành thời gian rảnh rỗi ít ỏi có được để đọc, gạn lọc, tìm hiểu, viết bài đăng liên quan đăng rải rác ở các báo, tạp chí: Thanh niên, Phụ nữ TP.HCM, Pháp luật TP.HCM, Văn nghệ TP.HCM, Zingnews… Trong đó có những chuỗi bài dài kỳ “Phía sau trang sách”, “Mở trang sách cũ”.

Từ một dung lượng nội dung nhất định đã thực hiện rời rạc, tôi tạo động lực cho bản thân xây dựng đề tài, dựng khung đề cương và từ đó viết, bổ sung để tạo thành tác phẩm Những con chữ ngoài trang sách.

Ông đã thu thập, tìm kiếm tài liệu về tiến trình phát triển của ngành xuất bản như thế nào?

– Tư liệu cho đề tài có hai nguồn chính.

Một nguồn là ghi chép, hồi ký, hồi ức của những người thời ấy hoặc liên quan Trương Vĩnh Ký, Hồ Biểu Chánh, Đặng Thúc Liêng, Vũ Bằng, Ngọc Giao, Nguyễn Công Hoan, Vũ Ngọc Phan, Đào Duy Anh, Hồ Hữu Tường… Những hồi ký, hồi ức đó đề cập nhiều đến hoạt động báo chí và xuất bản sách dù chỉ viết xen lẫn vào trong hồi ký của họ.

Bên cạnh đó là báo chí khắp ba kỳ cuối thế kỷ XIX cho đến 1945 thỉnh thoảng vẫn đề cập đến xuất bản sách hay giới thiệu sách mới như Thông loại khóa trình (Sự loại thông khảo), Nam Kỳ, Dân báo, Nông cổ mín đàm, Công luận báo, Phong hóa, Điễn tín, Tràng An báo, Sài Gòn

Từ những sách hồi ký, hồi ức mà bản thân có được, cũng như nguồn file báo chí liên quan tiếp cận được, tôi lần về những tài liệu sách vở liên quan được họ đề cập.

Nhưng trong khi sử dụng tài liệu, tôi cũng phải vất vả để đối sánh giữa ghi chép trong hồi ký, hồi ức theo trí nhớ của người liên quan với thực tế đã xảy ra. Vì có những ghi chép các tác giả nhầm thời gian, sự kiện hoặc nhầm tên tác giả, tác phẩm.

Chẳng hạn Nguyễn Công Hoan nhớ tác phẩm Thế lực Khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ của Đào Trinh Nhất là do nhà in Nghiêm Hàm thực hiện, nhưng thực tế là do Nhà in Thụy Ký in năm 1924; hay cuốn Loạn Thái Nguyên của Trần Huy Liệu in năm 1935, trong khi bản thân ông lại nhớ nó ra đời sau khi Tiếng vang làng báo đình bản, mà Tiếng vang làng báo đình bản năm 1936…

Ngoài nguồn nguồn tư liệu trên, thì quan trọng hơn nữa phải có tài liệu thực chứng là chính những sách đã được xuất bản.

Bản thân tôi hay tìm tư liệu để phục vụ công việc biên tập, đối sánh việc sử dụng tài liệu tham khảo, trích dẫn của các tác giả cũng như có nguồn tài liệu sử dụng viết báo (Nhờ nguồn ebook có được từ Thư viện quốc gia Pháp, Thư viện quốc gia Việt Nam và nhiều nguồn khác với khoảng 2 vạn tài liệu khác nhau, trong đó một lượng lớn là những sách xuất bản 1945 trở về trước); nên khi triển khai đề tài này, mình có thể đọc được những tài liệu liên quan đó để dẫn chứng.

Nhưng với quỹ thời gian hạn hẹp, cũng như viết dạng khái quát theo chủ đề, nên không thể nào bao quát hết được tất cả sách, tài liệu liên quan mà tôi được tiếp cận, đó là chưa kể còn thiếu rất nhiều tác giả, tác phẩm mà bản thân chưa thể tiếp cận. Trong tác phẩm Những con chữ ngoài trang sách, tôi chỉ có thể điểm qua được vài trăm đầu sách cùng các tác giả liên quan trong đời sống xuất bản thời gian đó.

