Connect with us

Sách hay

UFO – những nghi vấn chưa giải thích được

Được phát hành

,

Dấu hiệu về UFO được nhiều hành khách quan sát thấy trên chuyến bay JAL-Flight 1628 vào năm 1986, và được nghiên cứu bởi Cục Hàng không Liên bang Mỹ.

Được sự đồng ý của alphabooks – đơn vị giữ bản quyền – Zing trích đăng cuốn sách “Vật lý của những điều tưởng chừng bất khả” của tác giả Michio Kaku.

Một số người cho rằng người ngoài hành tinh đã viếng thăm Trái Đất bằng UFO (vật thể bay không xác định). Các nhà khoa học thường tỏ ý không tin khi nhắc đến UFO và gạt bỏ khả năng chúng tồn tại, bởi khoảng cách giữa các ngôi sao là quá lớn. Nhưng bất chấp phản ứng tiêu cực từ giới khoa học, những báo cáo về UFO vẫn không hề giảm đi theo thời gian.

Những vòng tròn bí ẩn trên bầu trời

Những tuyên bố về việc nhìn thấy UFO thực ra đã có từ khi lịch sử bắt đầu được ghi nhận. Trong Kinh Thánh, nhà tiên tri Ezekiel đề cập tới sự hiện diện của “những vòng tròn trong vòng tròn trên bầu trời” đầy bí ẩn – một số người tin rằng ông ám chỉ UFO. Năm 1450 TCN, trong thời trị vì của pharaoh Thutmose III, những sử gia Ai Cập đã ghi nhận một sự việc liên quan tới “những vòng tròn lửa” sáng hơn Mặt Trời, có kích thước khoảng 5 m, xuất hiện trong vài ngày và cuối cùng bay vút lên trời.

Năm 91 TCN, tác gia người La Mã Julius Obsequens đã viết về “một vật tròn, giống quả cầu, có lớp bảo vệ tròn bay ngang qua bầu trời”. Năm 1233, tướng Yoritsume và quân lính của ông đã nhìn thấy những quả cầu sáng kỳ lạ nhảy múa trên bầu trời gần Kyoto, Nhật Bản. Năm 1561, nhiều vật sáng được nhìn thấy bên trên khu vực Nuremberg của Đức, như thể đang sẵn sàng không chiến.

Vat the bay khong xac dinh anh 1

Gần đây hơn, Không quân Mỹ đã tiến hành nghiên cứu trên diện rộng về những lần UFO được báo cáo là quan sát thấy. Năm 1952, họ khởi động Dự án Sách Xanh, phân tích tổng cộng 12.618 quan sát. Báo cáo kết luận rằng phần lớn trường hợp ghi nhận có thể được giải thích là các hiện tượng tự nhiên, máy bay thông thường hoặc đôi khi là trò lừa bịp. Chỉ khoảng 6% là được xếp vào những hiện tượng chưa rõ nguồn gốc. Nhưng theo kết luận của Báo cáo Condon, nghiên cứu trên không có giá trị gì và Dự án Sách Xanh đã bị ngưng lại vào năm 1969. Đây là dự án nghiên cứu UFO trên diện rộng được biết đến gần nhất của Không quân Mỹ.

Năm 2007, chính phủ Pháp công bố kho hồ sơ đồ sộ về UFO. Các báo cáo này được Trung tâm Quốc gia Pháp về các Nghiên cứu Không gian đăng tải miễn phí trên Internet, với 1.600 trường hợp quan sát thấy UFO được thu thập trong 50 năm qua, bao gồm 100.000 trang giấy về các nhân chứng, phim ảnh và băng ghi âm. Chính phủ Pháp cho biết 9% trong số đó có thể được giải thích đầy đủ, 33% có thể được lý giải một phần, tuy nhiên phần còn lại vẫn là bí ẩn.

Dĩ nhiên, rất khó để xác minh độc lập các bằng chứng đó. Trong thực tế, hầu hết báo cáo về UFO khi được phân tích cẩn thận, đều rơi vào các trường hợp:

1. Kim Tinh, hành tinh sáng nhất trên bầu trời đêm chỉ sau Mặt Trăng. Vì khoảng cách xa vời vợi đến Trái Đất nên hành tinh này trông như đang chạy theo ta nếu ta lái xe, gây ảo giác là nó đang neo theo ta như Mặt Trăng vậy. Chúng ta thường xét đoán khoảng cách một phần nhờ đối chiếu các vật đang chuyển động với khung cảnh quanh đó. Tuy nhiên, vì Mặt Trăng và Kim Tinh ở rất xa nên không thể đối chiếu với vật khác, gây cảm giác chúng không chuyển động so với khung cảnh quanh chúng ta, từ đó tạo ảo giác quang học là chúng đang theo chân mình.

2. Khí đầm lầy. Khi xảy ra hiện tượng nghịch nhiệt trên một khu đầm lầy, khí bốc lên khỏi mặt đất và có thể cháy lập lòe. Các tụ khí nhỏ có thể tách ra từ một quầng khí lớn, tạo cảm giác giống các tàu do thám rời “tàu mẹ”.

3. Thiên thạch. Các vệt sáng rực có thể vụt qua bầu trời đêm trong tích tắc, gây ảo giác giống một tàu hoa tiêu. Chúng cũng có thể vỡ ra, tạo cảm giác như các tàu do thám đang rời tàu mẹ.

4. Các hiện tượng khí quyển dị thường. Sấm chớp và các hiện tượng khí quyển bất thường đều có thể thắp sáng bầu trời đêm theo những cách lạ kỳ, tạo ảo giác về UFO.

Trong thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, các hiện tượng sau cũng tạo ra những dấu hiệu được cho là UFO, bao gồm:

1. Tiếng vọng radar. Sóng radar có thể bật ra từ các ngọn núi và tạo ra tiếng vọng mà các trạm radar dò thấy. Trên màn hình radar, những sóng này thậm chí xuất hiện theo đường dích dắc và chuyển động với tốc độ lớn vì chúng chỉ là các tiếng vọng.

2. Bóng thám không phục vụ nghiên cứu và dự báo thời tiết. Trong một báo cáo gây nhiều tranh cãi, quân đội Mỹ tuyên bố tin đồn nổi tiếng vào năm 1947 về phi thuyền ngoài hành tinh ở Roswell, New Mexico thực ra chỉ là một bóng thám không lạc đường của Dự án Mogul. Đây là một dự án bí mật đo đạc mức độ phóng xạ trong bầu khí quyển phòng trường hợp chiến tranh hạt nhân nổ ra.

3. Máy bay. Các chuyến bay thương mại và quân sự khá phổ biến trong các báo cáo về UFO, đặc biệt là chuyến bay tập của các máy bay thử nghiệm tân tiến, như máy bay ném bom tàng hình. (Quân đội Mỹ thực ra còn khuyến khích các câu chuyện về đĩa bay nhằm đánh lạc hướng dư luận khỏi các dự án bí mật của họ).

4. Trò bịp có chủ đích. Một số bức ảnh chụp đĩa bay nổi tiếng nhất thực ra chỉ là trò bịp. Trong đó, một chiếc đĩa bay có cả cửa sổ và càng đáp thực ra chỉ là cái máng cho gà ăn được hóa trang kỹ lưỡng

Nghi vấn còn để ngỏ

Ít nhất 95% bằng chứng về UFO có thể bị bác bỏ do một trong những cách lý giải trên. Nhưng nghi vấn vẫn còn để ngỏ đối với vài phần trăm chỉ dấu chưa giải thích được. Các trường hợp đáng tin nhất về UFO bao gồm: (a) những dấu hiệu được nhiều nhân chứng xác nhận độc lập và đáng tin và (b) bằng chứng đến từ nhiều nguồn khác nhau như tận mục sở thị và từ các radar.

Vat the bay khong xac dinh anh 2
Đồ họa về vật thể bay nghi là UFO theo lời kể của cơ trưởng Terauchi năm 1986.

Những báo cáo như vậy khó bác bỏ hơn vì chúng liên quan tới những kiểm chứng độc lập. Chẳng hạn, một dấu hiệu về UFO được quan sát thấy trên chuyến bay JAL-Flight 1628 vào năm 1986, được nghiên cứu bởi Cục Hàng không Liên bang Mỹ. UFO được các hành khách trên chuyến bay JAL nhìn thấy và các radar trên mặt đất cũng bắt được các tín hiệu này.

Tương tự, hàng loạt dấu hiệu sóng radar mạnh từ một đĩa bay màu đen hình tam giác trên bầu trời nước Bỉ vào thời điểm chuyển giao năm 1989-1990 được dò thấy bởi các radar của NATO (Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương) cùng các tiêm kích phản lực. Vào năm 1976, một dấu hiệu xuất hiện ở Tehran, Iran đã khiến cho hệ thống đa nhiệm của một tiêm kích F-4 ngưng hoạt động, theo ghi nhận trong các tài liệu của CIA.

Điều khiến các nhà khoa học nản lòng là dù có hàng nghìn dấu hiệu được ghi nhận, nhưng không một dấu hiệu nào mang bằng chứng rõ ràng về vật lý và có thể tái lập trong phòng thí nghiệm. Không có ADN của người ngoài hành tinh, không chip máy tính ngoài hành tinh hay bằng chứng vật lý cho thấy một người ngoài hành tinh đã đáp xuống Trái Đất.

Giả định rằng sẽ đến thời điểm các UFO như vậy là một tàu không gian thực sự chứ không phải ảo giác, chúng ta có thể tự đặt ra câu hỏi chúng trông như thế nào. Đây là một số đặc trưng được ghi nhận bởi những người mục kích:

1. Chúng chuyển động theo đường dích dắc trên không trung.

2. Chúng có khả năng làm xe cộ ngưng hoạt động và phá hủy hệ thống điện khi bay ngang qua.

3. Chúng im lìm lơ lửng trong không khí.

Không có đặc trưng nào trong số đó giống những tên lửa mà chúng ta đã chế tạo trên Trái Đất. Chẳng hạn, mọi chiếc tên lửa đã biết đều phụ thuộc vào định luật III Newton về chuyển động, nhưng các UFO này dường như không hề có sự thoát khí nào. Và lực quán tính mà chuyển động dích dắc của các đĩa bay tạo ra có thể lớn hơn lực hấp dẫn của Trái Đất cả trăm lần và bóp nát bất cứ sinh vật nào trên hành tinh của chúng ta.

Vậy chúng ta có thể sử dụng khoa học hiện đại để giải thích các đặc trưng này của UFO không? Trong điện ảnh, như phim Earth vs the Flying Saucers (Trái đất và chiếc đĩa bay), các sinh vật ngoài hành tinh luôn được giả định là đang điều khiển các phi thuyền không gian này. Tuy nhiên, nếu những phi thuyền như vậy tồn tại, chúng phải là loại không người lái (hoặc do những sinh vật nửa người nửa máy lái). Có như vậy, chúng ta mới giải thích được cách mà phi thuyền vượt qua được những tác động do lực quán tính gây ra mà không khiến sinh vật bên trong nó bị ảnh hưởng.

Nếu một tàu không gian có thể ngưng hoạt động của xe hơi và di chuyển tĩnh lặng trong không khí thì nó có thể là một thiết bị được từ trường đẩy. Vấn đề với việc đẩy bằng từ trường là các nam châm luôn có hai cực, bắc và nam. Nếu ta đặt một nam châm trong từ trường Trái Đất, nó sẽ quay (giống như kim chỉ nam) chứ không thể nâng lên trong không khí giống như một UFO; khi cực bắc của nam châm di chuyển theo một hướng, cực nam sẽ di chuyển theo hướng ngược lại, khiến nam châm quay và cả nam châm không dịch chuyển vị trí.

Một giải pháp khả thi cho vấn đề này là sử dụng “đơn cực từ” – các nam châm chỉ có một cực bắc hoặc nam. Thông thường, khi bẻ đôi một nam châm, ta sẽ không thu được hai cực nam châm riêng rẽ. Thay vào đó, mỗi nửa nam châm sẽ trở thành một nam châm mới, đều có cả hai cực bắc và nam, tức là lại trở về trạng thái lưỡng cực. Vì vậy có tiếp tục bẻ nhỏ nam châm, ta cũng sẽ luôn thu được các nam châm có đồng thời cực bắc và nam.

Thành ra, nhiều người tin rằng một giống loài ngoài không gian nào đó có thể thu hoạch những “đơn cực từ nguyên thủy” còn sót lại từ Vụ Nổ Lớn bằng cách phóng một “lưới từ” lớn vào không gian. Khi đã gom đủ số lượng đơn cực từ, họ có thể lướt đi trong không gian, sử dụng các đường sức từ trong thiên hà hoặc trên một hành tinh mà không cần tạo ra lực đẩy bằng khí phản lực. Vì các đơn cực từ là chủ để được quan tâm rộng khắp trong cộng đồng các nhà vũ trụ học nên sự tồn tại của một tàu không gian như vậy là hoàn toàn phù hợp với lối suy nghĩ hiện nay trong vật lý.

Cuối cùng, nếu một nền văn minh ngoài Trái Đất phát triển đủ mạnh để gửi các tàu liên sao xuyên vũ trụ thì nền văn minh đó hẳn đã làm chủ được công nghệ nano. Điều này có nghĩa là những con tàu không gian của họ không nhất thiết phải quá cồng kềnh; họ có thể gửi hàng triệu tàu đi khám phá những hành tinh có sự sống. Những mặt trăng hoang vắng có lẽ là căn cứ tốt nhất cho những tàu nano này.

Nếu điều đó xảy ra, có lẽ Mặt Trăng của chúng ta đã từng được một nền văn minh bậc III viếng thăm, giống như trong phim 2001 – bộ phim mô tả thực tế nhất về một cuộc chạm trán với một nền văn minh ngoài Trái Đất. Tàu không gian đó rất có thể không có người lái, hoạt động nhờ robot và đáp xuống Mặt Trăng. Phải mất hàng thế kỷ nữa thì công nghệ của chúng ta mới đủ tiến bộ để quét toàn bộ Mặt Trăng nhằm dò tìm các bức xạ dị thường, nhờ đó phát hiện các bằng chứng cổ xưa của một tàu nano từng viếng thăm trước đây.

Nếu quả thực Mặt Trăng của chúng ta từng được viếng thăm trong quá khứ hoặc đang là nơi đặt căn cứ cho hoạt động dựa trên công nghệ nano, điều này sẽ giải thích được tại sao các UFO không nhất thiết phải rất lớn. Một số nhà khoa học từng mỉa mai UFO vì chúng không phù hợp với bất cứ thiết kế đẩy phản lực khổng lồ nào mà các kỹ sư ngày nay chế tạo, như động cơ phản lực nhiệt hạch, các cánh buồm lớn sử dụng lực đẩy laser và những động cơ dùng xung hạt nhân những thiết kế có kích thước hàng kilomet. Các UFO có thể nhỏ bằng máy bay phản lực. Nhưng nếu có một căn cứ hoạt động lâu dài trên một mặt trăng thì các UFO không cần phải quá lớn; chúng có thể nạp nhiên liệu từ căn cứ đặt trên mặt trăng gần đó. Vì vậy, các dấu hiệu UFO chưa giải thích được có thể tương ứng với tàu do thám không người lái khởi hành từ căn cứ trên Mặt Trăng.

Với những tiến bộ nhanh chóng của SETI và việc khám phá ra các hành tinh ngoài Hệ Mặt trời, nếu quả thực có những dạng sống thông minh khác tồn tại ở khu vực không gian gần chúng ta thì việc liên lạc với họ có thể diễn ra trong thế kỷ này, vì vậy được xếp vào nhóm Bất khả thi loại I. Nếu có các nền văn minh ngoài Trái Đất tồn tại trong không gian, những câu hỏi hiển nhiên tiếp theo là: Chúng ta có cách nào tiếp cận họ không? Và tương lai xa xôi của chúng ta sẽ thế nào khi Mặt Trời bắt đầu phồng to và nuốt chửng Trái Đất? Định mệnh của chúng ta có thực sự nằm ở các ngôi sao khác không?

Nguồn: https://zingnews.vn/ufo-nhung-nghi-van-chua-giai-thich-duoc-post1102624.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng