Connect with us

Văn mẫu 8

Soạn bài: Tính thống nhất chủ đề của văn bản

Được phát hành

,

I. Chủ đề của văn bản

Câu 1:

Trong văn bản Tôi đi học của Thanh Tịnh, tác giả nhớ và kể lại những kỉ niệm trong ngày đầu tiên tựu trường: trên đường mẹ đưa đến trường, ở trường, ông đốc gọi tên, xếp hàng đi vào lớp, bài học đầu tiên.

Tác giả bày tỏ cảm xúc nao nức khi nhớ về buổi tựu trường đầu tiên; khi nhớ lại những kỉ niệm trong buổi đầu tiên đến trường ấy, tác giả sống với những tình cảm ấu thơ: sự thay đổi, cảm giác lớn lên, lạ lẫm khi đến trường, sợ sệt, rụt rè khi ông đốc gọi tên, xếp hàng, cảm giác thân quen, gần gũi với bạn, với thầy trong bài buổi học đầu tiên.

Câu 2: Có thể phát biểu chủ đề của văn bản Tôi đi học là: kể lại những sự việc trong buổi đầu tiên đi học, tác giả đã bộc lộ ấn tượng sâu sắc về những tình cảm, cảm xúc ấu thơ trong sáng, hồn nhiên.

Câu 3: Có thể hiểu chủ đề của một văn bản là đối tượng và vấn đề chính mà văn bản ấy biểu đạt.

II. Tính thống nhất về chủ đề của văn bản

Câu 1: Văn bản Tôi đi học nói lên những kỉ niệm của tác giả về buổi tựu trường đầu tiên căn cứ vào:

– Nhan đề: Tôi đi học

– Các từ ngữ: kỉ niệm, buổi tựu trường, lần đầu tiên đi đến trường, sách vở, bút thước, trường Mĩ Lí, học trò, thầy, lớp, hồi trống, ông đốc trường, lớp năm, sắp hàng, bàn ghế, phấn, bảng đen, đánh vần, bài viết tập,…

– Các câu: “Hằng năm… nao nức những kỉ niệm mơn man của buổi tựu trường.”, “Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường dài và hẹp.”, “Trước sân trường làng Mĩ Lí… vui tươi và sáng sủa.”, “Ông đốc trường Mĩ Lí cho gọi mới đến đứng trước lớp ba.”, “Sau khi thấy hai mươi tám cậu học trò sắp hàng đều đặn dưới hiên trường, ông đốc liền ra dấu cho chúng tôi đi vào lớp năm.”, “Một mùi hương lạ xông lên trong lớp.”, “Nhưng tiếng phấn của thầy tôi gạch mạnh lên bảng đen đã đưa tôi về cảnh thật. Tôi vòng tay lên bàn…”

Tất cả đều thể hiện chủ đề của văn bản.

Câu 2: Các từ ngữ, chi tiết nêu bật ấn tượng sâu sắc về buổi tựu trường đầu tiên; cảm giác mới lạ xen lẫn bỡ ngỡ của nhân vật “tôi” khi cùng mẹ đi đến trường, khi cùng các bạn đi vào lớp và trong buổi học đầu tiên:

– Nao nức, mơn man, những cảm giác trong sáng ấy, tưng bừng rộn rã,…

– Trang trọng, đứng đắn, lo sợ vẩn vơ, bỡ ngỡ, ngập ngừng e sợ, rụt rè, chơ vơ, vụng về lúng túng, run run theo nhịp bước rộn ràng trong các lớp, như thấy quả tim tôi ngừng đập, giật mình và lúng túng, nặng nề một cách lạ, thấy xa mẹ,…

– Chi tiết đánh rơi vở; con đường quen nhưng tự nhiên lại thấy lạ; cảm nhận khác nhau về ngôi trước buổi tựu trường và trong buổi tựu trường; khóc nức nở khi ông đốc trường gọi tên; hình ảnh con chim con;…

Câu 3: Xem ghi nhớ SGK

III. Luyện tập

Câu 1: Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

a.

* Đối tượng và vấn đề của văn bản:

– Đối tượng: rừng cọ quê tôi

– Vấn đề: sự gắn bó giữa cuộc sống người dân sông Thao với rừng cọ.

* Trình tự trình bày của văn bản:

– Phần đầu của bài văn miêu tả đời sống của cây cọ.

– Phần sau nói đến mối quan hệ giữa cây cọ và cuộc sống, sinh hoạt của con người; nhấn mạnh sự gắn bó bằng cách lặp lại nhiều lần từ ngữ rừng cọ.

+ Căn nhà tôi núp dưới rừng cọ.

+ Ngôi nhà tôi cũng khuất trong rừng cọ.

+ Ngày ngày đến lớp tôi đi trong rừng cọ.

– Phần cuối nói về sự gắn bó giữa con người và cây cọ.

* Các phần ý lớn trong phần thân bài đã được sắp xếp rất rành mạch, liên tục.

– Đặc điểm và đời sống cây cọ.

– Mối quan hệ của tuổi thơ với cây cọ.

– Sự gắn bó của cây cọ đối với đời sống và sinh hoạt.

Vì vậy, theo em không thể thay đổi được sự sắp xếp này.

b. Chủ đề của văn bản trên là: rừng cọ và sự gắn bó giữa cuộc sống người dân sông Thao đối với rừng cọ.

c. Văn bản Rừng cọ quê tôi toát lên tình cảm gắn bó giữa người dân sông Thao với rừng cọ, thể hiện ở hai câu trực tiếp nói về tình cảm đó:

– “Chẳng có nói nào đẹp như sông Thao quê tôi…”

– “Người sông Thao đi đâu rồi cũng nhớ về rừng cọ quê mình…”

d. Các từ ngữ, các câu tiêu biểu thể hiện chủ đề của văn bản: rừng cọ, cây cọ, thân cọ, búp cọ, lá cọ, chổi cọ, nón lá cọ, mành cọ, làn cọ, trái cọ,…

Câu 2: Trong các ý đã cho, ý (a), (c) phù hợp với chủ đề: “Văn chương làm cho tình yêu quê hương đất nước trong ta thêm phong phú và sâu sắc.”.

Làm cho tình yêu quê hương đất nước thêm phong phú và sâu sắc là một trong những đặc điểm trong chức năng tác động của văn chương; bên cạnh đặc điểm này, văn chương còn mang nhiều đặc điểm khác nữa về nội dung cũng như hình thức thể hiện. Sẽ không đảm bảo tính thống nhất chủ đề nếu chúng ta triển khai các ý (b), (d), (e) khi tạo lập văn bản với chủ đề “Văn chương làm cho tình yêu quê hương đất nước trong ta thêm phong phú và sâu sắc.”

Câu 3: Các ý không phù hợp với chủ đề được nêu ra trong đề bài là (c), (g); Chủ thể của các cảm xúc là “tôi” – nhân vật của câu chuyện được kể trong văn bản Tôi đi học, chứ không phải của “tôi” – người phân tích; Cần điều chỉnh cách diễn đạt ý, chẳng hạn:

– Con đường vốn quen thuộc nhưng “tôi” lại cảm thấy lạ trong buổi đầu tiên đến trường;

– “Tôi” cảm thấy sân trường như rộng hơn, ngôi trường như cao hơn;

Câu 4: Theo em khi viết một văn bản cần chú ý những gì để đảm bảo tính thống nhất chủ đề:

– Phải xác định rõ đối tượng và vấn đề của văn bản sẽ tạo lập.

– Khi lập ý, phải chú ý lựa chọn ý cho tập trung, sát với chủ đề và sắp xếp dàn ý theo trình tự trước sau thích hợp.

– Cân nhắc các từ ngữ, câu thể hiện rõ chủ đề.

– Dựng các đoạn, phần của bài văn cho thống nhất, làm nổi bật chủ đề chính.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 8

Bình luận bài thơ “Ông đồ”

Được phát hành

,

Bởi

Đấy là một thế hệ người. Mà nhiều khi chỉ còn dăm bảy người. Lúc đầu, đông đúc, rôm rả lắm, nhưng mà cái gì cũng thế thôi, ngày càng thưa thớt dần, quạnh quẽ dần…

Ông Vũ Đình Liên dừng lại, không nhìn vào tôi, ông nhìn đi đâu, xa chừng, hun hút:

– Tôi nói quạnh quẽ lắm, nghe mà thương, anh ạ. Anh có thấy thương không, một lớp người họ từng ngồi vào cái chỗ anh và tôi đương ngồi, nói cái chuyện anh và tôi đương nói, chuyện năm, chuyện tháng, chuyện thời gian… Đang nói vui vẻ thế thì tự nhiên hết năm, hết tháng, và họ cũng hết nốt… Cho nên, bức xúc thì mình đã có sẵn, bây giờ chỉ lựa chỗ để đưa họ vào, vào thật êm mà không bật ra:

Mỗi năm hoa đào nở

Lại thấy ông đồ già

Bày mực tàu giấy đỏ

Bên phố đông người qua.

Đừng để câu thơ trống, gánh một gánh chữ mà không làm được việc gì. Anh thấy tôi viết như chơi ấy. Thế là đã có một ông đồ rồi đấy nhé. Bốn câu, câu nào cũng có nhiệm vụ văn học của nó. Khác thể anh kéo ra một tấm màn sân khấu, tấm màn màu hoa đào hực hỡ, rồi cho ông đồ lọt thỏm vào giữa. Mỗi năm nghĩa là năm nào cũng thế. Hoa ấy, cứ đến tiết thì lại trồi. Người ấy, cứ đến tiết thì lại nở. Cho nên mới nói Lại thấy ông đồ già. Cứ Khoắng chữ lên là gặp. Ông đồ đang làm gì? Ông ta không làm gì ra trò. Ấy là tôi nói đã vào cái thời tàn. Ông cụ cứ loay hoay bày đặt. Ông bò ra, giữa cái nhí nhố của cuộc sống này mà bày mực tàu giấy đỏ. Phố thì đông, ông thì quạnh. Bày ra, là bày cái ở trong lòng ra giữa thanh thiên bạch nhật. Như vậy thì ông phải trân trọng lắm, và cái chỗ ông ngồi bên mái phố là một chỗ thiêng:

Bao nhiêu người thuê viết

Tấm tắc ngợi khen tài

Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa rồng bay

Đấy là vào thời hạnh phúc nhất của ông. Bao nhiêu người là đông người lắm. Tấm tắc ngợi khen, không phải chỉ ngợi khen suông mà lời khen đọng lại trên khoé miệng, thầm thì, nắc nỏm. Đây là khổ thơ cao trào. Nó bắn lên như pháo hoa rồi tàn lụi dần. Phượng múa rồng bay là vẽ vời ra lắm thứ ngoạn mục rồi trở về với hư vô:

Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu

Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu.

Nhưng mỗi năm mỗi… Cứ hiu hắt dần đi. Cây thì rụng lá, hoa thì rụng cuống. Thời gian làm một cuộc hành trình đi về phía vô tận. Ông đồ, hững hờ mà cuống quít ném vào giữa đời một câu hỏi, cũng chẳng là hỏi ai. Người thuê viết nay đâu? Hỏi thời gian? Hỏi không gian? Không, không hỏi ai cả. Hỏi chính lòng mình, tức là hỏi cái quy luật khắc nghiệt và buồn thảm. Trước câu hỏi ấy, giấy đỏ buồn không thắm, đỏ mà lại không thắm thì đỏ cái nỗi gì? Và mực mài ra là để viết, chứ sao lại để đọng? Đọng không ngoài nghiên mà trong nghiên, vì thế cái nghiên cũng phải sầu!

Đến đây, cái thời tàn nó rõ mồn một:

Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài trời mưa bụi bay.

Ông đồ, thì cứ vẫn ông đồ, chứ chả lẽ ông gì? Đâu thì lại ngồi đấy thôi. Dưới tấm màn mưa bụi, nghĩa là tấm màn đan bằng những hạt mưa nhỏ tí xíu như là hạt bụi, bụi thời gian, ném vào ông đồ từng đợt sóng lãng quên, ông bị va đập và níu kéo, bào mòn. Thôi rồi, không còn thể thống gì nữa cái ông đồ, ông vẫn ngồi đấy, tưởng là định vị, nhưng hình tượng hăm hở ấy cứ mờ nhoè, ngút ngấm… cho đến một lúc tả ra như lá, như bụi mưa… Ngoài trời mưa bụi bay… Anh có thấy ra cái điều này không? Bụi mưa, mưa bụi, nó thoảng thớt là thế, mà khắc nghiệt là thế. Nó ưu ái bám lấy con người ta, nhào nắn, rút tỉa, nó cũng gạt gẫm và phỉnh phờ kia đấy, cho đến một ngày, nó nâng bổng người ta lên, ném vào nơi ký ức xoá mờ…

Năm nayđào lại nở

Không thấy ông đồ xưa

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?

Những người muôn năm cũ, là những người không thể nào cũ hơn được. Những con người ấy bây giờ đang ở đâu? Phàm ở đời, cái mới không ngừng nảy sinh, trong lúc cái cũ không ngừng tàn tạ. Như thế nó mới là cuộc sống con người.

Bài thơ nó còn là cái chỗ này: Làm một nơi cư ngụ mong manh cho hồi ức con người về một thế hệ đã tàn phai, và đấy phải chăng là sứ mệnh của văn học?

Đông Trình – Báo Thừa Thiên Huế, xuân 2000

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 8

Cảm nghĩ về hành động của các nhân vật trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”

Được phát hành

,

Bởi

Trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ, thái độ của chị Dậu đối với tên cai lệ và người nhà lí trưởng có cả một quá trình diễn biến. Khi anh Dậu run rẩy bưng bát cháo, vừa mới kề vào miệng thì cai lệ và người nhà lí trưởng sầm sập tiến vào. Trước thái độ hống hách của tên cai lệ và người nhà lí trưởng, lúc đầu, chị Dậu hết sức nhún nhường. Chị lễ phép run run nói: “Nhà cháu đã túng, lại phải đóng cả suất SƯU của chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bê tiền SƯU của nhà nước đâu? Hai ông làm phúc nói với ông lí hãy cho cháu khất…”. Nhưng chị Dậu càng van xin tha thiết, tên cai lệ càng sừng sộ, sai tên người nhà lí trưởng trói anh Dậu lại, điệu ra đình. Khi thấy người nhà lí trưởng hình như không dám hành hạ một người ốm nặng, tên cai lệ sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu. Chị Dậu hốt hoảng chạy đến đỡ lấy tay hắn và một lần nữa, khẩn thiết xin tha: “Cháu van ông, nhà cháu mới tỉnh lại được một lúc, ông tha cho!”. Cai lệ tát vào mặt chị Dậu rồi nhảy vào trói anh Dậu. Hành động tàn bạo của tên cai lệ đã thổi bùng ngọn lửa căm thù trong lòng chị Dậu. Chị nghiến hai hàm răng: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Rồi bằng sức mạnh của lòng căm thù, chị đã lần lượt quật ngã tên cai lệ và người nhà lí trưởng.

Như vậy là, trước hành động tàn bạo của tên cai lệ và người nhà lí trưởng, chị Dậu đã từ thái độ van xin ôn hoà đến chỗ quyết liệt, vùng lên quật ngã bọn tay sai hung ác.

Hành động của chị Dậu trong hoàn cảnh đó không thể khác. Để bảo vệ tính mệnh cho chồng, chị không thể không vùng dậy chông lại hành động tàn bạo của bọn tay sai. Sức mạnh bất ngờ kì lạ của chị Dậu chính là sức mạnh của lòng căm thù bọn tay sai bất nhân, tàn ác.

Đoạn văn trích cho ta thấy người nông dân lao động vốn hiền lành, nhẫn nhục, nhưng khi bị dồn đến cùng đường, họ cũng biết vùng lên chống cự lại một cách dũng cảm. Hành động đánh lại tên cai lệ và người nhà lí trưởng của chị Dậu thể hiện sức mạnh tiềm tàng, tinh thần kiên cường, bất khuất của người nông dân Việt Nam, người phụ nữ Việt Nam. Hành động của chị Dậu cũng phản ánh qui luật “tức nước vỡ bờ”, “con gian xéo mãi cũng quằn, “có áp bức, có đấu tranh”.

Trong đoạn trích, Ngô Tất Tố cũng đã thành công trong việc khắc hoạ bộ mặt tàn ác, đểu cáng, không chút tính người của tên cai lệ và người nhà lí trưởng.

Với những “roi song, tay thước và dây thừng”, tên cai lệ và người nhà lí trưởng hùng hổ xông vào nhà chị Dậu. Tên cai lệ ra oai, hách dịch ngay từ những giây phút đầu tiên. Gõ đầu roi xuống đất, hắn lên giọng quát anh Dậu phải mau mau nộp thuế. Trước lời van xin nhũn nhặn của chị Dậu, hắn “trợn ngược hai mắt”, lớn tiếng quát tháo: “Mày định nói cho cha mày nghe đó à! Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất!”. Không một chút mủi lòng trước cảnh anh Dậu đang đau ốm, bỏ ngoài tai lời van xin tha thiết của chị Dậu, tên cai lệ doạ dỡ nhà, quát tên người nhà lí trưởng, rồi trói cổ anh Dậu lại, điệu ra đình. Khi tên người nhà lí trưởng còn đang “lóng ngóng ngơ ngác” thì tên cai lệ đùng đùng “giật phắt lấy cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu”. Chị Dậu vẫn nhẫn nhục van xin. Nhưng không một chút tình người, tên cai lệ đã đấm vào ngực, tát vào mặt chị Dậu rồi nhảy tới anh Dậu, không kể gì tới mạng sống của anh. Hành động của tên cai lệ thật đểu cáng, bất nhân, không còn chút tình người.

Tên người nhà lí trưởng cũng đểu cáng, bất nhân không kém. Hắn cười mỉa mai khi thấy anh Dậu vì sợ hãi quá mà lăn đùng xuống phảng. Rồi hắn “sấn cổ bước đến giơ gậy chực đánh chị Dậu”. Hành động tàn ác của cả tên cai lệ và người nhà lí trưởng đã đẩy chị Dậu tới chỗ không thể không vùng lên chông trả để bảo vệ mạng sông cho anh Dậu.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 8

Cảm nhận của em về đoạn trích “Hai cây phong”

Được phát hành

,

Bởi

Hai cây phong là phần đầu của truyện Người thầy đầu tiên của nhà văn xứ Cư-gơ-rư-xtan – một nước Cộng hoà ở vùng Trung Á thuộc Liên Xô trước đây. Bài văn có hai mạch kể và tả xen lẫn vào nhau rất nhuần nhuyễn tạo nên một sắc thái đặc biệt về cảm nhận.

Trước hết, bằng lối miêu tả đầy xúc động của một tầm hồn nhạy cảm, người kể chuyện tự giới thiệu mình là hoạ sĩ. Bức tranh vẽ giữa ngọn đồi có hai cây phong. Tuy nhiên đầy không phải là nét vẽ bằng cây cọ, mà bằng lời kể và tả thật duyên dáng, sâu lắng.

Bức tranh ấy chỉ thể hiện lên mỗi lần “chúng tôi” (lời xưng hô của chủ thể trữ tình) đi xa và nghĩ thầm với một nỗi buồn da diết: “Ta sắp được thấy chúng chưa, hai cây phong sinh đôi ấy? Mong sao chóng về đến làng, chóng lên đồi mà đến với hai cây phong!”.

Như vậy, cảnh sắc quê hương được cảm nhận bằng những hình ảnh đậm nhạt, cao thấp, xa gần, khác nhau. Đó là tâm tình của người hoạ sĩ tài hoa trước phong cảnh đầy cảm xúc dâng trào.

Nhưng ở một góc độ cảm nhận, tác giả (nhân vật trữ tình) đã kết hợp tự sự với miêu tả và biểu cảm tạo nên sức hút kì lạ. Bởi vì người kể đã khơi dậy hoài niệm của tuổi thơ.

Đó là vào năm học cuối cùng, bọn trẻ đã reo hò, huýt còi ầm ĩ rồi công kênh nhau bám vào các mắt mấu của hai cây phong mà leo lên. Quên làm sao được “lũ nhóc đi chân đất” ấy “làm chấn động cả vương quốc loài chim” ở trên “những cành cao ngất”. Ôi, ở đây, “bọn nhóc” còn vô cùng sung sướng ngắm nhìn cảnh vật một cách vừa trịnh trọng, vừa yêu thương.

Chúng giương hết tầm mắt nhìn vào nơi xa biêng biếc của thảo nguyên. Chúng “nép mình ngồi trên các cành cây lắng nghe tiếng gió ảo huyền và tiếng lá cây đáp lại lời gió…”. Hai cây phong đã làm cho tuổi thơ rạo rực, bị quyến rũ về vẻ đẹp vừa uy nghi vừa hoang sơ của nó.

Như vậy, đoạn trích Hai cây phong chan chứa một thi vị của quê hương. Nghệ thuật tả và kể của bài văn đã làm cho mạch kể hết sức sinh động.

Đoạn văn thể hiện tâm hồn riêng của hai cây phong là hay nhất, rung động nhất. Đoạn trích chính là một bài ca về tình nghĩa quê hương và về người thầy vĩ đại đã “trồng cây và trồng người”.

Tiếp tục đọc

Xu hướng