Trong quá trình nghiên cứu, có điểm gì về ngành xuất bản ông cảm thấy đặc biệt thú vị?

– Một cách bao quát và chung nhất, thì ngành nào cũng có những nét riêng biệt làm nên đặc trưng so với ngành nghề khác. Hoạt động xuất bản cũng vậy.

Những điểm thú vị nếu gạn lọc, tôi có thể là nói đến những nét riêng nho nhỏ, khác biệt của xuất bản 1945 về trước như việc in giá trên bìa 1, có sách đưa cả mục lục hoặc yếu mục lên bìa 1; hay không như bây giờ có trang lưu chiểu ghi rõ người chịu trách nhiệm xuất bản, biên tập, dàn trang, vẽ bìa và số lượng in, đơn vị in… thời đó trang này chủ yếu chỉ ghi địa điểm in ấn, số lượng bản in, bản thường, bản đặc biệt nếu có mà thôi; và sách thời đó cũng như báo, đăng rất nhiều quảng cáo cho đủ thứ nhãn hàng, không chỉ ở bìa 4 mà cả có ở trong trang nội dung.

Còn về tổng quan, dẫu mỗi thời, hoạt động in ấn, xuất bản, phát hành có khác nhau, vẫn có những mẫu số chung như trong xuất bản vẫn có những ông lớn – cả nhà nước và tư nhân; sách cũng đa dạng thể loại, phân nhiều cấp độ như sách bản phổ thông, sách đặc biệt cho người chơi sách; có những giai đoạn sẽ có những dòng sách được độc giả ưa chuộng, trở thành trào lưu như hiện tượng tiểu thuyết Tàu đầu thế kỷ XX, tiểu thuyết ba xu giữa những năm 1930, cũng như xuất bản thời nay từng có dạo tiểu thuyết đam mỹ tạo sóng trong làng xuất bản…

con chu ngoai trang sach anh 2

Sách Những con chữ ngoài trang sách của Trần Đình Ba cung cấp nhiều thông tin thú vị về ngành xuất bản Việt Nam. Ảnh: ĐB.

In ấn, xuất bản và phát hành ngày nay được chuyên môn hóa

Đâu là điểm khác biệt lớn nhất giữa xuất bản ngày nay so với giai đoạn ông nghiên cứu trong sách?

– Nếu nói về khác nhau, có lẽ phải có cả một nghiên cứu đối sánh, thống kê mới hợp lẽ được. In ấn, xuất bản thời nay đã là thời của khoa học công nghệ rồi.

Đơn cử như việc in sách không còn phải tỉ mẩn nhặt từng con chữ bỏ vào khuôn in như trước nữa, mà đã tiến tới bước máy móc được lập trình theo sự điều khiển của con người để in ấn. Hay phát hành thời xưa để sách đến được với người đọc, phải thông qua hệ thống đại lý là các cửa hàng sách lớn nhỏ ở các tỉnh thành.

Ngày nay việc kinh doanh, phát hành sách theo cửa hàng sách truyền thống nhỏ lẻ theo hộ gia đình thậm chí đang thui chột, các cửa hàng sách gia đình chủ yếu bán sách giáo khoa, sách tham khảo và văn phòng phẩm cho học sinh, còn các hiệu sách lớn cũng phải chịu sự cạnh tranh khốc liệt với các sàn thương mại điện tử mà người có nhu cầu, chỉ cần cài đặt ứng dụng trên thiết bị điện tử cá nhân, thực hiện vài thao tác là có thể ngồi chờ sách được giao đến tận tay trong dăm ngày hay thậm chí là trong 2 giờ (ở những thành phố lớn).

Như trên chỉ là hai khác biệt cơ bản về in ấn, phát hành của ngày xưa so với ngày nay.

Lại có những sự khác biệt cũng rất đáng kể như khoảng thời gian từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, khi việc in ấn, xuất bản nằm trong tay các nhà in công tư. Phải đến cuối thập niên 1920, đầu thập niên 1930, mô hình nhà xuất bản mới hiện diện và vươn lên thực hiện vai trò xuất bản, phát hành, các nhà in dần lui về hậu trường chuyên trách chức năng in ấn.

Còn hiện nay, hoạt động in ấn, xuất bản và phát hành được chuyên môn hóa hơn. Nhà in thực hiện nhiệm vụ nhà in, nhà xuất bản thực hiện việc xuất bản (khai thác bản thảo, biên tập, thiết kế, xuất bản sách).

Trong hoạt động này, các công ty sách tham gia năng động và có vai trò lớn. Việc phát hành, kinh doanh tập trung vào các công ty nhà nước, tư nhân.

Thời gian 1945 trở về trước, các nhà xuất bản tư nhân mọc lên rất nhiều. Thậm chí có những nhà xuất bản trở thành thế lực lớn của làng xuất bản như Tân Dân, Mai Lĩnh, hay Đời Nay…

Nhưng cũng có những nhà xuất bản tư nhân được lập nên với quy mô nhỏ phải giật gấu vá vai như đơn vị của Huy Cận – Xuân Diệu, Nguyễn Đức Chính. Thời nay, nhà xuất bản là của nhà nước, tư nhân tham gia hoạt động xuất bản phổ biến ở hình thức các công ty sách…

Ông nhận xét thế nào về tiến độ phát triển của ngành xuất bản thời gian gần đây và ngành sẽ đi theo hướng nào trong thời gian tới?

– Ngành xuất bản thời gian gần đây rõ ràng là phát triển nhanh, mạnh về số lượng đầu sách được xuất bản, đa dạng thể loại sách xuất hiện trên thị trường.

Ngành xuất bản thời gian gần đây phát triển nhanh, mạnh về số lượng đầu sách, đa dạng thể loại trên thị trường.

Trần Đình Ba

Có những dòng sách đang thực sự nhận được sự quan tâm của các đơn vị xuất bản và độc giả như sách về chuyển đổi số, sách về chữa lành, sách văn học kinh điển của Việt Nam và thế giới…

Còn vế sau của câu hỏi “ngành sẽ đi theo hướng nào trong thời gian tới?”. Đây là một câu hỏi mang tính dự báo. Mà dự báo thì luôn có xác suất đúng sai như dự báo thời tiết vậy. Nó phụ thuộc vào định hướng của cấp quản lý, vào đường hướng phát triển của các đơn vị xuất bản góp phần tạo nên tổng thể bức tranh chung về hoạt động xuất bản Việt Nam.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Zing News

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Từ ngày 21/4, Zing News mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://zingnews.vn/hieu-ve-nganh-xuat-ban-qua-nhung-con-chu-ngoai-trang-sach-post1422238.html

Tiếp tục đọc

Tác giả

MC Phan Đăng: ‘Đọc sách cũng giống như yêu’

Được phát hành

,

Bởi

“Nếu không có phương pháp, không có mục tiêu thì ngay cả khi chúng ta yêu sách, chúng ta đọc sách cũng là một tình yêu lầm lạc”, tác giả Phan Đăng nhấn mạnh.

Chào mừng Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam, nhà báo – tác giả Phan Đăng tổ chức buổi talk show với nội dung “Đọc sách rất nguy hiểm nếu…”, tập trung vào các vấn đề độc giả quan tâm: Nên đọc sách như thế nào? Phương pháp đọc? Lựa chọn sách phù hợp với lứa tuổi, đối tượng?…

“Nếu như thời ấy có ai đó nói cho tôi biết, đọc sách là rất tốt, nhưng phải có mục đích đọc, phải có phương pháp đọc, phải có kỹ thuật đọc thì con đường tôi đi sẽ được rút ngắn lại rất nhiều. Phải đến bây giờ – 39 tuổi, tôi mới thật sự hiểu thế nào là ‘đọc quên để nhớ’, thế nào là ‘đọc của người để trở thành mình’ chứ không phải ‘đọc của người để trở thành nô lệ cho người’. Điều này thấm thía và quý giá vô cùng. Nó thực sự làm tôi như được bung ra, vỡ ra để nhìn thấu cả một chân trời mới”, tác giả Phan Đăng chia sẻ.

Tac gia Phan Dang anh 1

Tác giả Phan Đăng.

Phan Đăng so sánh rất dí dỏm, yêu mà không có phương pháp cũng chết, yêu không có phương pháp, cái giá phải trả rất đắt, có khi đừng yêu còn đỡ hơn, đọc sách cũng vậy.

Theo anh, có nhiều hệ lụy của việc đọc không có mục tiêu, thứ nhất đó là “tầm chương trích cú”, trong đầu lúc nào cũng sống bằng ý nghĩ của người khác mà cứ tưởng đấy là của mình.

Thứ hai là tin hết vào sách. Như vậy, dễ trở thành một kẻ độc tài tri thức, thấy ai đó nói không giống kiến thức mình đọc được tỏ thái độ cực đoan.

Hệ lụy thứ ba, đem mớ lý luận đọc được “tấn công” đối tượng nào đó nên mới có những cuộc bút chiến trên mạng xã hội khiến nhiều độc giả tin một cách mù quáng. Thực tế, có không ít người vẫn tin những chuyện hàn lâm, nhưng thật ra chẳng phải để cùng khai phóng, trao đổi về chân trời tri thức mà mục tiêu là đem mớ lý thuyết đấy “mài” thành lưỡi lê sắc bén cứa vào da thịt người khác nhằm chứng tỏ cái tôi hơn người.

Cái tôi là ảo tưởng của lầm lạc

Về phương pháp đọc, tác giả Phan Đăng cho rằng đọc sách phải có chiến lược, mục tiêu đọc chứ không bạ đâu đọc đấy, không lan man.

“Khi xây dựng mục tiêu đọc, phải trả lời được hai câu hỏi. Câu hỏi thứ nhất là chúng ta muốn phát triển ngách tri thức nào? Bể tri thức của nhân loại mênh mông vô tận, bạn có mười đời cũng không đọc được hết nhưng có quyền chọn một ngách để đào sâu tát cạn. Không hẳn vì mong muốn trở thành một chuyên gia trong lĩnh vực đấy mà đơn giản thỏa mãn tận cùng những khát vọng của bản thân. Muốn làm được điều đó, phải phát triển kiến thức nền, phông văn hóa cho chính mình. Như vậy, mới có một lộ trình đọc tốt”, tác giả Phan Đăng khẳng định.

Tac gia Phan Dang anh 2

“Ai cũng phải có một cuốn sổ đọc của riêng mình”, tác giả Phan Đăng bày tỏ.

Tuy nhiên, Phan Đăng cho rằng nếu chỉ có kiến thức ngách mà không có kiến thức nền thì chỉ thấy vài giọt nước chứ không thấy được cả dòng sông… và ngược lại. Để vừa cảm nhận được sự cô đọng, tinh túy của một giọt nước hay sự mênh mang, rộng lớn của dòng sông phải đọc cả tri thức ngách lẫn tri thức nền. Điều đó giúp cho các bạn có thể chia sẻ với con cái, cùng hoạch định một chiến lược đọc rõ ràng.

“Ai cũng phải có một cuốn sổ đọc của riêng mình”, tác giả Phan Đăng bày tỏ.

Theo anh, khi đọc cần một đầu óc khai phóng và kỹ thuật hoài nghi. Thậm chí, đọc trong sự trăn trở lật đi lật lại không ngừng nghỉ.

“Đọc sách rất nguy hiểm nếu… không cẩn thận thì càng đọc càng nuôi nấng cái tôi của mình, mang cái tôi để hơn thua với cuộc đời. Trong khi cái tôi theo quan điểm của Phật giáo, vốn dĩ nó không có thật, là một ảo tưởng của lầm lạc mà thôi. Đọc sách mà mang kiến thức của mình để coi thường người khác thì đọc làm gì. Đây là những hệ lụy rất nguy hiểm. Nếu không có phương pháp, không có mục tiêu ngay cả khi chúng ta yêu sách, chúng ta đọc sách đó cũng là một tình yêu lầm lạc”, tác giả Phan Đăng nhấn mạnh.

Phan Đăng từng công tác tại báo An ninh Thế giới. Anh được nhiều người biết đến trong vai trò một bình luận viên thể thao, MC chương trình Ai là triệu phú. Phan Đăng từng ra mắt các cuốn sách: Ở trong đầu tri thức, Ơ kìa, làng bóng trong mắt tôi, 39 câu hỏi cho người trẻ

Nguồn: https://zingnews.vn/mc-phan-dang-doc-sach-cung-giong-nhu-yeu-post1422829.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng