Connect with us

Sách hay

Chú ngựa biết làm toán và những cú lừa ‘ngoại cảm’

Được phát hành

,

Clever Hans từng khiến người châu Âu ngạc nhiên khi chú có thể thực hiện những phép tính phức tạp. Ví dụ, nếu yêu cầu Clever Hans lấy 48 chia cho 6, chú sẽ gõ móng xuống đất 8 lần.

Được sự đồng ý của alphabooks – đơn vị giữ bản quyền – Zing trích đăng cuốn sách “Vật lý của những điều tưởng chừng bất khả” của tác giả Michio Kaku.

Cuốn tiểu thuyết Slan của nhà văn A. E. van Vogt đã cho thấy tiềm năng to lớn của sức mạnh ngoại cảm, đồng thời lột tả nỗi sợ hãi thầm kín nhất của chúng ta về nó.

Jommy Cross, nhân vật chính của câu chuyện, là một “slan” – một chủng tộc có trí thông minh siêu việt và khả năng ngoại cảm, đang trên đà tuyệt chủng.

Cha mẹ anh bị một đám đông giận dữ giết hại dã man. Những người này sợ hãi và khinh miệt khả năng ngoại cảm vì lo ngại sức mạnh to lớn của những nhà ngoại cảm có thể xâm phạm đời tư của họ, kể cả những suy nghĩ thầm kín nhất. Con người nhẫn tâm săn đuổi các slan, giống như săn thú vật. Với những chiếc râu đặc trưng trên đầu, các slan rất dễ bị nhận diện. Mạch truyện chính mô tả việc Jommy cố gắng liên lạc với các slan, trốn ra ngoài không gian để thoát khỏi sự săn lùng của loài người.

Ngoại cảm

Về phương diện lịch sử, khả năng đọc ý nghĩ được coi là quan trọng đến nỗi nó thường liên quan tới thánh thần. Một trong những quyền lực mạnh mẽ nhất của bất cứ vị thần nào là khả năng đọc suy nghĩ người khác, nhờ đó, phản hồi lại được những lời cầu nguyện thầm kín.

Một nhà ngoại cảm thực sự đọc được ý nghĩ của người khác có thể dễ dàng trở nên giàu có và quyền lực bậc nhất thế giới vì họ biết những ông chủ nhà băng phố Wall đang nghĩ gì và dùng nó để tống tiền hay cưỡng ép các đối thủ. Người đó sẽ trở thành mối đe dọa đối với an ninh chính phủ, có thể dễ dàng đánh cắp những bí mật quốc gia nhạy cảm. Giống như các slan, người đó sẽ gây sợ hãi và có thể bị săn đuổi.

Vat ly cua nhung dieu tuong chung bat kha anh 1

Sức mạnh to lớn của một nhà ngoại cảm thực sự được nêu bật trong loạt truyện nổi tiếng Foundation (Kiến tạo) của văn hào Isaac Asimov, thường được quảng bá là thiên sử thi khoa học viễn tưởng lớn nhất mọi thời đại.

Trong truyện, một Đế quốc Thiên hà hàng nghìn năm tuổi đang trên bờ vực suy tàn và sụp đổ. Bằng các phương trình phức tạp, một hội kín gồm các nhà khoa học, tự xưng là những nhà kiến tạo ẩn mình, đã tiên đoán Đế quốc sẽ sụp đổ và nền văn minh của họ sẽ bị chôn vùi trong 30.000 năm tăm tối. Họ phác thảo một kế hoạch tỉ mỉ dựa trên các phương trình này nhằm giảm thiểu quãng thời gian suy tàn của nền văn minh. Nhưng rồi thảm họa vẫn xảy ra.

Các phương trình phức tạp của họ đã không thể tiên đoán một sự kiện nhỏ: sự ra đời của một người đột biến tên Mule, có khả năng điều khiển suy nghĩ từ xa và do đó nắm luôn quyền điều khiển Đế quốc Thiên hà. Thiên hà sẽ bị đọa đày trong 30.000 năm tăm tối và hỗn loạn nếu khả năng ngoại cảm của Mule không bị chặn lại.

Mặc dù khoa học viễn tưởng đầy rẫy những câu chuyện tuyệt vời liên quan tới khả năng ngoại cảm như vậy, nhưng sự thật lại trần trụi hơn nhiều. Vì suy nghĩ mang tính cá nhân và vô hình nên suốt nhiều thế kỷ, những tên lang băm và những kẻ bịp bợm đã tận dụng nó để lợi dụng sự ngây thơ và cả tin của nhiều người.

Một mánh đơn giản của các ảo thuật gia và các nhà tâm thần học là sử dụng “chân gỗ” – đây là một cộng sự được cài trong đám khán giả và người chủ trò có thể dễ dàng “đọc” ý nghĩ của vị “khán giả“ này.

Thực tế, công việc của một số ảo thuật gia và tâm thần học dựa trên “thủ thuật chiếc mũ” nổi tiếng, trong đó khán giả được yêu cầu viết những thông điệp cá nhân lên các mẩu giấy rồi đặt chúng vào trong một chiếc mũ. Sau đó, trước sự ngỡ ngàng của khán giả, nhà ảo thuật sẽ nói cho họ biết những gì được viết trên các mẩu giấy.

Có một cách lý giải đơn giản vô cùng cho mánh lới tinh vi này. Hãy rút mẩu giấy đầu tiên và đọc thầm để biết cái tên ghi trên đó, nhưng lại hô lên rằng bạn đang không đọc được nó vì “đám mây” đang bao phủ lấy nó. Sau đó hãy rút ra mẩu giấy thứ hai nhưng đừng vội mở ra. Giờ bạn đọc lại cái tên đã thấy trong mẩu giấy đầu tiên.

Người đã viết tên lên mẩu giấy đầu tiên sẽ bị mê hoặc vì nghĩ rằng bạn đã đọc tên anh ta từ mẩu giấy thứ hai còn chưa mở. Bây giờ, hãy mở mẩu giấy thứ hai ra và đọc thầm cái tên trên đó. Sau đó rút mẩu giấy thứ ba từ chiếc mũ và đọc lớn cái tên được ghi trên mẩu giấy thứ hai. Tiếp tục lặp lại quá trình này. Mỗi lần bạn đọc to cái tên ghi trên một mẩu giấy, thực ra là bạn đang đọc thông tin ở mẩu giấy đã rút ra trước đó.

Một trường hợp ngoại cảm nổi tiếng lại không gắn liền với một chân gỗ mà với một con vật, đó là chú ngựa thông minh Clever Hans, từng gây ngạc nhiên cho khán giả châu Âu vào những năm 1890. Trước sự sửng sốt của người xem, Clever Hans có thể thực hiện những phép tính phức tạp. Ví dụ, nếu ta yêu cầu Clever Hans lấy 48 chia cho 6, chú sẽ gõ móng xuống đất 8 lần.

Clever Hans có thể thực hiện phép chia, phép nhân, cộng các phân số, đánh vần, thậm chí nhận biết các nốt nhạc. Người hâm mộ Clever Hans tuyên bố chú ngựa này thông minh hơn cả con người, hoặc chú có thần giao cách cảm với não bộ của con người.

Vat ly cua nhung dieu tuong chung bat kha anh 2
Chú ngựa Clever Hans trong một lần biểu diễn.

Nhưng Clever Hans không phải là sản phẩm của những trò bịp khéo léo. Khả năng tính toán đại số tuyệt vời của Clever Hans thậm chí còn gây ngỡ ngàng cho cả người huấn luyện chú. Năm 1904, nhà tâm lý học lỗi lạc – giáo sư C. Strumpf – được đề nghị phân tích khả năng của chú ngựa và ông không tìm thấy bằng chứng rõ ràng nào về sự lừa đảo hay việc ra dấu kín cho chú ngựa. Điều này càng khiến cộng đồng thêm ngưỡng mộ Clever Hans.

Tuy nhiên, ba năm sau, một học trò của Strumpf là nhà tâm lý học Oskar Plungst đã tiến hành những bài kiểm tra chặt chẽ hơn dành cho Clever Hans và cuối cùng đã khám phá ra bí mật của nó. Tất cả những gì chú ngựa đã làm là quan sát biểu cảm tinh tế trên khuôn mặt người nài ngựa. Chú sẽ tiếp tục gõ móng xuống đất cho đến khi biểu cảm trên khuôn mặt người huấn luyện thay đổi thì ngừng lại. Clever Hans không đọc được ý nghĩ của con người hay thực hiện được phép tính đại số nào cả, chú chỉ đơn giản là giỏi quan sát các biểu cảm trên khuôn mặt người.

Lịch sử cũng ghi nhận những động vật “thần giao cách cảm” khác. Vào đầu năm 1591, chú ngựa Morocco trở nên nổi tiếng ở Anh và làm giàu cho chủ nó bằng cách chỉ đúng vào những chữ cái mà khán giả yêu cầu và làm phép cộng tổng số chấm tròn trên một cặp xúc xắc. Morocco tạo cho người Anh cảm giác như thể Shakespeare đã lấy cảm hứng từ chú để xây dựng “chú ngựa nhảy múa” trong vở kịch Love’s Labour’s Last (Uổng sức yêu đương) của ông.

Những tay cờ bạc cũng có khả năng đọc được ý nghĩ của người khác trong chừng mực nhất định. Khi một người cảm thấy thoải mái, đồng tử thường giãn ra. Khi họ thấy gì đó không ưng ý (hay khi họ thực hiện tính toán), đồng tử sẽ co lại. Những con bạc có thể đọc được cảm xúc của đối phương bằng cách quan sát xem đồng tử của đối phương đang giãn ra hay co lại. Đó là lý do những tay cờ bạc thường đeo kính sẫm màu, nhằm che đậy sự thay đổi của đồng tử.

Chúng ta cũng có thể chiếu một chùm laser yếu lên đồng tử môt người và phân tích chùm tia phản xạ lại, nhờ đó xác định được chính xác người này đang nhìn đi đâu. Bằng cách phân tích chuyển động của những đốm laser phản xạ lại, chúng ta xác định được họ đang quan sát một bức tranh như thế nào. Kết hợp hai kỹ thuật này, chúng ta sẽ xác định được phản ứng cảm xúc của một người khi đang xem một bức tranh, trong khi người này hoàn toàn không hay biết gì.

Nghiên cứu tâm linh

Năm 1927, tiến sĩ Joseph Banks Rhine bắt đầu thực hiện những nghiên cứu nghiêm túc và có tính hệ thống về các hiện tượng tâm linh tại Mỹ, lập nên Viện Rhine (nay là Trung tâm Nghiên cứu Rhine) tại Đại học Duke, Bắc Carolina. Trong nhiều năm, ông cùng vợ là Louisa đã thực hiện những thí nghiệm khoa học có kiểm soát đầu tiên ở Mỹ về nhiều hiện tượng cận tâm lý học: và xuất bản các công trình này dưới dạng sách bình duyệt. Chính Rhine là người sáng tạo ra thuật ngữ “giác quan thứ sáu” trong một trong những cuốn sách đầu tiên của mình.

Thực tế, phòng thí nghiệm của Rhine đã đặt ra chuẩn mực cho lĩnh vực nghiên cứu tâm linh. Một trong những phụ tá của ông là tiến sĩ Karl Zener đã phát triển một bộ bài năm ký tự, nay được gọi là bộ bài Zener, để phân tích sức mạnh của khả năng ngoại cảm. Phần lớn các kết quả nghiên cứu không cho thấy bằng chứng nào về hiện tượng ngoại cảm, nhưng một số ít dường như hàm chứa những mối liên hệ dữ liệu tuy nhỏ nhưng đáng chú ý, khó có thể là ngẫu nhiên được. Chỉ có một vấn đề là thường thì các nhóm nghiên cứu khác không thể tái lập lại các thí nghiệm này.

Nỗ lực gây dựng tiếng tăm của Rhine ít nhiều bị ảnh hưởng trong vụ việc chú ngựa Lady Wonder. Chú ngựa này có những ngón nghề gây sửng sốt về khả năng ngoại cảm, như gõ vào các khối đồ chơi có in chữ cái, đánh vần những từ mà người xem đang nghĩ đến. Rõ ràng là Rhine không biết về chú ngựa Clever Hans.

Năm 1927, Rhine đã phân tích chi tiết khả năng của Lady Wonder và đi đến kết luận: “Chỉ còn lại một khả năng dễ lý giải cho điều này, đó là hiện tượng ngoại cảm, một quá trình truyền dẫn các ảnh hưởng thần kinh mà chúng ta chưa biết đến”.

Sau này, nhà ảo thuật người Mỹ Milbourne Christopher đã tiết lộ nguồn gốc thực sự của khả năng ngoại cảm ở Lady Wonder: những chuyển động tinh tế của chiếc roi da mà người huấn luyện cầm trên tay. Chính những chuyển động này đã ra hiệu cho Lady Wonder ngừng gõ móng guốc.

Nhưng kể cả khi sự thật được phơi bày, Rhine vẫn tin rằng Lady Wonder thực sự có khả năng ngoại cảm, nhưng bằng cách nào đó nó đã đánh mất sức mạnh đó, khiến cho chủ nhân của nó sau này phải viện tới những mánh lới trên.

Tuy nhiên, danh tiếng của Rhine tan thành mây khói khi ông chuẩn bị nghỉ hưu. Thời điểm đó, ông đang tìm kiếm một người kế nhiệm có tiếng tăm để tiếp tục công việc ở Viện. Một ứng viên đầy hứa hẹn là tiến sĩ Walter Levy, được ông thuê vào năm 1973. Là ngôi sao đang lên trong lĩnh vực cận tâm lý học, tiến sĩ Levy thông báo một số kết quả gây xôn xao dư luận, rằng dường như ông đã chứng tỏ được những con chuột có thể làm thay đổi các bộ đếm số ngẫu nhiên của máy tính thông qua thần giao cách cảm.

Các nhân viên của phòng thí nghiệm cảm thấy nghi ngờ và đã phát hiện việc tiến sĩ Levy lén lút lẻn vào phòng thí nghiệm ban đêm để thay đổi kết quả thí nghiệm. Những thí nghiệm sau đó đều cho thấy những con chuột không có chút khả năng ngoại cảm nào, còn tiến sĩ Levy bị buộc phải ngưng công việc tại Viện trong tủi nhục.

Nguồn: https://zingnews.vn/chu-ngua-biet-lam-toan-va-nhung-cu-lua-ngoai-cam-post1100802.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng