Connect with us

Sách hay

Hành trình đi tìm bản ngã của gã đàn ông thất bại

Được phát hành

,

Tác phẩm tái hiện bi kịch của người không được sống thật với chính mình. Nỗi đau của họ là hồi chuông cảnh tỉnh về sự khắc nghiệt và tàn nhẫn của xã hội.

Can phong cua Giovanni anh 1

Nhắc đến văn học chủ đề đồng tính, không thể không kể tới Căn phòng của Giovanni của James Baldwin, một tiểu thuyết mang tính đặt nền móng cho phong trào giải phóng tính dục và là một cú sốc gây chấn động văn đàn thế giới giữa bối cảnh xã hội khắc nghiệt đầu thế kỷ 20.

Hãy làm một phép thử nhỏ để kiểm tra sức ảnh hưởng và độ phủ sóng từ Căn phòng của Giovanni: Bạn chỉ cần đánh cụm từ “best gay novel” (tiểu thuyết đồng tính xuất sắc) lên thanh công cụ tìm kiếm của Google, kết quả đầu tiên được trả về là Giovanni’s Room.

Sinh ra trong một gia đình có tới chín anh chị em ở khu Harlem tại Manhattan, tác giả James Baldwin lớn lên đúng vào giai đoạn bùng nổ phong trào phục hưng văn hóa Mỹ gốc Phi.

Ông chịu ảnh hưởng lớn từ làn sóng nghệ thuật phóng khoáng này. Nhà văn từng mơ ước trở thành một nhạc sĩ, một họa sĩ hay một diễn viên.

Năm 19 tuổi, ông đã quyết tâm theo nghiệp cầm bút sau cái chết của cha mình, người luôn phản đối ông trở thành nhà văn bởi “một người da đen viết sách là đi ngược với định nghĩa của người da trắng, anh ta sẽ bị giết, bị ám hại”.

Lời cảnh báo không hẳn vô căn cứ. Năm 24 tuổi, sau vụ nhảy cầu tự sát của một người bạn đồng tính, James Baldwin quyết định sang châu Âu để thoát khỏi bầu không khí mà ông gọi là “bức tử” và nếu ở lại lâu hơn, sợ sẽ tới “kết cục nằm dưới chân cầu như người bạn ấy”.

Can phong cua Giovanni anh 2

Tiểu thuyết Căn phòng của Giovanni của James Baldwin. Ảnh: Tao Đàn

Cuốn tiểu thuyết gây chấn động

James Baldwin dành phần lớn thời gian sinh sống tại Pháp, nơi ông đã hoàn thành tiểu thuyết đầu tay. Tác phẩm chào sân văn chương của James Baldwin Go Tell It On The Mountain đã đưa ông lên đài danh vọng. Pháp cũng là nơi nhà văn sáng tác tiểu thuyết đầu tiên về đề tài đồng tính Căn phòng của Giovanni.

Lấy bối cảnh ở Paris, câu chuyện xoay quanh David, một người đàn ông Mỹ da trắng bỏ trốn đến châu Âu để tìm lại chính mình sau những thất bại tại quê nhà.

Sau khi cầu hôn người bạn gái, anh ta vô tình gặp Giovanni, một chàng nhân viên quán bar và nhanh chóng rơi vào lưới tình.

Sự cuồng nhiệt của tình yêu giữa hai người, sự đau đớn, dằn vặt của David khi phải liên tục vật lộn (và chối bỏ) xu hướng tính dục của bản thân đã tạo nên bầu không khí căng thẳng, chua chát, dữ dội xuyên suốt mạch truyện.

Căn phòng của Giovanni không có một khởi đầu êm đẹp. Hoàn thiện năm 1956, bản thảo từng bị dọa đốt và bị từ chối in tại Mỹ vì nhà xuất bản phản đối một tiểu thuyết đồng tính đến từ một tác giả da đen.

Sau rất nhiều trở ngại, cuối cùng tiểu thuyết được xuất bản ở Mỹ.

Hồi tưởng lại sự kiện này, nhà văn chia sẻ: “Người Mỹ đơn thuần chỉ muốn những tác giả da đen truyền tải đúng trải nghiệm của người da đen theo cái cách mà họ công nhận. Nhưng ngôn ngữ không có giới hạn”.

“Không một lời kể thực tế nào về đời sống của người da đen có thể tìm được chỗ đứng trong từ vựng của người Mỹ. Và cách duy nhất để đối phó với điều này là bằng một nhát thật mạnh đập tan tành những mặc định của họ”, James Baldwin từng viết.

Nhưng James Baldwin viết Căn phòng của Giovanni không chỉ hướng tới đối tượng độc giả da trắng. Thực tế, ông sáng tác nó cho chính mình, đó là một quyết định liều lĩnh, như ông từng chia sẻ.

James Baldwin thực hiện cuốn sách để khai sáng cho bản thân về niềm tuyệt vọng khôn kham. Nhà văn cũng muốn giải mã những chất liệu kỳ dị đã dệt thành bản ngã của chính ông.

Căn phòng của Giovanni không đơn thuần là một tiểu thuyết đồng tính, mà đồng tính chỉ là phương tiện để James Baldwin làm sáng tỏ mối liên hệ mật thiết giữa tính dục với tâm lý con người, với xung đột đạo đức nội tại.

Nhà phê bình văn chương Colm Tóibín nhận xét điểm sáng tạo của tiểu thuyết này là “văn phong xưng tội”. “Sáng tạo của Baldwin về văn phong xưng tội, được lấp đầy bằng những chỗ hoa mĩ bất chợt và thức nhận đớn đau”, nhà phê bình Tóibín viết.

Sự tự chỉ trích của nhân vật David gần với giọng của Oscar Wilde trong De Profundis. Y như Wilde so sánh mình với Kitô ở nỗi thống khổ, David trong Căn phòng của Giovanni nói: “Judas và đấng Cứu rỗi đã gặp nhau trong tôi”.

Trong Căn phòng của Giovanni, người nói vừa diễn xuất cho chúng ta vừa giảng đạo cho chính anh.

Nhân vật dùng giọng nói hùng hồn để chính anh biết điều mình đã làm. Giọng này được hướng vào bên trong, nhưng cũng có cảm giác rằng David gần như hân hưởng cái âm thanh mà anh tạo ra – lối hùng biện dịu dàng kiểu xưng tội.

Can phong cua Giovanni anh 3

Nhà văn James Baldwin. Ảnh: The Guardian.

Từ câu chuyện cá nhân đến bi kịch thời đại

Người đọc Căn phòng của Giovanni có thể nhìn thấy từ một góc độ nào đó, câu chuyện được xây dựng từ những cặp đối lập liên hệ chặt chẽ với nhau: Châu Âu – châu Mỹ, người Mỹ – người Pháp, quê nhà – đất khách, mỏ neo – trốn chạy, dị tính – đồng tính.

Xuyên suốt câu chuyện, nhân vật chính David liên tục mô tả Paris như một xứ sở ngoại lai, già nua, mục rữa, ngập tràn những quán bar đồng tính, những người ăn mặc ẻo lả, đi đi lại lại như xác sống; trái ngược hẳn với New York, như David mô tả là một nơi sống động, náo nhiệt, đậm tính đàn ông và khơi gợi sự yên ấm, quen thuộc trong anh.

Có thể thấy David đánh đồng nước Pháp là chốn ngoại lai và tượng trưng cho đồng tính, còn nước Mỹ là quê hương và tượng trưng cho dị tính.

Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, nhân vật vẫn muốn bấu víu lấy cái mỏ neo là tính đàn ông được quy định cho anh, và ghê sợ mỗi khi những tình cảm chân thật bộc lộ.

Tâm trạng của David khi ở Paris hoàn toàn trái ngược với tuyên bố của anh, ấy là muốn rời Mỹ đến châu Âu để “tìm lại bản thân mình”.

Có thể thấy cả cuộc đời David vẫn luôn là một cuộc đuổi bắt không hồi kết, sau sự cố tuổi thiếu niên khiến anh nhận ra mình thích đàn ông.

Rốt cục, cuộc chạy trốn của anh lại dẫn anh đến với thứ chính anh muốn chối bỏ. Âm hưởng của sự dịch chuyển, những chuyến tàu hỏa, những đôi chân lang thang trên đường phố vang vọng suốt Căn phòng của Giovanni. Đó là tiếng động đầy ám ảnh của một tâm hồn hãi sợ, không ngừng bỏ trốn khỏi căn cước của chính mình.

Căn phòng của Giovanni cho đến nay đã được công nhận là một trong những tiểu thuyết quan trọng bậc nhất trong phong trào văn học đồng tính.

Tiểu thuyết được xếp hạng nhì trong danh sách 100 tiểu thuyết đồng tính xuất sắc của báo The Publishing Triangle và cũng nằm trong danh sách 100 tác phẩm ảnh hưởng lớn của BBC.

Nguồn: https://zingnews.vn/hanh-trinh-di-tim-ban-nga-cua-ga-dan-ong-that-bai-post1131634.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng