Connect with us

Sách hay

‘Cái bắt tay triệu đô’ và câu chuyện giao tiếp xuyên văn hóa

Được phát hành

,

Trước khi bạn mở lời, cách bạn đi đứng, bắt tay, giao tiếp bằng mắt và kết nối với đối phương đã nói lên nhiều điều về bạn.

Trong cuộc sống hàng ngày, các hành động xã giao tưởng như đơn giản thật ra lại ẩn chứa nhiều ý nghĩa về con người cá nhân, cũng như đóng vai trò quan trọng trong hiệu quả tương tác giữa các cá nhân với nhau.

Cai bat tay trieu do anh 1

Sách Cái bắt tay triệu đô.

Đây cũng chính là chủ đề được khai thác sâu sắc và đa diện trong Cái bắt tay triệu đô, cuốn sách được chấp bút bởi tác giả Catherine Molloy, đồng thời là diễn giả, chuyên gia về giao tiếp và ngôn ngữ hình thể với 25 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh, đào tạo kỹ năng lãnh đạo.

Trong phần đầu tiên của cuốn sách, tác giả dành nhiều trang để hướng dẫn kỹ thuật bắt tay một cách cụ thể: siết mạnh hay nhẹ, bằng một hay hai tay, kéo dài trong bao lâu, với dáng đứng và ánh mắt thế nào,…

Bạn đọc có thể nghĩ chỉ là bắt tay thôi mà, có cần chi tiết đến thế không, nhưng sự thật là cách bạn bắt tay lại tiết lộ rất nhiều về tính cách và tâm lý của bạn…

Hãy tưởng tượng, trong bối cảnh đòi hỏi thái độ chuyên nghiệp như một cuộc phỏng vấn ứng tuyển việc làm hay gặp gỡ khách hàng tiềm năng, ngay khi lời nói chưa được phát ra, người đối diện đã nhìn thấy cách bạn đi đứng, biểu cảm gương mặt, ánh mắt và cái bắt tay. Bởi một cách hữu thức hoặc vô thức, người khác sẽ đánh giá bạn qua ngôn ngữ cơ thể, và ngược lại, bạn cũng đánh giá người khác bằng phương thức tương tự.

Ứng xử quá vồn vã sẽ gây mất thiện cảm nếu bạn chỉ chăm chăm thể hiện mình mà tảng lờ cảm xúc của người khác. Ngược lại, cho dù có chuyên môn giỏi cùng tính cách nồng hậu, nếu hôm đó tâm trạng bạn không vui và để lộ điều đó qua gương mặt thiếu cảm xúc và cái bắt tay hời hợt, đối phương có thể cho rằng bạn là người tự ti hoặc lãnh đạm – đồng nghĩa với một cơ hội bị tuột mất.

Ngôn ngữ hình thể qua giao tiếp xuyên văn hóa

Cuốn sách cũng dành một phần quan trọng để bàn về ngôn ngữ hình thể trong các nền văn hóa với những phong tục, tập quán khác nhau. Trong bối cảnh toàn cầu hóa với môi trường làm việc thường là sự hợp tác giữa nhân sự đa quốc gia, sự hiểu biết và nhạy cảm về văn hóa là tối quan trọng để giảm thiểu mâu thuẫn và hiểu lầm.

Cai bat tay trieu do anh 2

Tác giả cuốn sách, bà Catherine Molloy.

Người châu Á với truyền thống kín đáo thường bắt tay nhẹ và đôi khi hơi cúi đầu, trong khi người Mỹ thường bắt tay với lực siết mạnh cùng nụ cười và ánh mắt nhìn thẳng vào đối phương, còn người Australia lại có xu hướng chào hỏi nhau bằng những cái vỗ lưng. Người Pháp thường chào nhau bằng cách hôn má trong khi hành động đó là hoàn toàn không phù hợp trong văn hóa Việt Nam.

Nam giới thường thoải mái và tự tin với hành động bắt tay, còn phụ nữ thường e dè hơn một chút. Thậm chí, ở một số quốc gia theo đạo Hồi giáo, bất kỳ sự đụng chạm cơ thể mang tính xã giao nào giữa hai người khác giới cũng đều không được chấp nhận. Do vậy, Molloy khuyên bạn nên tìm hiểu kỹ tập quán bản địa trước khi du lịch hoặc công tác ở một đất nước xa lạ, bởi sự hiểu biết và tôn trọng nền tảng văn hóa của người khác sẽ giúp bạn “ghi điểm” trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Giá trị của thông điệp phi ngôn từ được Molloy nhấn mạnh ngay từ tựa đề của cuốn sách, nhưng con số “triệu đô” ở đây không đơn thuần có ý nghĩa về tiền bạc hay các hợp đồng kinh doanh, mà theo tác giả, mục đích là “giúp bạn cảm thấy mình đáng giá triệu đô và chỉ cho bạn cách để khiến các khách hàng của mình có cảm nhận tương tự về bản thân họ”.

Bằng cách cung cấp kiến thức về tâm lý học và sự đa dạng văn hóa, cũng như những chia sẻ kinh nghiệm cá nhân của tác giả Catherine Molloy trong môi trường giao tiếp quốc tế, Cái bắt tay triệu đô đã rất thành công khi truyền đi thông điệp về giá trị của ngôn ngữ hình thể trong việc tạo dựng và gìn giữ mối quan hệ giữa chúng ta.

Một cách tự nhiên, chúng ta thường đã có cảm giác tốt hay không tốt về một người nào đó ngay từ bảy giây đầu tiên chạm mặt. Và như Molloy đã nhận định trong cuốn sách: “Bạn có bảy giây để tạo ấn tượng. Nếu ấn tượng đầu tiên không tốt, có thể bạn sẽ phải bù đắp bằng mười hai cuộc gặp gỡ suôn sẻ để xây dựng mối quan hệ và tạo thiện cảm”.

Nguồn: https://zingnews.vn/cai-bat-tay-trieu-do-va-cau-chuyen-giao-tiep-xuyen-van-hoa-post1339799.html

Sách hay

Dám nghi, dám nghĩ, dám nghỉ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách này ghi chép những câu chuyện nhỏ về cuộc sống của tác giả quanh vấn đề Dám Nghi – Dám Nghĩ – Dám Nghỉ ở ba nơi: Mekong – Sài Gòn – San Francisco.

Thấy trên bảng có hai bài toán thống kê, chàng sinh viên nghĩ rằng chúng là bài tập về nhà. Vài ngày sau, anh nộp bài cho giáo sư với lời giải thích “bài tập lần này hơi khó hơn bình thường” nên anh nộp trễ.

Truyền thông nói gì về giới hạn?

Họ nhắc đến những trải nghiệm thương đau như là nấu hỏng, chi phí tốn kém, hay phải lau dọn bếp khá là mệt đằng sau. Kiểu là như vậy đấy.

Tôi bảo với cô nhà báo rằng, tôi sẽ ái ngại nếu những người thân quen quanh tôi, người mà biết hết mọi nốt thăng, nốt trầm, nốt lỗi trong đời tôi đọc bài báo này. Tôi hỏi cô có cách nào chỉnh sửa được không. Cô cười giải thích với tôi rằng, chúng ta nên nghĩ ở góc độ người đọc.

Người đọc báo mạng cần thông tin chính xác (tức không đưa thông tin sai), nhưng súc tích ngắn gọn và họ sẽ tiếp tục đọc thêm nhiều bài khác. Người đọc báo mạng không cần tôi giải thích mọi ngóc ngách ưu khuyết về cuộc đời tôi, tôi đâu phải là nhân vật của công chúng. Cô nhà báo gợi ý tôi xem bản nháp có chỗ nào chưa đúng thì sửa chữa, chứ chưa đủ thì rất khó để viết thành đủ.

Gioi han anh 1
Ảnh minh hoạ. Nguồn: BBC.

Bên cạnh nhu cầu đọc nhanh của độc giả, việc thuyết phục tòa soạn cho nhiều “đất” để viết dài là một vấn đề khác. Tôi tuy vẫn ái ngại, nhưng thấy cô nói có lý. Tri thức của độc giả đến từ việc họ đọc đa dạng nội dung, và đọc nhiều mỗi ngày. Nếu tôi có duyên được đóng góp một bài đúng-tuy-chưa-đủ thì cũng là một vinh dự rồi. Vậy thôi tôi đồng ý cho đăng.

Nhân nói chuyện về báo, tôi muốn chia sẻ một bài báo tôi đọc gần đây. Năm 1939, tại giảng đường Đại học UC Berkeley, một sinh viên tiến sĩ tên là George Dantzig đến lớp trễ. Thấy trên bảng có hai bài toán thống kê, chàng sinh viên nghĩ rằng chúng là bài tập về nhà. Vài ngày sau, anh nộp bài cho giáo sư với lời giải thích “bài tập lần này hơi khó hơn bình thường” nên anh nộp trễ.

Ông giáo sư giật mình, không phải vì chàng sinh viên nộp bài trễ mà vì anh đã… nộp bài. Bài toán viết trên bảng hôm ấy không phải là bài tập về nhà. Chúng là hai bài toán thống kê nổi tiếng nhân loại chưa có đáp án. Ông giáo sư viết trên bảng cho lớp biết, và anh sinh viên George Dantzig đã… giải ra.

Nguồn: https://znews.vn/chang-sinh-vien-nham-de-toan-noi-tieng-nhan-loai-voi-bai-tap-ve-nha-post1511859.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1
Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2
Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng