Connect with us

Văn mẫu 7

Kiến thức về bài thơ “Rằm tháng giêng”

Được phát hành

,

Rằm tháng giêng là một bài thơ viết bằng chữ Hán, nguyên tác là Nguyên tiêu. Nguyên tác bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, được nhà thơ Xuân Thuỷ dịch ra thể lục bát. Trong việc chuyển tải nội dung của bản gốc sang bản dịch thơ, đôi khi dịch giả rất khó thể hiện được ý đồ nghệ thuật của nguyên tác trong bản dịch. Vì vậy, trong quá trình tìm hiểu, phân tích, rất cần phải có sự bám sát ý nghĩa của nguyên tác qua bản phiên âm và bản dịch nghĩa.

1. Bố cục của bài thơ

Bài thơ gồm bốn câu, căn cứ vào nội dung có thể chia thành hai phần:

– Hai câu đầu: Cảnh đêm rằm tháng giêng.

– Hai câu cuối: Hình ảnh người chiến sĩ cách mạng.

Tuy nhiên, cách chia đoạn trên chỉ mang ý nghĩa tương đối, vì ở hai câu đầu đằng sau cảnh đêm rằm là tâm hồn của người chiến sĩ cách mạng – nhân vật trữ tình, và hai câu cuối tuy hình ảnh trung tâm là con người, song hình ảnh con người lại gắn với không gian và cảnh vật của đêm trăng.

2. Bức tranh đêm rằm tháng giêng

Bức tranh được mở ra với vẻ đẹp viên mãn của vầng trăng đêm rằm:

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên

(Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn nhất)

Vẻ đẹp của vầng trăng đêm rằm, lại là đêm rằm tháng giêng – tháng khởi đầu của một năm mới, là một vẻ đẹp tròn đầy, viên mãn, toả ánh sáng tràn ngập khắp nơi. Cùng với ánh sáng trong trẻo, tươi đẹp ấy là sức xuân, hơi thở của mùa xuân cũng lan toả, tràn khắp đất trời sông nước:

Xuân giang xuân thuỷ tiếp xuân thiên

(Sông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân)

Một câu thơ bảy tiếng mà có tới ba từ “xuân”, khiến người đọc có cảm giác sức xuân, khí xuân rất mạnh mẽ, đang trỗi dậy, lan toả khắp dòng sông, mặt nước, bầu trời. Trăng rằm tròn vành vạnh đem nguồn sáng chiếu rọi để thấy được bầu không khí xuân tràn ngập toàn vũ trụ. Người dịch đã đưa chữ “xuân” lên câu thứ nhất để giữ đủ ba chữ “xuân”, tuy nhiên, nếu như đọc liền cả ba chữ “xuân” thì ý nghĩa hơn; và câu thơ dịch đầu tiên cũng chưa chuyển tải được ý nghĩa của nguyên tác, dịch là “lồng lộng trăng soi” chưa chuyển tải được ý nghĩa của cụm từ “nguyệt chính viên” – miêu tả vầng trăng đúng độ tròn đầy, viên mãn. Mặc dù vậy, bản dịch cũng đã phần nào thể hiện được cái hồn của nguyên tác khi phác hoạ được cảnh một đêm rằm mùa xuân tươi đẹp, phơi phới tràn đầy vẻ xuân, sắc xuân. Nhân vật trữ tình hoà vào trong bầu không khí xuân ấy ở vị trí đang ngồi trên thuyền, dễ cảm nhận được cái mênh mông vô tận của sắc xuân tràn ngập xung quanh.

3. Hình tượng của người chiến sĩ cách mạng

Nếu như hai câu thơ đầu là cảm hứng trước vẻ đẹp của đêm nguyên tiêu, thì ở hai câu cuối lại là một cảm hứng lớn lao, cao đẹp hơn:

Yên ba thâm xứ đàm quân sự,

Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
(Nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quân,

Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền.)

Có thể nói, ở hai câu thơ cuối, đặc biệt là câu thơ thứ ba, hình tượng trung tâm của bài thơ là một hình tượng mới mẻ của những bài thơ viết về “trăng”. Hình ảnh “yên ba thâm xứ” là một hình ảnh ẩn dụ quen thuộc trong thơ cổ, diễn tả làn sương bay trên sông mờ ảo như khói toả trên mặt sóng. Và ở nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng, trong ánh trăng chan hoà không gian và hơi xuân lan toả khắp đất trời, sông nước, hoá ra không phải là những bậc tao nhân mặc khách đang uống rượu thưởng trăng, đàm đạo thơ phú, cũng không phải là ẩn sĩ tìm đến thâm sơn cùng cốc để di dưỡng tính tình mà là những người cách mạng đang “đàm quân sự”, đang bàn kế sách đánh giặc. Không gian sông nước với khói sóng mịt mờ hoá ra chỉ là yếu tố, điều kiện để đảm bảo an toàn, bí mật cho những kế hoạch; chiến lược của những người lãnh đạo cách mạng. Và sau khi bàn việc quân, công việc đầy tính thực tế, khô khan, họ đã trở về với cảm hứng lãng mạn tràn ngập: “Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”.

Con thuyền để bàn việc quân – con thuyền quân sự khi trở về đã trở thành con thuyền thơ, con thuyền ánh sáng, đầy ắp ánh trăng xuân. Tưởng chừng việc quân cơ sẽ làm mất đi cảm hứng, sự rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên, thế nhưng, với vị lãnh tụ Hồ Chí Minh, cả hai đã hoà nhập thống nhất tuyệt đẹp ở câu thơ kết. Đó chính là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa thép và tình, giữa màu sắc cổ điển với chất hiện đại trong tâm hồn người chiến sĩ cách mạng. Câu thơ cuối đã thể hiện một phong thái ung dung, lạc quan và một tâm hồn đầy chất nghệ sĩ.

4. Sự kế thừa đầy sáng tạo vẻ đẹp thơ cổ điển

Thơ xưa thường lấy thi liệu là thiên nhiên, vẻ đẹp của trăng, sông nước, núi non, mùa xuân, hình ảnh khói sóng trên sông,… thường là khơi dậy trong tâm hồn thi nhân cám hứng sáng tác. Vậy nên, trong Rằm tháng giêng, những hình ảnh của trăng xuân, sông xuân, trời xuân, hình ảnh con thuyền đi trong hơi sương mịt mờ như khói sóng, mang đậm hương vị cổ. Lý Bạch có Tĩnh dạ tứ, Trương Kế có Phong Kiều dạ bạc, Thôi Hiệu có Hoàng Hạc lâu, Nguyễn Du trong Truyện Kiều cũng rất nhiều lần tả hình ảnh vầng trăng, sông núi,… Việc vận dụng những thi liệu của thơ ca cổ đã đem lại cho Rằm tháng giêng một màu sắc một dáng vẻ cổ điển.

Tuy nhiên, nhà thơ ở đây không chỉ biết kế thừa mà còn thổi hồn vào bài thơ hơi thở của thời đại cách mạng. Đặt bài thơ trong hoàn cảnh những ngày tháng đầu tiên của cuộc kháng chiến chống Pháp đầy khó khăn, thiếu thốn, vận mệnh dân tộc đang bị đe doạ, ta mới thấm thía được phong thái lạc quan, ung dung làm chủ hoàn cảnh của người chèo lái con thuyền cách mạng. Con người vĩ đại ấy là nhà tư tưởng, nhà cách mạng đồng thời có tâm hồn nghệ sĩ tinh tế. Chính vì vậy mà bài thơ tuy mang phong vị thơ cổ điển, nhưng vẫn thấy toát lên chất hiện đại, hơi thở và nhịp sống của thời đại cách mạng.

* Bài thơ đã miêu tả thành công vẻ đẹp của đêm nguyên tiêu, với ánh trăng tươi đẹp viên mãn, toả sáng khắp đất trời sông nước, sức sống mùa xuân tràn ngập. Đằng sau bức tranh ấy là sự hoà quyện vẻ đẹp của tâm hồn người chiến sĩ cách mạng với tâm hồn một thi sĩ giàu cảm xúc.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 7

Biểu cảm về loài cây em yêu: cây bàng

Được phát hành

,

Bởi

Trước sân nhà em có một cây bàng. Trường em cũng rất nhiều bàng. Hai bên hè phố nơi em ở lại là những dãy bàng xanh ngút ngái. Những cây bàng đứng đó, nhìn em lớn lên và lưu giữ bao kỷ niệm ấu thơ. Em yêu cây bàng như yêu một người bạn gần gũi nhất, thân thương nhất và không bao giờ vắng mặt trong cuộc sống của em.

