Connect with us

Sách hay

Gỡ bỏ tấm màn thiêng bao phủ những kiệt tác

Được phát hành

,

Qua sách “Michelangelo: Sáu kiệt tác cuộc đời”, tác giả Miles J. Unger đã phác họa chân dung nghệ sĩ, từ đó giúp người đọc hiểu hơn về những kiệt tác của nhân loại.

6 kiet tac anh 1

Chúng ta, ai có cơ hội một lần trong đời hành hương đến Florence, Venise, Rome đều không ít lần có cảm giác ngợp thở, tâm trí và cảm xúc hoàn toàn bị xâm chiếm khi bước vào những thánh đường dày đặc bởi bích họa, điêu khắc và trang trí đồ sộ.

Chúng làm ta thoát ly khỏi nhận thức về thực tại, về cơ thể mình, hơi thở và nhịp đập của trái tim. Chúng xâm chiếm và ngự trị ngạo nghễ bên trong trí óc, điều khiển mọi giác quan, làm ta thẫn thờ ngơ ngẩn cả ngày loanh quanh ở đó, và còn choáng váng bồng bềnh tới vài ngày sau đó.

Nghệ thuật ở vị thế được “thiêng hóa” giúp con người thoát khỏi cảm giác trần tục để kết nối với các trạng thái tích cực hay phong phú của tâm hồn. Khi đó, chúng ta hầu như quên mất các kiệt tác đó được tạo ra bởi bàn tay, suy nghĩ và trí tưởng tượng của con người, dù phần lớn các hình tượng điêu khắc hay hội họa đều khắc họa cơ thể người và đầy tính nhân bản. Tại sao lại như vậy?

6 kiet tac anh 2

Sách Michelangelo: Sáu kiệt tác cuộc đời. Ảnh: O. P.

6 kiệt tác để lại cho nhân loại

Michelangelo (tên đầy đủ Michelangelo di Lodovico Buonarroti Simoni) chắc chắn là một trong những nghệ sĩ vĩ đại nhất, không chỉ trong thời Phục hưng, mà còn của nhân loại từng sản sinh và có được. Ở quyển sách này, cuộc đời nghệ sĩ được soi chiếu qua 6 tác phẩm đỉnh cao tạo bởi bàn tay của ông và được ghi nhận tới ngày nay.

Chúng ta biết đến Đức mẹ sầu bi (ThePietà) bởi khả năng lột tả tận cùng tính bi tráng, tình mẫu tử và bàn tay điêu khắc đá đỉnh cao trong thời kì nghệ sĩ còn trẻ.

Chúng ta biết đến David không chỉ bởi đó là một trong những cơ thể nam giới đẹp đẽ hoàn thiện nhất trong lịch sử nghệ thuật, một điêu khắc đá cẩm thạch khổng lồ, mà là sự tôn vinh của lý tưởng con người độc lập lần đầu tiên vượt ra khỏi bóng dáng của tôn giáo – như tên gọi Người khổng lồ trong đơn đặt hàng, mặc dù hình tượng vẫn dựa trên một câu chuyện huyền thoại.

Chúng ta biết đến Trần nhà nguyện Sistine (The Sistine Chapel) bởi sự hoành tráng và phức tạp nhất của thể loại tranh tường trong một công trình kiến trúc tôn giáo tới nay, mà còn bởi phong cách tạo hình đầy phong phú và sáng tạo trong các giải quyết nhiều bố cục da dạng, xứng đáng đi vào sách giáo khoa nghệ thuật.

Chúng ta biết đến Lăng mộ Medici (The Medici Tombs) bởi năng lực lao động nghệ thuật kéo dài hơn một thập kỷ, sự phá cách trong tạo hình hay cả tính chưa hoàn thiện của nó, và quan trọng hơn, bởi những tiên đoán về chuyển hướng phong cách nghệ thuật cho giai đoạn sau này.

Chúng ta biết đến Sự phán xét cuối cùng (Last Judgment), bức tranh tường chung cuộc cho nhà nguyện Sistine bởi bố cục táo bạo, và hơn hết sự lột tả chân dung bậc Thiên chúa.

Và sau rốt, chúng ta biết đến Nhà thờ Thánh Peter (Saint Peter’s Basilica) – kiệt tác kiến trúc thể hiện tài năng toàn diện và độc đáo của nghệ sĩ, mà trước đó Bramante và nhiều tên tuổi khác không thể giải quyết. Nó không chỉ biến công trình thành một trong những kiến trúc Phục hưng tiêu biểu nhất đương thời, mà còn là tác phẩm cuối của ông trong những ngày sắp từ giã cõi đời.

6 kiet tac anh 3

Một phần tượng David của Michelangelo. Ảnh: Starkoss.

Sáu tác phẩm không chỉ đóng dấu mốc lên nền nghệ thuật, mà chúng còn xuyên suốt qua các chặng đường và giai đoạn thăng trầm trong cuộc đời của Michelangelo.

Tác giả Miles J. Unger, một cây bút chuyên biệt về lịch sử – tiểu sử, đã có những tựa sách về Medici – gia tộc đầy quyền lực có ảnh hưởng lớn và tạo ra nhiều thay đổi trên bình diện chính trị, văn hóa, xã hội thời Phục hưng, hay về Machiavelli – sử gia đã có những trước tác quan trọng về chính trị tạo ra các ảnh hưởng sâu rộng đến cấu trúc quyền lực ở châu Âu nhiều thế kỉ sau này.

Michelangelo: Sáu kiệt tác cuộc đời được đánh giá là tác phẩm hoàn thiện hơn cả về nguồn tư liệu đa dạng, về những thông tin đầy chi tiết và có giá trị tham khảo cao, như: Ngày nghệ sĩ bắt đầu làm tác phẩm David, hay hiểu về kỹ thuật điêu luyện của Michelangelo qua các công cụ điêu khắc đá như subbia hay gardina; Trần nhà nguyện Sistine được phác thảo, phát triển như thế nào…

Tác phẩm cũng đưa ra những thông tin xác tín về thù lao và định giá nghệ thuật thời Phục hưng; sự liên hệ của ông với hai bậc thầy nghệ thuật đương thời Leonardo da Vinci và Raffaello Santi qua sự ganh đua về danh tiếng và nghề nghiệp; mối quan hệ nhiều sóng gió với những nhân vật nổi bật đương thời như kiến trúc sư Bramante, sử gia nghệ thuật Vasari, các giáo hoàng Julius và Medici.

Tất cả được dẫn dắt xuyên suốt bởi một hành văn lôi cuốn người đọc từ những dòng viết đầu tiên cho tới cuối của quyển sách 574 trang (ở bản tiếng Việt, do Phạm Út Quyên dịch).

6 kiet tac anh 4

Một phần Nhà thờ Thánh Peter – công trình mà Michelangelo tham gia làm kiến trúc sư trưởng. Ảnh: streetwise.

Chân dung cực đoan, ngạo mạn và tài năng của Michelangelo

Tất nhiên cuộc đời sáng tạo của Michelangelo không chỉ gói gọn và đơn giản như vậy. Lao động nghệ thuật của ông bao gồm hàng trăm tác phẩm về hội họa, điêu khắc và kiến trúc, các bài thơ và hàng nghìn bản ký họa nghiên cứu – chúng đều có những câu chuyện đặc sắc riêng và hé lộ nhiều góc khuất của nghệ sĩ.

Nhưng nếu coi tác phẩm phản chiếu bản thân người tạo ra nó ở những khía cạnh: Tài năng và tâm lý, thói quen và tật xấu, lao động và hành vi, thì đây có lẽ là điểm thú vị nhất của cuốn sách.

Nghệ sĩ, hiện lên với một chân dung đầy phức tạp với đầy đủ tính cách cực đoan, tâm lý yếm thế xen lẫn ngạo mạn, sự tủn mủn trong sinh hoạt hàng ngày hay lệch lạc về giới tính (theo quan điểm thời bấy giờ), đối lập đến thế nào với các tác phẩm đầy chất hướng thượng, cao quý và thần thánh mà bàn tay của người đó tạo ra.

Kết nối được những điều đó, người đọc – xem nghệ thuật sẽ có cơ hội gỡ bỏ tấm màn thiêng bao phủ lên những kiệt tác đó, hiểu được không chỉ con đường đầy nhân bản mà tác phẩm được sinh ra, mà còn cơ chế vận hành của sáng tạo -một trong những hành vi cơ bản mà bí hiểm nhất của nhân loại.

Quan trọng hơn, các kiệt tác nghệ thuật thường cho thấy (hoặc bắt người ta phải tìm hiểu về) bối cảnh chính trị xã hội của chúng, thang bậc văn hóa và cấp độ thẩm mỹ, thói quen thường thức và hành vi sáng tạo, nền giáo dục nghệ thuật hay những nghiên cứu, phê bình về nó bởi sử gia và chính khách.

Chúng mở ra cảnh quan của đời sống tinh thần, phần nào bộc lộ cấu trúc của kiến trúc thượng tầng xã hội, mức độ văn minh và phát triển xã hội trong lịch sử thời đó. Đỉnh cao văn minh của một xã hội chưa chắc có thể có các kiệt tác nghệ thuật, nhưng kiệt tác nghệ thuật chắc chắn được tạo ra bởi một nền văn minh đỉnh cao.

6 kiet tac anh 5

Lăng mộ Medici. Ảnh: reidsitaly.

Với một nhân cách thú vị, phức tạp, bí ẩn và lôi cuốn như Michelangelo, đã có nhiều quyển sách được viết về ông ở cả khía cạnh cuộc đời và nghệ thuật. Tuy nhiên, quyển sách của Miles J. Unger vẫn là một trong những tiểu sử chi tiết, sinh động, tỉ mỉ và đáng tin cậy nhất.

Đây cũng là một bản chuyển thể Việt ngữ ổn thỏa của một dịch giả có vốn tiếng Việt chững chạc và trong sáng, có cách lý giải về nghệ thuật và từ ngữ rành mạch. Ngôn ngữ của bản tiếng Việt vừa đủ giản dị để cả bạn đọc phổ thông có thể tiếp cận, lại đủ độ giàu có về từ vựng văn hóa nghệ thuật để vẫn giữ được chiều sâu và đa dạng của văn bản mà một quyển sách chuyên sâu cần có.

Điểm đáng tiếc duy nhất là giọng văn tiếng Việt chưa hình thành giọng văn trần thuật với yêu cầu cần thiết để dẫn dắt mạch truyện – một điểm quan trọng trong các văn bản tiểu sử – để hình thành ngôn ngữ “kể chuyện”, thứ dẫn dắt và ghim độc giả vào mỗi trang sách.

6 kiệt tác cuộc đời của Michelangelo dưới con mắt của nhà viết sử không chỉ kể câu chuyện sinh động về cuộc đời huyền thoại và biến động của một trong những nghệ sĩ tài năng và phức tạp nhất thời Phục hưng. Qua đó, nó mở cho chúng ta cái nhìn về mối quan hệ giữa nghệ thuật và nhân sinh, giữa nghệ thuật với tôn giáo, giữa con người với đức tin – thể hiện tinh thần triết học của vòng tròn tam giác quan hệ đó.

Michelangelo: Sáu kiệt tác cuộc đời chắc chắn là một ấn phẩm có ý nghĩa giáo dục, nghiên cứu và tham khảo, vốn vẫn còn rất ít ỏi trong tủ sách nghệ thuật trong nước hiện nay.

Nguồn: https://zingnews.vn/go-bo-tam-man-thieng-bao-phu-nhung-kiet-tac-post1168876.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng