Vị vua thiên đô từ Hoa Lư ra Thăng Long là Lý Thái Tổ, vì thế có thể nói Lý Thái Tổ có dấu ấn vô cùng đặc biệt với thủ đô của nước Việt. Tên ông đã được đặt cho con đường lớn ở khu trung tâm.
Lý Thái Tổ (974-1028) tên thật là Lý Công Uẩn, vốn xuất thân là quan võ. Ông là người nổi tiếng về lòng trung nghĩa, từng là tướng dưới quyền Lê Hoàn, được Lê Hoàn yêu quý, gả con gái cho.
Chính vì võ nghệ tinh thông và lòng trung thành của mình mà ông đã thăng tiến rất nhanh. Năm 1005, Lê Hoàn mất, triều đình rối loạn, các hoàng tử tranh giành ngôi báu.
Hoàng tử Lê Long Việt trở thành vua Lê Trung Tông nhưng chỉ được ba ngày, Lê Trung Tông bị em ruột của mình là Lê Long Đĩnh sát hại. Biến cố cung đình đẫm máu, khi xảy ra biến loạn, các quan văn võ đều chạy tránh nạn, chỉ riêng Lý Công Uẩn vẫn ôm xác Lê Trung Tông khóc mà không mảy may lo sợ trả thù.
Chính vì lòng dũng cảm và trung nghĩa hiếm có nên Lê Long Đĩnh, khi trở thành vua Lê Ngọa Triều, đã rất cảm mộ, không những không phạt tội Lý Công Uẩn mà còn tiếp tục trọng dụng ông.
Lý Công Uẩn trở thành Tứ sương quân phó chỉ huy sứ, rồi sau đó được thăng Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ, một chức võ quan cao cấp chỉ dành cho hoàng tộc hoặc quốc thích.
Năm 1009, vua Lê Ngọa Triều mất, triều đình tôn Lý Công Uẩn làm vua với sự phò tá đắc lực của Đào Cam Mộc và thiền sư Vạn Hạnh. Thiền sư Vạn Hạnh vốn là thầy dạy cũ của Lý Công Uẩn và là vị thiền sư nổi tiếng lúc bấy giờ.
Lý Công Uẩn lên ngôi, lấy hiệu là Thuận Thiên (thuận theo lòng trời) và chỉ một năm sau (1010), ông quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long.
Phố Lý Thái Tổ vốn là khúc đê cũ của sông Hồng. Nếu ai muốn biết sự dịch chuyển của sông Hồng ra phía đông thế nào thì có thể nhìn dấu vết từ những con đê cổ này.
Phố Lý Thái Tổ là đê nên bây giờ ta vẫn có thể thấy đường phố cao hơn so với những khu vực xung quanh. Thời Pháp, phố Lý Thái Tổ được gọi là đại lộ Courbet, một trong những tuyến đường quan trọng nằm trong khu vực hành chính trung tâm, rất gần với Bờ Hồ và Nhà hát Lớn.
Tòa nhà đáng chú ý nhất trên phố có lẽ là chi nhánh của Ngân hàng Đông Dương, nay là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Tòa nhà này có một vị trí quan trọng trong kiến trúc Hà Nội, vì nó được coi là công trình tiêu biểu nhất của kiến trúc Art Deco ở Hà Nội. Art Deco là một trường phái nghệ thuật mang tính triết chung có nguồn gốc từ Pháp những năm 1920 và sau đó
lan ra toàn thế giới. Các tòa nhà mang phong cách kiến trúc Art Deco có kiểu dáng hiện đại, đa số là mái bằng, sử dụng vừa phải các trang trí trên mặt tiền. Nằm ở vị trí đẹp và với quy mô to lớn, được trang trí những phiến đá hồng nhạt ốp phía bên ngoài, chi nhánh Ngân hàng Đông Dương cũ được coi là kiến trúc Art Deco hoàn hảo nhất ở Hà Nội.
Ngay gần đối diện Ngân hàng Nhà nước là Vườn hoa Con Cóc. Tại sao gọi là vườn hoa Con Cóc? Vì ở vườn hoa này có một đài phun nước được xây dựng năm 1901 với bốn con cóc bằng đồng phun nước cùng tám con rồng chầu đá. Đài phun nước này nếu nhìn thoáng qua có vẻ khá bình thường nhưng tìm hiểu nguồn gốc thì nó có một lịch sử rất li kì.
Vườn hoa này ban đầu thuộc khu vực có tên là quảng trường Chavassieux (1848-1895). Đó là viên quan cai trị người Pháp ở Đông Dương. Ông này từng giữ chức chủ tỉnh Tây Ninh, khâm sứ Trung kỳ, Thống sứ Bắc kỳ, quyền Toàn quyền Đông Dương và mất ở Hà Nội.
Đặt tên địa danh theo tên vị quan cai trị là điều rất thông thường thời Pháp thuộc nhưng điều đặc biệt ở đây là tiểu sành đựng di hài Chavassieux được đặt trên đỉnh đài phun nước của vườn hoa mang tên ông.
Tôi đã đứng quan sát đài phun nước cổ này rất lâu và quan sát khối quách đá đựng di hài của một viên quan cai trị người Pháp. Tại sao di hài ông ta không đưa về nước, vì sao di hài được đặt ở trên đài phun nước? Có phải vì ông ta chết ở Hà Nội và có sở nguyện được gửi xác ở nơi này?
Đây là vấn đề lý thú cần tiếp tục được tìm hiểu. Chỉ biết rằng vườn hoa Con Cóc (tên chính thức là vườn hoa Diên Hồng) sở hữu đài phun nước cổ nhất Hà Nội.
Đài phun nước ở Vườn hoa Con Cóc. Nguồn: Mạnh Hải flickr |
Đây là đài phun nước có kiến trúc tinh tế, hài hòa dù theo thời gian những đai thép quấn quanh giữ cho các khối đá đứng vững đã hoen gỉ và một cái cây khá lớn đã mọc rất gần cái quách đá của viên quan người Pháp kia. Một cái quách đá được đặt trên một đài phun nước, đó là một điều rất đặc biệt và khác thường trong một kiến trúc cổ ở Hà Nội.
Trên phố Lý Thái Tổ còn có một tòa nhà ghi dấu ấn đáng nhớ của lịch sử Việt Nam hiện đại. Đó là tòa nhà số 38, vốn là câu lạc bộ dành cho người Pháp hiện nằm trong khuôn viên Cung thiếu nhi Hà Nội.
Chính tại tòa nhà này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 với người Pháp. Trong 30 năm đấu tranh vệ quốc, ngành ngoại giao Việt Nam có ba Hiệp định quan trọng mang tính cột mốc. Đó là Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946, Hiệp định Genève 1954 và Hiệp định Paris 1972.
Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 tuy chưa phải hiệp định chấm dứt chiến tranh như hai hiệp định sau đó nhưng nó có một ý nghĩa rất lớn. Đó là hiệp định dùng để củng cố chính quyền cách mạng còn non trẻ, hạn chế các thế lực thù trong, giặc ngoài, chuẩn bị lực lượng cho những bước tiếp theo của cách mạng Việt Nam.
Theo thời gian, những dấu vết trên con phố xưa có chỗ còn nguyên vẹn có nơi phai nhạt dần và có chỗ đang thành phế tích. Tôi đi dọc con phố và suy tư về những gì từng diễn ra ở nơi này, ngắm những cây long não cổ thụ hơn trăm năm tuổi. Đời cây, đời người, lịch sử với bao biến đổi, thăng trầm, giờ đi tìm những góc xưa, phố cũ để hoài niệm thương nhớ một thời dĩ vãng.