Vào mùa nào, cây bàng cũng có một vẻ đẹp riêng, khi trẻ trung xanh mướt khi già cỗi, sắt siu. Cây bàng lúc tươi tắn, lúc trầm ngâm, lúc vui, lúc buồn như con người vậy.

Em thích nhất là ngắm nhìn cây bàng vào xuân. Đó là mùa hồi sinh của vạn vật. Trong làn mưa bụi, hơi lạnh se se, những chồi non chúm chím hé nở trên những nhành cây gầy mảnh vươn dài, xoè rộng. Màu xanh non nớt, mượt mà ấy làm dãy phố sáng bừng lên sau một mùa đông dài xanh xám. Có lúc em thấy cây bàng đang cháy lên những ngọn nến xanh. Có lúc em lại thấy dường như bàng là một cô gái đang múa đèn duyên dáng. Cây bàng biến hoá với bao hình dáng kỳ diệu.

Những chồi bàng lớn rất nhanh. Khi trong những vòm lá bắt đầu lấp ló nhánh hoa li ti ấy là lúc mùa xuân sắp tàn nhường quyền tạo hoá cho mùa hè rực rỡ. Mùa hè sang mang đến cho cây bàng một sức sống mạnh mẽ. Cả phố phường ngợp bóng mát xanh um của những tán bàng toả rợp. Em lại được nô đùa chơi đồ hàng, chơi nhảy dây với lũ bạn dưới gốc bàng. Cây bàng đu đưa, rì rào hiền như một người bạn lớn tốt bụng xoè rộng cánh tay cầm ô che nắng cho chúng em vui chơi. Và mỗi buổi trưa hè, em lại mở cửa sổ ngủ dưới tiếng ve bàng râm ran êm ả, dưới vòm hương lá bàng nồng dịu và những chùm quả xanh non chao chao trong nắng.

Lũ trẻ trong xóm em bao giờ cũng háo hức đón cây bàng vào thu. Bởi khi ấy những chùm quả bàng bắt đầu chín toả hương thơm nồng nàn ngai ngái phảng phất quyến rũ khắp phố phường. Em còn nhớ một buổi chiều đi lao động ở trường, cả cô trò tụ tập dưới gốc bàng to nhất sân trường đẩy bàng chín ăn. Cô cứ đẩy được chùm nào cả bọn lại xúm xút tranh nhau. Em cắn ngập răng vào quả chín cảm nhận cái vị ngọt rất riêng, bùi ngùi như vị của nắng thu mà thêm yêu da diết cây bàng thân quen ấy. Cây bàng sần sùi, nâu xám. Mỗi vết nám là một kỷ niệm học trò được lưu giữ. Một ngày nào đó, khi em xa rời mái trường yêu dấu, em sẽ về đây đặt tay lên những vết chai sần này để tìm lại bao ký ức đẹp tuổi thơ.

Thương nhất là khi cây bàng vào đông. Dãy bàng ngoài phố thỉnh thoảng lại rùng mình khi cơn gió lạnh lướt qua. Trong nắng đông hao hao, những chiếc lá bàng đỏ sạm buồn buồn. Bà bán xôi đầu ngõ gói xôi bằng chiếc lá đỏ ấy cầm gói xôi vừa thổi vừa ăn, em mới thấy cây bàng dù khi tươi tốt hay khi tàn úa vẫn luôn luôn có ích cho đời. Dưới gốc bàng đơn côi, trơ trọi khẳng khiu ngoài phố, quán cóc mọc lên nhiều hơn, lũ trẻ xóm em ít ngồi chơi hơn. Còn ở sân trường thì thật vắng vẻ. Chúng em chẳng muốn ra ngoài vì lạnh. Lúc ấy trông cây bàng thật tội. Cái dáng gầy guộc, khô se thỉnh thoảng lại lay lay như muốn gọi chúng em “Lại đây chơi với tôi đi, tôi buồn lắm”! Nhưng chắc chắn bàng sẽ vượt qua mùa đông buốt giá một cách dễ dàng thôi. Trong cái giá rét ấy, những nhánh cây ngày nào cũng giơ ngón tay gầy gom nắng đông lại chăm chút, ấp ủ một cái gì đó để khi mùa xuân về thì tách lên những búp nõn xanh tươi. Cây bàng lại hồi sinh, lại bắt đầu một vòng sống mới đẹp đẽ hơn, rực rỡ hơn. Em rất khâm phục sức sống bất diệt của cây bàng.

Em yêu cây bàng như yêu một người bạn lặng thầm bình dị và gần gũi. Người bạn ấy lúc nào cũng ở bên cạnh em, có mặt trong cuộc sống của em. Một ngày nào đó, em không còn được ăn trái bàng chín thơm nồng, không được cầm gói xôi bọc lá bàng đỏ đầu đông nóng hổi, không được nghe tiếng ve bàng rộn rã thì cuộc sống khi ấy sẽ tẻ nhạt biết bao. Cây bàng là nhà ở, là phố phường, là trường học, là kỷ niệm… là tất cả những gì mà em gắn bó và yêu quý.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 7

Biểu cảm về loài cây em yêu: cây dừa

Được phát hành

,

Bởi

Có một loài cây từ lâu đã trở thành sự sống của người dân và trở thành hình tượng bất tử của nhiều vùng quê Việt Nam. Loài cây ấy cũng là nỗi nhớ mong trong lòng của tôi về tuổi thơ êm đềm nơi quê ngoại. Cây dừa ơi! Tôi mãi gọi tên dừa như gọi tên quê hương mình.

Quê ngoại tôi là xứ sở của dừa. Ở đây không chỉ có vài cây, vài rặng dừa mà là cả liếp dừa nối tiếp nhau nhìn xa xa như một cánh rừng. Cây dừa thân to tròn như một chiếc cột lớn giữa nhà. Lá dừa như những ngọn gươm khua xào xạc có lúc lại mềm mại như bàn tay cầm quạt của cô gái đang múa hát. Tôi yêu cái dáng đứng thẳng của dừa và cái ngẩng đầu thách thức dù mưa giông, bão tố. Hứng chịu bao cơ cực của cuộc đời, dừa lại chắt lọc những gì tinh tuý nhất vào quả của mình. Có lần tôi đã nghĩ quả dừa giống như những hủ rượu ngàn năm của Tề thiên đại thánh bỏ quên nơi trần gian. Chỉ khác một điều chắc gì rượu quý kia lại thơm ngon bằng nước dừa. Tôi thích thú với những chiếc rễ dừa to to vươn lên mặt đất. Ngày đó, tôi chưa học dừa là loại cây rễ chùm, chỉ biết rằng bộ rể đồ sộ kia lại có sự sống bền bỉ và bám chặt vào đất giành lấy sự sống của mình.

Làm sao có thể kể hết những lợi ích mà loài cây này mang đến cho con người. Ở quê ngoại tôi, dừa chính là nguồn lợi lớn nhất giúp người dân thoát nghèo, có cuộc sống đầy đủ hơn. Nước dừa vừa ngọt vừa thanh lại là thức uống bổ, rẻ nên được hầu hết mọi người ưa chuộng. Thân dừa già làm gỗ, lá dừa, cọng dừa khô làm củi, chiếc chổi bà tôi quét nhà cũng được làm từ những sóng lá nhỏ….Hình như người dân chúng tôi không bỏ đi thứ gì kể cả vỏ trái dừa. Hiếm có loài cây nào lại hữu ích đến thế và cũng hiếm loài cây nào được người dân chúng tôi trân quý đến thế. Hễ thấy một trái dừa khô nào ra mọng là bà tôi lại chọn một nơi tốt nhất để trồng.

Đối với chúng tôi, dừa là cả một miền thơ mộng. Dưới gốc dừa mát rượi, chúng tôi chơi trốn tìm, chơi nhảy dây, chơi nhà chòi. Có khi lại thích thú cuộn những chiếc lá dừa thành kèn rồi thổi tí te vui tai. Tôi yêu dừa như yêu những đứa bạn thân cùng xóm, yêu người dì tốt bụng gần nhà. Ai biết một ngày có cô bé nhớ mẹ ngồi khóc dưới gốc cây, mẹ đi chợ về mua ít bột, lấy nải chuối chín cây, bẻ thêm trái dừa khô làm bánh. Cô quên làm sao được cái hương vị thơm béo của nước cốt dừa hoà vào từng miếng bánh ngọt lịm ăn mãi vẫn không biết ngán. Ôi, cái hương vị của tuổi thơ là những ngọt, bùi của dừa mang lại khiến bao năm tháng trôi qua vẫn không thể nào quên.

Ai dám bảo mình chưa bao giờ thử uống một ngụm nước dừa thanh mát? Ai dám bảo mình sẽ quên hình bóng một loài cây của quê hương? Tôi có cố nhớ đâu sao cái dáng dừa soi bóng nước những trưa hè vẫn in hằn trong trí nhớ. Phải chăng đó sẽ mãi là kí ức, là kỉ niệm tươi đẹp trong đời. Cảm ơn dừa đã cho tôi bóng mát giữa đời thường và cho tôi những ngày tháng tuyệt vời của tuổi thơ.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 7

Biểu cảm về loài cây em yêu: cây đa làng em (1)

Được phát hành

,

Bởi

Đầu làng em có một cây đa có lẽ đã vài trăm tuổi. Thân cây lớn lắm! Rễ đa ngoằn ngoèo như những con trăn khổng lồ uốn khúc. Xung quanh gốc chính là hàng chục gốc phụ khiến cho cây thêm bề thế và vững chãi. Cách xa hàng cây số đã nhìn thấy bóng đa cao vượt khỏi luỹ tre làng, sừng sững in trên nền trời xanh biếc.

Bóng đa che mát một khoảng đất rộng. Chim chóc làm tổ trên cành, suốt ngày ríu rít. Đang đi trên đường nắng chang chang, khách ghé chân vào quán tranh nghỉ tạm, uống một bát nước chè tươi hãm đặc, tận hưởng cơn gió nồm nam lồng lộng thổi, quả là không có gì sung sướng bằng, bao nhiêu mỏi mệt đều tan biến hết.

Tuổi thơ chúng em cũng tìm được ở cây đa nhiều điều kì thú. Lá đa to, dày và xanh bóng đem cuộn tròn lại, xé hai bên mép lá làm sừng, buộc một mẩu dây chuối khô vào cuống rồi luồn vào trong, khe khẽ kéo… Thế là đã được một con trâu lá đa, cặp sừng cong cong, cái đầu gục gặc như sẵn sàng nghênh chiến. Nào là trâu bố, trâu mẹ, nghé tơ… nằm quây quần bên nhau, nhìn mới thích làm sao!

Những chiếc búp đa khô quăn queo màu nâu rơi trên mặt cỏ có thể nhặt về làm kèn. Kèn búp đa ngậm vào miệng rồi phồng má thổi, nó kêu “toe” lên một tiếng, kèm theo chuỗi cười trong, trẻo vang xa.

Chiều hè, chúng em thường túm năm tụm bảy dưới gốc đa để thi thả diều. Bờ con mương chạy ngang cảnh đồng lang là nơi thả diều lí tưởng. Những cánh diều chấp chới bay cao; tiếng sáo diều vi vu ngân nga giữa không trung bát ngát.

Ông em kể rằng cây đa đã chứng kiến bao sự kiện buồn vui của làng. Lá cờ đỏ sao vàng đầu tiên phất phới bay trên ngọn đa. Cuộc mít tinh đầu tiên của dân làng thành lập chính quyền cách mạng cũng diễn ra dưới gốc đa. Trong hai cuộc chiến tranh chông Pháp và chống Mĩ, những cuộc tiễn đưa thanh niên lên đường nhập ngũ cũng được tổ chức ở đây… Rồi chuyện làm ăn hằng ngày, chuyện đổi mới không ngừng của làng của nước, bà con trao đổi với nhau dưới bóng mát cây đa. Cây đa cổ thụ quả đúng là nhân chứng lịch sử của làng.

Tiếp tục đọc

Xu hướng