Connect with us

Sách hay

Có giải Nobel văn học, dễ bán sách hơn

Được phát hành

,

Mỗi năm, các nhà xuất bản, tác giả, và độc giả đều háo hức đợi sự kiện công bố giải Nobel văn chương, không chỉ vì niềm đam mê văn học. Một chiến thắng gần như luôn chắc chắn sẽ dẫn tới giúp tăng mạnh lượng sách bán ra của người giành giải…

Có giải Nobel văn học, dễ bán sách hơn - Ảnh 1.

Toni Morrison (1931 – 2019), văn sĩ người Mỹ, là người phụ nữ da màu đầu tiên được trao giải Nobel Văn chương, vào năm 1993 – Ảnh: Medium

Tất nhiên, không phải ai cũng như ai.

“Không sự tác động từ bên ngoài nào ảnh hưởng tới tác giả và sách của họ nhiều như giải Nobel. Về mặt kinh doanh, đó thực sự là sự kiện trọng đại nhất có thể xảy ra với một nhà văn”, Lucien Leitess, giám đốc xuất bản của nhà xuất bản Thụy Sĩ Unionsverlag, nói với đài Đức DW.

Nhà xuất bản của ông hiểu rõ điều đó: họ là nhà xuất bản chuyên văn chương quốc tế, đã in sách của các tác giả trên toàn thế giới, gồm 4 người từng được trao giải Nobel.

Leitess dẫn ra ví dụ về nhà văn Ai Cập Naguib Mahfouz, một trong những cái tên bất ngờ nhất từng được xướng lên cho Nobel văn chương, vào năm 1988. “[Trước khi nhận giải], không một ai biết tới ông ấy, hay thậm chí là đọc tên ông ấy cho đúng”, Leitess kể.

“Suốt 3 năm chúng tôi bán được đúng 300 cuốn, rồi trong vòng 3 phút [sau giải Nobel], bán được 30.000 cuốn”.

Tuy nhiên, Leitess cũng cảnh báo: “Hiệu ứng từ giải Nobel chỉ là khởi đầu. Tác giả có thành công trong dài hạn hay không vẫn phụ thuộc vào năng lực chinh phục người đọc của họ”.

Mà điều đó thì phụ thuộc không ít vào truyền thông – bởi lẽ đào đâu ra những người đọc khách quan tuyệt đối. Ví dụ là nhà văn Trung Quốc Mạc Ngôn.

Có giải Nobel văn học, dễ bán sách hơn - Ảnh 2.

Mạc Ngôn – Nobel văn học 2012

Quyết định trao giải Nobel văn chương cho ông năm 2012 gây tranh cãi, vì Mạc Ngôn bị nhìn nhận là quá “lành” trong việc lên tiếng với chính quyền Trung Quốc, thường là tiêu chuẩn ngầm để các văn sĩ hay nghệ sĩ nói chung của nước này được công nhận rộng rãi ở phương Tây.

“Chúng tôi có vài cuốn của ông ấy dạng bìa mềm, nhưng tổng cộng có lẽ bán được 80.000 cuốn”, Leitess chia sẻ, khá thấp so với một tác giả được giải Nobel.

Tuy nhiên, giống như lệnh phong tỏa và quyết tâm zero COVID của Trung Quốc thời gian qua, thị trường 1,4 tỉ dân này gần như là một thế giới riêng.

Ngay sau khi tin Mạc Ngôn đoạt giải Nobel được loan đi, đơn đặt hàng tiểu thuyết Báu vật của đời của ông ở Trung Quốc đã tăng gấp đôi so với cả tháng bán trước đó trên các trang thương mại điện tử.

Các tuyển tập và toàn tập của ông cũng nhanh chóng được xuất bản và bán rất chạy. Cuốn nổi tiếng nhất, Cao lương đỏ, bán được tới gần 10 triệu bản, theo Tập đoàn Xuất bản Thượng Hải. Một cuốn nổi tiếng khác, Ếch, bán được 200.000 bản chỉ trong một thời gian ngắn.

“Giải thưởng chắc chắn giúp tăng doanh số sách, nhưng tôi nghĩ chúng ta không nên đánh giá quá cao giải thưởng khi đặt trong bối cảnh văn chương Trung Quốc tổng thể”, Eric Abrahamsen, nhà phê bình văn học giữ mục cho trang web về văn chương Trung Quốc bằng tiếng Anh Paper Republic, nói với China Daily.

Có giải Nobel văn học, dễ bán sách hơn - Ảnh 3.

Nhà văn Áo Peter Handke

Một ví dụ khác về thị trường đặc thù là nhà xuất bản Suhrkamp của Đức. Giải Nobel văn chương xướng tên nhà văn người Áo Peter Handke năm 2019 đánh dấu tác giả được giải Nobel thứ 16 của họ. Trong 7 tuần sau đó, Suhrkamp bán được 150.000 cuốn của Handke, theo người phát ngôn của nhà xuất bản, Tanja Postpischil.

Các tựa sách cũ cũng sẽ bỗng dưng đắt như tôm tươi với giải Nobel. Một ví dụ: nhà xuất bản có trụ sở ở Zurich (Thụy Sĩ) Kampa-Verlag là đơn vị thứ năm in sách của tác giả người Ba Lan Olga Tokarczuk, nhận giải năm 2019 cùng Handke.

“Bà ấy luôn là một tác giả lớn và rất quan trọng, nhưng khó bán ở các nước nói tiếng Đức”, Daniel Kampa của nhà Kampa nói. Ông mới thành lập nhà xuất bản đấy từ mùa thu năm 2018 và đã mua lại bản quyền mọi tác phẩm được xuất bản bằng tiếng Đức trước đó của Tokarczuk – coi như một vụ trúng số.

Tác phẩm lớn nhất của bà, tiểu thuyết 1.200 trang The Books of Jacob, in ở Đức chỉ 10 ngày trước khi Tokarczuk được trao giải. Ròng rã một năm trước đó, Kampa chỉ bán được 1.200 cuốn. Nhưng trong vòng hai ngày sau khi có tin, 3.000 cuốn đã bán hết, họ thậm chí không kịp đặt in thêm.

Mức độ tác động của giải Nobel lên doanh số cũng phụ thuộc vào việc người thắng giải vốn đã nổi tiếng tới đâu (Haruki Murakami chẳng hạn, có lẽ sẽ không bán chạy hơn mấy, Nobel hay không). Các nhà thơ, như lâu nay vẫn vậy, đặc biệt gặp vấn đề trong chuyện bán sách.

Trong thập kỷ qua, nhà xuất bản Hanser-Verlag đã có vinh dự ăn mừng hai giải Nobel cùng các tác giả của họ, thi sĩ Thụy Điển Tomas Tranströmer (2011), và ba năm sau, tiểu thuyết gia Pháp Patrick Modiano.

Đó là hai trường hợp trái ngược. “Tranströmer là một bất ngờ lớn”, người phát ngôn của Hanser, Jasmin Aldinger, nói. “Nhưng ông ấy không bán thêm được mấy. Luôn có sự khác biệt giữa các nhà thơ và tiểu thuyết gia. Còn với Modiano, giải Nobel chỉ có hiệu ứng vừa phải vì ông ấy đã nổi tiếng và viết rất nhiều rồi”.

Nhưng cũng có những người chưa nổi tiếng lắm nhờ giải Nobel mà bán sách rất được. Nhà Fischer có tác giả Nobel gần nhất là Alice Munro, nhà văn chuyên truyện ngắn người Canada, vào năm 2013.

Giám đốc biên tập của Fischer, Hans Jürgen Balmes, nói hiệu ứng Nobel là rất rõ ràng với bà, tương tự là với nhà văn người Nam Phi John Maxwell Coetzee, thắng giải năm 2003. “Giải thưởng là bước ngoặt lớn với cả hai”, ông nói.

“Với Coetzee, chúng tôi bán được 300.000 cuốn vài tuần sau khi có tin. Với Alice Munro còn nhiều hơn thế một chút”.

Có giải Nobel văn học, dễ bán sách hơn - Ảnh 4.

Nhà văn Alice Munro

Fischer thậm chí đã “đón lõng” việc Munro được trao giải. “Chúng tôi thực ra định sang năm sau mới in sách của bà ấy”, Balmes nói. “Nhưng sau đó quyết định cần chuẩn bị mọi thứ để nếu điều kỳ diệu xảy đến, chúng tôi có thể in sách ngay trong tháng 12”.

Nhưng hiệu ứng Nobel rồi cũng phải đi tới kết thúc. “Sách Munro bán rất chạy trong 2-3 năm sau khi bà thắng giải. 

Nhưng sau đó thì cũng trở lại như bình thường”, Balmes cho biết. “Doanh số của chúng tôi với tiểu thuyết mới của Kenzaburo Oe, vốn thắng giải vào năm 1993, giờ cũng rất nhỏ, chỉ là số lẻ so với trước kia”.

Dự đoán và cá cược

Với năm 2022, trang văn chương Lithub đưa ra một số dự đoán kèm theo tỉ lệ cược của nhà cái Nicer Odds (Anh) như sau:

Adonis: Nhà thơ người Syria. “Nếu ông ấy không thắng giải thì cũng như T.S. Eliot không thắng giải”, Lithub viết. “Nhưng ông ấy là người A-rập, nên ủy ban [Nobel] có thể nghĩ khác”. Tỉ lệ cược: 1-9 (đặt 1 ăn 9)

Ngugi Wa’ Thiong’o: Nhà văn người Kenya tự giới hạn lượng động giả bằng cách dứt khoát viết bằng tiếng Gikuyu bản địa của ông thay vì tiếng Anh, vốn là ngôn ngữ chính thức ở Kenya. Tỉ lệ cược: 1-10.

Edwidge Danticat: Nhà văn người Mỹ – Haiti, tuy nhiên, mới năm 2020, Nobel văn chương đã thuộc về một người Mỹ, nhà thơ Louise Glück. Tỉ lệ cược: 1-34.

Garielle Lutz: Nhà văn người Mỹ, được Lithub ca ngợi là “tác giả tiếng Anh hay nhất kể từ Patrick White (người Úc, Nobel văn chương 1973). Tỉ lệ cược: 1-12.

Jon Fosse: Nhà văn người Na Uy. “Một số tiểu thuyết của ông đã không còn được in từ vài năm trước và giờ bán với giá rẻ mạt trên eBay”, theo Lithub. Tỉ lệ cược: 1-16.

Shahrnush Parsipur: Tiểu thuyết gia người Iran. “Bà viết một tiểu thuyết rất đẹp sau khi bị bỏ tù ở Iran bốn năm”. Với tình hình chính trị hiện tại, Parsipur đang có ưu thế. Tỉ lệ cược: 1-21.

Lazlo Krasznahorkai: Nhà văn người Lazlo Krasznahorkai, tác phẩm được Lithub đề nghị là Satantango. Tỉ lệ cược: 1-31.

Scholastique Mukasonga: Nhà văn người Pháp – Rwanda. Lithub lưu ý rằng chưa từng có phụ nữ người châu Phi nào từng thắng giải. Tỉ lệ cược: 1-34.

Maryse Conde: Huyền thoại văn chương Caribe. Năm 2018, giải Nobel văn chương không được trao vì bê bối ở Viện Hàn lâm Thụy Điển, và “giải thay thế” đã được trao cho Conde. Tỉ lệ cược: 1-15.

Salim Barakat: Nhà thơ và tiểu thuyết gia người Kurd – Syria, hiện sống ở Thụy Điển. Tỉ lệ cược: 1-2.

Nguồn: https://tuoitre.vn/co-giai-nobel-van-hoc-de-ban-sach-hon-20221005194414763.htm

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng