Connect with us

Xuất Bản

Yuval Noal Harari: Covid-19 sẽ không làm con người khiêm nhường hơn

Được phát hành

,

Yuval Noal Harari đặt ra câu hỏi liệu đại dịch Covid-19 sẽ khiến chúng ta dễ dàng chấp nhận cái chết hơn, như những thế hệ đi trước, hay nỗ lực hết mình để kéo dài sự sống hơn?

Một cách diễn giải phổ biến về đại dịch Covid-19 do virus corona chủng mới gây ra là nó chứng minh cho con người rằng họ không “bất khả xâm phạm” (như họ vẫn nghĩ). Loại virus lạ này, bằng một cách nào đó, đã từ dơi tiến hóa để có thể nhảy sang người. Virus tấn công những xã hội phát triển nhất, thậm chí là giới lãnh đạo những nước giàu có nhất.

Nó chứng minh rằng sự phát triển của nền văn minh nhân loại vẫn không thể tách biệt con người khỏi Trái Đất hay môi trường xung quanh họ. Và bệnh tật vẫn là một sự ngẫu nhiên không thể kiểm soát, hay miễn trừ ai (như một số người nghĩ).

Chính vì vậy, Covid-19 là lời nhắc nhở nhân loại về một thái độ khiêm nhường trước thiên nhiên và cái chết. Trong bài viết đăng trên Guardian ngày 20/4, nhà sử học người Israel Yuval Noal Harari, lập luận rằng đây có thể sẽ không phải lời nhắc nhở mà nhân loại chọn nghe sau khi đại diện kết thúc.

Yuval Noah Harari là nhà nghiên cứu lịch sử người Irasel, tác giả của hai cuốn sách nổi tiếng toàn cầu là Sapiens: Lược sử loài ngườiHomo Deus: Lược sử tương lai.

Zing trích dịch bài viết của đăng trên Guardian. Bài viết có tựa đề gốc Virus sẽ thay đổi thái độ của chúng ta với cái chết? Thật ra là ngược lại. Các tít phụ do Zing đặt.

Yuval Noal Harari: Covid-19 se khong lam con nguoi khiem nhuong hon hinh anh 1 6400.jpg

Một tín đồ cầu nguyện trong nhà thờ Westminster ở trung tâm London ngày 17/3. Ảnh: Tolga Akmen/AFP.

Thế giới hiện đại đã được định hình bởi niềm tin rằng con người có thể vượt qua và đánh bại cái chết. Đó là một thái độ sống mới mang tính cách mạng.

Trong phần lớn chiều dài lịch sử, con người “ngoan ngoãn” đầu hàng trước cái chết. Cho đến những năm gần đây, hầu hết các tôn giáo và ý thức hệ đều coi cái chết không chỉ là “số phận an bài”, không thể tránh khỏi, mà còn là nguồn gốc cho ý nghĩa của cuộc sống.

Những sự kiện quan trọng nhất trong đời xảy ra sau khi con người ta trút hơi thở cuối cùng. Chỉ sau đó, ta mới hiểu được những bí mật thực sự của cuộc sống. Chỉ sau đó, ta mới được cứu rỗi mãi mãi, hoặc bị nguyền rủa đời đời. Trong một thế giới không có cái chết – và do đó không có thiên đường, địa ngục hay tái sinh – các tôn giáo như Cơ Đốc giáo, Hồi giáo và Ấn Độ giáo sẽ chẳng có ý nghĩa gì cả.

Trong lịch sử, những người ưu tú nhất đều dành tâm trí để gán những ý nghĩa cao cả cho cái chết, chứ không cố gắng đánh bại nó. Sử thi Gilgamesh, Huyền thoại về Orpheus và Eurydice, Kinh thánh, Kinh Qur’an, Vedas, và vô số những cuốn sách và câu chuyện linh thiêng khác đều kiên nhẫn giải thích cho con người hiểu rằng chúng ta chết vì Chúa, hay vũ trụ, hay Mẹ thiên nhiên quyết định, và chúng ta nên chấp nhận số mệnh đó với sự khiêm nhường và ân sủng.

Biết đâu, một ngày nào đó, Chúa sẽ xóa bỏ cái chết thông qua một sự kiện vĩ đại, ví dụ như tái thế lần thứ hai? Nhưng việc điều khiển sự sống chết hay vòng luân hồi như vậy rõ ràng vượt quá khả năng của con người.

Rồi cuộc cách mạng khoa học nổ ra.

Con người sống lâu hơn, và suy nghĩ về cuộc sống

Đối với các nhà khoa học, cái chết không phải là một sắc lệnh thần thánh – nó chỉ là một vấn đề kỹ thuật. Con người chết không phải vì Chúa quyết định như vậy, mà vì một số “trục trặc kỹ thuật”. Tim ngừng bơm máu. Ung thư phá hủy gan. Virus nhân lên trong phổi. Và cái gì gây ra những vấn đề kỹ thuật đó? Chính là các vấn đề kỹ thuật khác. Tim ngừng bơm máu vì không có đủ oxy cung cấp đến cơ tim. Các tế bào ung thư lan rộng trong gan vì đột biến gen. Virus đã xâm nhập vào phổi tôi vì ai đó hắt hơi trên xe buýt. Chẳng có gì siêu hình ở đây cả.

Và khoa học tin rằng mọi vấn đề kỹ thuật đều có giải pháp kỹ thuật để xử lý. Chúng ta không cần phải chờ đợi Chúa tái thế lần thứ hai để vượt qua cái chết. Một vài nhà khoa học trong phòng thí nghiệm có thể làm điều đó. Trong khi cái chết, theo truyền thống, là “đặc sản” của các linh mục và nhà thần học mặc áo choàng đen, thì bây giờ nó lại là những người mặc áo blouse trắng trong phòng thí nghiệm.

Nếu tim đập chậm lại, chúng ta có thể kích nó lên bằng xung điện hoặc thậm chí, nếu nó ngừng đập, ghép tim mới. Nếu ung thư hoành hành, chúng ta có thể tiêu diệt nó bằng phóng xạ. Nếu virus sinh sôi nảy nở trong phổi, chúng ta có thể loại bỏ chúng bằng một số loại thuốc.

Đúng là hiện tại chúng ta chưa thể giải quyết được tất cả các vấn đề kỹ thuật. Nhưng chúng ta đang tìm cách. Tâm trí của những người ưu tú nhất không còn dành thời gian để “nặn” ra ý nghĩa cho cái chết, mà thay vào đó, họ bận rộn tìm mọi cách kéo dài sự sống.

Họ đang nghiên cứu các hệ thống vi sinh, sinh lý và di truyền nơi bắt nguồn của bệnh tật và tuổi già, đồng thời phát triển các loại thuốc mới và phương pháp điều trị có tính cách mạng.

Yuval Noal Harari: Covid-19 se khong lam con nguoi khiem nhuong hon hinh anh 2 3888.jpg

Lãnh đạo tôn giáo Joe Coleman tại Knock Shrine, Co Mayo, Ireland, tháng 5/2010, khi ông tuyên bố rằng Chúa sẽ xuất hiện và tái thế lần thứ hai. Ảnh: Julien Behal/PA.

Trong cuộc đấu tranh để kéo dài sự sống, con người đã giành được những thành công đáng kể. Trong hai thế kỷ qua, tuổi thọ trung bình đã tăng từ dưới 40 lên 72 tuổi trên toàn thế giới và thậm chí lên đến hơn 80 tuổi ở một số nước phát triển.

Trẻ em có cơ hội sống cao hơn. Cho đến thế kỷ 20, ít nhất một phần ba trẻ em chết trước khi đến tuổi trưởng thành. Trẻ nhỏ thường xuyên mắc các bệnh kiết lỵ, sởi và thủy đậu. Ở Anh, vào thế kỷ 17, cứ 1.000 trẻ sơ sinh thì có 150 trẻ không vượt qua được năm đầu tiên và chỉ khoảng 700 trẻ sống được đến 15 tuổi.

Ngày nay, chỉ có 5 trong mỗi 1.000 trẻ sơ sinh Anh chết trong năm đầu tiên và 993 trẻ được ăn mừng sinh nhật lần thứ 15. Trên toàn thế giới, tỷ lệ tử vong ở trẻ em giảm xuống dưới 5%.

Con người đã thành công trong việc bảo vệ và kéo dài sự sống đến nỗi thế giới quan của chúng ta đã thay đổi một cách sâu sắc. Trong khi các tôn giáo truyền thống tôn vinh thế giới bên kia là cội nguồn ý nghĩa của sự sống, thì từ các tư tưởng của thế kỷ 18 như chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa xã hội và nữ quyền chẳng mảy may quan tâm tới điều này.

Thật vô nghĩa khi tìm kiếm lời đáp cho những câu hỏi này trong các tác phẩm của Karl Marx, Adam Smith hay Simone de Beauvoir.

Hệ tư tưởng hiện đại duy nhất vẫn trao cho cái chết một vai trò trung tâm đầy ý nghĩa là chủ nghĩa dân tộc. Trong những thời khắc lãng mạn và tuyệt vọng, chủ nghĩa dân tộc hứa hẹn rằng bất cứ ai chết vì dân tộc sẽ sống mãi trong ký ức của mọi người.

Tuy nhiên, lời hứa này mờ nhạt đến nỗi hầu hết những người theo chủ nghĩa dân tộc không thực sự biết phải làm gì với nó. Làm thế nào để thực sự sống trong ký ức của người khác? Nếu bạn đã chết, làm thế nào để bạn biết liệu mọi người có nhớ đến bạn hay không?

Woody Allen đã từng được hỏi liệu anh có muốn được sống mãi trong ký ức của những người xem phim không. Allen trả lời: “Tôi thà sống trong căn hộ của mình còn hơn”.

Thậm chí nhiều tôn giáo truyền thống nay đã chuyển trọng tâm: thay vì hứa hẹn một thiên đường nào đó ở thế giới bên kia, họ đã bắt đầu chú trọng hơn vào những gì họ có thể làm cho bạn ngay trong cuộc sống này.

“Chúng ta không cam chịu. Chúng ta truy trách nhiệm”

Đại dịch Covid-19 này liệu có thay đổi thái độ của con người đối với cái chết không? Chắc là không. Thậm chí ngược lại. Covid-19 có thể sẽ khiến chúng ta nỗ lực gấp để bảo vệ cuộc sống này. Còn những phản ứng có hơi hướng tâm linh cùng sự cam chịu trước những gì dịch bệnh này gây ra, đó là hệ quả của sự phẫn nộ đan xen với hy vọng.

Khi một dịch bệnh bùng phát trong một xã hội tiền hiện đại, ví dụ như châu Âu thời trung cổ, mọi người dĩ nhiên lo lắng cho tính mạng của mình và đau khổ bởi cái chết của những người thân yêu, nhưng phản ứng chính về mặt văn hóa là cam chịu. Các nhà tâm lý học gọi nó là “sự bất lực được lĩnh hội”. Con người tự nhủ rằng đó là ý của Chúa – hay có lẽ là quả báo cho tội lỗi của mình.

“Chúa biết rõ nhất. Chúng ta, những con người độc ác, xứng đáng với nó. Và người sẽ thấy, cuối cùng tất cả sẽ ổn thôi. Đừng lo lắng, những người tốt sẽ nhận được phần thưởng của họ trên thiên đường. Và đừng lãng phí thời gian tìm kiếm một loại thuốc nào. Bệnh tật là do Chúa gửi đến để trừng phạt chúng ta. Những kẻ nghĩ rằng con người có thể vượt qua dịch bệnh này bằng sự tài giỏi của chính họ chỉ đơn thuần là phạm thêm tội lỗi vào sự phù phiếm và những tội ác khác của họ. Chúng ta là ai mà cản trở được kế hoạch của Chúa?”.

Yuval Noal Harari: Covid-19 se khong lam con nguoi khiem nhuong hon hinh anh 3 3000.jpg

Cảng Vila, Vanuatu, sau cơn bão Pam tháng 3/2015. Ảnh: Dave Hunt/Getty.

Ngày nay, thái độ của con người lại đối ngược. Bất cứ khi nào xảy thảm họa có thương vong – một tai nạn tàu hỏa, hỏa hoạn lớn, thậm chí là một cơn bão – chúng ta có xu hướng coi đó là một thất bại có thể phòng tránh được của con người hơn là hình phạt thiêng liêng hoặc thiên tai không thể tránh khỏi.

Nếu công ty vận tải không cắt giảm ngân sách chi cho việc thực hiện các biện pháp an toàn, nếu thành phố đã áp dụng các quy định về cứu hoả tốt hơn và nếu chính phủ đã gửi trợ cấp nhanh hơn – những người đó có thể đã được cứu. Trong thế kỷ 21, cái chết hàng loạt tự động trở thành một lý do cho việc kiện tụng và điều tra.

Đây cũng là thái độ của chúng ta đối với bệnh dịch. Trong khi một số nhà thuyết giáo coi AIDS là hình phạt của Chúa đối với người đồng tính, xã hội hiện đại đã gạt bỏ quan điểm cực đoan đó, và ngày nay chúng ta coi sự lây lan của AIDS, Ebola và các dịch bệnh gần đây là những sai sót mang tính tổ chức.

Chúng ta cho rằng loài người có kiến ​​thức và công cụ cần thiết để kiềm chế những bệnh dịch như vậy, và nếu một bệnh truyền nhiễm vẫn vượt khỏi tầm kiểm soát, thì đó là do sự thiếu sót của con người hơn là cơn tức giận của thần linh.

Covid-19 cũng không phải ngoại lệ với quy tắc này. Cuộc khủng hoảng còn lâu mới kết thúc, nhưng trò chơi đổ lỗi đã bắt đầu. Các quốc gia liên lục buộc tội lẫn nhau. Các chính trị gia đối thủ đẩy trách nhiệm từ người này sang người khác như ném một quả lựu đạn đã tháo chốt.

Bên cạnh sự phẫn nộ cũng có nhiều hy vọng. Những anh hùng của chúng ta không phải là các linh mục chôn cất người chết và bào chữa cho tai họa. Anh hùng của chúng ta là những người cứu mạng. Và các siêu anh hùng của chúng ta là những nhà khoa học trong phòng thí nghiệm.

Giống như những người xem phim biết chắc rằng Người nhệnWonder Woman cuối cùng sẽ đánh bại kẻ xấu và cứu thế giới, chúng ta cũng khá chắc chắn rằng trong vài tháng, có lẽ một năm nữa, những anh hùng trong phòng thí nghiệm sẽ đưa ra phương pháp điều trị hiệu quả cho Covid-19 và thậm chí là cả vắc-xin tiêm phòng. Chúng ta sẽ cho con virus corona khó chịu này thấy chúng ta mới là loài alpha trên hành tinh này!

Câu hỏi thường trực trên môi của tất cả mọi người, từ Nhà Trắng, qua Phố Wall cho đến các ban công ở Italy, là: “Khi nào thì có vắc-xin?”. “Khi nào có?”. Không phải là “Liệu có hay không?”.

Khi đã có vắc-xin và đại dịch kết thúc, nhân loại sẽ có được gì? Chắc chắn chúng ta sẽ hiểu được cần đầu tư và nỗ lực nhiều hơn nữa để bảo vệ sự sống của con người.

Chúng ta cần có nhiều bệnh viện hơn, nhiều bác sĩ hơn, nhiều y tá hơn. Chúng ta cần dự trữ nhiều máy thở hơn, nhiều thiết bị bảo hộ hơn, nhiều bộ kit xét nghiệm hơn. Chúng ta cần đầu tư nhiều tiền hơn vào việc nghiên cứu các mầm bệnh chưa biết và phát triển các phương pháp điều trị mới. Chúng ta không nên mất cảnh giác lần nữa.

Có phải chúng ta đang quá ngạo mạn?

Một số người có thể lập luận rằng điều đó không đúng, và cuộc khủng hoảng dạy chúng ta sự khiêm nhường. Chúng ta không nên tự phụ về khả năng của mình khuất phục mọi thế lực tự nhiên.

Quan điểm này chủ yếu là của những người tôn sùng văn hoá thời trung cổ, những người giảng giải về sự khiêm nhường trong khi chắc chắn 100% rằng họ biết tất cả các câu trả lời đúng. Một số người mù quáng không thể tự giúp mình – một mục sư đọc Kinh Thánh hàng tuần cho nội các của Tổng thống Donald Trump, đã nói rằng dịch bệnh này cũng là hình phạt đối với những người đồng tính luyến ái. Nhưng ngay cả những người tôn trọng truyền thống nhất ngày nay đều đặt niềm tin vào khoa học hơn là vào kinh sách.

Nhà thờ Công giáo khuyên các tín hữu không tụ tập tại nhà thờ. Israel đã đóng cửa các giáo đường. Cộng hòa Hồi giáo Iran không cho phép người dân viếng thăm nhà thờ Hồi giáo. Các cơ sơ tôn giáo đều đã đình chỉ các nghi lễ công cộng. Tất cả bởi vì các nhà khoa học đã thực hiện các tính toán, và đề nghị đóng cửa những nơi linh thiêng này.

Yuval Noal Harari: Covid-19 se khong lam con nguoi khiem nhuong hon hinh anh 4 4500.jpg

Một nhà thờ Hồi giáo trống trơn ở Shahr-e-Ray, phía Nam Tehran, vào một ngày thứ Sáu trong tháng 3/2020. Ảnh: Ebrahim Noroozi / AP

Tất nhiên, con người không nên tự phụ và chủ quan. Ngay cả các nhà khoa học cũng đồng ý rằng chúng ta nên thực tế trong kỳ vọng của mình và không nên có niềm tin mù quáng vào sức mạnh của các bác sĩ có thể bảo vệ chúng ta khỏi mọi tai ương của cuộc sống. Trong khi toàn thể nhân loại trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết, mỗi người vẫn cần phải đối mặt với sự mong manh của cuộc sống.

Có lẽ trong một hoặc hai thế kỷ nữa khoa học sẽ có thể kéo dài cuộc sống của con người vô thời hạn, nhưng hiện giờ thì chưa. Tất cả chúng ta đều có thể sẽ chết vào một ngày nào đó, và sẽ mất đi những người thân yêu một lúc nào đó. Chúng ta phải hiểu và thực sự sở hữu “sự hữu hạn” của mình.

Trong nhiều thế kỷ, người ta đã sử dụng tôn giáo như một cơ chế phòng thủ, tin rằng con người sẽ tồn tại mãi mãi ở thế giới bên kia. Bây giờ, mọi người đôi khi chuyển sang sử dụng khoa học như một cơ chế phòng thủ thay thế, tin rằng các bác sĩ sẽ luôn cứu họ, và họ sẽ sống mãi trong căn hộ của mình.

Chúng ta cần một cách tiếp cận cân bằng ở đây. Chúng ta nên tin tưởng vào khoa học sẽ có cách đối phó với dịch bệnh, nhưng vẫn nên có trách nhiệm với chính mạng sống và “sự hữu hạn” của cá nhân mình.

Cuộc khủng hoảng hiện nay có thể làm nhiều người nhận thức rõ hơn về bản chất vô thường của cuộc sống con người và thành tựu của con người. Tuy nhiên, nền văn minh hiện đại của chúng ta rất có thể sẽ đi theo hướng ngược lại. Biết được về sự mong manh của mình, chúng ta sẽ phản ứng bằng cách xây dựng hệ thống phòng thủ mạnh mẽ hơn nữa. Khi cuộc khủng hoảng hiện tại kết thúc, tôi không hy vọng chúng ta sẽ thấy ngân sách của các khoa triết học được ưu ái đầu tư đáng kể. Nhưng tôi cá là chúng ta sẽ thấy sự gia tăng lớn trong ngân sách đầu tư vào các trường y và hệ thống chăm sóc sức khỏe.

Và có lẽ đó là điều tốt nhất chúng ta có thể mong đợi. Chính phủ dù sao cũng không giỏi triết học. Nó không được “cài mặc định” trong hệ thống của họ. Chính phủ thực sự nên tập trung xây dựng các hệ thống chăm sóc sức khỏe tốt hơn. Còn triết lý tốt hơn là việc của từng cá nhân. Các bác sĩ không thể giải câu đố về sự tồn tại của chúng ta. Nhưng họ có thể cho chúng tôi thêm thời gian để vật lộn với nó.

Chúng ta sẽ dành thời gian đó làm gì là tùy thuộc vào chúng ta.

Nguồn: Zing (https://news.zing.vn/yuval-noal-harari-covid-19-se-khong-lam-con-nguoi-khiem-nhuong-hon-post1075804.html)

Xuất Bản

Liên hoan Văn chương Hòa bình ở Khu Phi quân sự

Được phát hành

,

Bởi

Nhà văn là nhân chứng sáng suốt, là người tỉnh táo, đủ trí tuệ để ghi lại rất nhiều sự kiện xảy ra trong cuộc sống.

Le Minh Khue anh 1

Nhà văn được giải Nobel Svetlana Alexievich và nhà văn Lê Minh Khuê tại liên hoan.

Lịch sử chỉ nói được về sự kiện đó trong vài dòng. Nhưng nhà văn nhìn sự kiện đó thấu đáo thông qua các số phận, ghi chép lại cho các thế hệ tiếp theo.

Văn chương hòa bình ở thành phố sách Pazu

Từ nhiều năm nay, có rất nhiều cuộc gặp gỡ văn chương được Hàn Quốc tổ chức, quy tụ nhiều nhà văn ở các nước đến để dự liên hoan và hội nghị về các vấn đề lớn. Các nhà văn thường đại diện cho những vùng đất ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latin. Ít khi có khuôn mặt đại diện của châu Âu và Bắc Mỹ. Giáo sư Kim Jae Yong, người trong ban tổ chức các hội thảo nói với tôi: “Tôi thích đại biểu của châu Á, châu Phi và Mỹ Latin”.

Năm 2008, tôi được dự hội nghị có hàng trăm nhà văn nhiều màu da. Những cuộc gặp gỡ, những ý kiến khác nhau, nhiều tiếng nói của các miền đất. Nhưng cũng giống như các hội nghị trên thế giới, không ai biết người đang đối thoại của mình từng viết gì. Vui vẻ như vậy, và cũng biết là đã đến các cuộc gặp gỡ này thì ai cũng có “thành tựu” nào đấy, nhưng chẳng ai biết rõ về ai, cuộc sống, tài năng, công việc hàng ngày… Mà có lẽ như thế lại hay.

Nhìn thấy nhau đột nhiên thấy quý mến vì nụ cười, vì màu da, vì xa cách địa lý nhưng cũng có một công việc và cũng có sự quan tâm sâu sắc tới cuộc sống của đất nước mình.

Cuối tháng 11/2023, tôi được mời đến Liên hoan Văn chương Hòa bình ở Khu Phi quân sự DMZ (De-military Zone) do Quỹ văn hóa tỉnh Gyeong-gi chủ trì. Gyeong-gi là tỉnh lớn, một đơn vị hành chính rất quan trọng của Hàn Quốc, có 13 triệu dân, ở ngay cạnh Thủ đô Seoul. Liên hoan tổ chức ở thành phố xuất bản Pazu, nơi chỉ có các nhà xuất bản, và chỉ sách là sách. Khi nhận lời mời tôi nghĩ chắc liên hoan sẽ đặt trọng tâm vào vấn đề về chiến tranh. Chiến sự Nga – Ukraine đang ác liệt. Và từ mấy hôm trước chiến sự ở dải Gaza đang làm cả thế giới thấy bất an.

Đến dự liên hoan, người đầu tiên tôi chú ý nhìn là nhà văn Adania Shibli đến từ Palestine, một người phụ nữ gầy gò, khuôn mặt thông minh nhưng trông có gì đó như thảng thốt. Quê hương của cô ở dải Gaza đang hứng chịu bom đạn chết chóc, trẻ con chết hàng ngày. Tôi bắt tay cô, không nói với nhau được gì nhưng có vẻ cô thấu hiểu tình cảm của người chia sẻ.

Liên hoan có 12 tác giả nước ngoài và 38 tác giả Hàn Quốc, toàn người rất nổi tiếng. Sáu nhà văn trong ban tổ chức là các giáo sư kiêm tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà thơ. Giáo sư Kim Jae Yong rất bận rộn. Ông có những giờ giảng bài ở các trường đại học nên khi đến muộn, ông bắt tay tôi rất chặt. Chúng tôi quen nhau từ năm 2008 và khi tôi tới Hadong nhận giải thưởng văn học quốc tế mang tên văn hào Byeong-ju Lee, ở xa ông đã gọi điện chúc mừng.

Các nhà văn đến từ Nigeria, Ấn Độ, Tunisia, Peru, từ Đài Loan (Trung Quốc), Philippines, Nhật Bản đều ở độ tuổi từ 50 đến 70. Nhà văn da đen Niyi Osundare là người gốc Nigeria nhưng là công dân Mỹ, sống ở bang Louisiana. Ông cười cởi mở, thân thiện với tôi và hát một bài hát gì đó mà điệp khúc nhắc đi nhắc lại Việt Nam… Việt Nam. Ông hát say sưa và bảo với tôi: Đấy, người dân châu Phi rất yêu quý Việt Nam. Ông cùng tuổi với tôi, có ba người con trai, ông hay khoác tay tôi và bảo: Nào, các ông bà già hãy ngồi xuống! Rồi nhắc đi nhắc lại: Việt Nam – Mọi chuyện đều ổn!

Những khi như vậy lại cứ tiếc là chưa được đọc tác phẩm của họ. Cô gái người Philippines cũng vậy. Xinh đẹp, sinh động, tuổi chỉ hơn 40, cô hỏi tôi: Đột nhiên chị gặp tôi ở Hà Nội thì chị sẽ thế nào? Rồi cười tươi tắn bảo: Tôi sẽ tới Việt Nam!

Tham luận của các nhà văn đều hướng đến những vấn đề ở đất nước họ. Xung đột vùng đất, sắc tộc, cách để tồn tại ở một nơi xa lạ. Tôi nói đến những người mẹ trong chiến tranh Việt Nam. Giáo sư Kim Jae Yong bảo tham luận của tôi rất gần với tiêu chí của hội thảo. Thực ra ở Việt Nam đề tài chiến tranh gắn kết với cuộc đời của nhiều thế hệ, cho đến rất lâu sau chiến tranh vẫn chưa thể ra khỏi vùng đất mà nhà văn đề cập.

Trong bữa sáng ở khách sạn, Priya Basil, nhà văn gốc Ấn Độ hiện sống ở Đức có hỏi tôi: Thế khi tham gia chiến tranh chị sợ ai nhất? Cô ấy hỏi ai chứ không hỏi cái gì. Tôi bảo tôi sợ cái chết. Chị có căm thù người Mỹ không? Không. Lúc ấy thì không. Tôi chỉ sợ hãi. Sợ hãi choán hết tâm trí con người. Còn căm thù thì có. Nó tới dần dần. Qua nhận thức, qua thời gian.

Ở Khu Phi quân sự, biên giới giữa Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên, trong khi đứng bên này nhìn sang phía Bắc Triều Tiên, hôm ấy mù trời, không thấy rõ, chỉ thấy thấp thoáng cánh đồng lúa, nhà văn người Ấn Độ nhìn tôi cười: Việt Nam có hoàn cảnh như thế này lâu không? Tôi bảo hơn hai mươi năm. Anh ấy trầm ngâm: Ừ, cũng phải bao nhiêu xương máu…

Diễn đàn khơi gợi ký ức

Mọi người đều có vẻ cảm thông, chia sẻ với nhau. Nhất là khi lúc này bom đạn đang làm thế giới chao đảo, bất ổn. Các bản tham luận đều nói tới ước mong hòa bình cho các vùng đất. Bản tham luận của nhà văn đoạt giải Nobel nói rất nhiều đến ký ức chiến tranh, khi nước Pháp bị xâm chiếm và đội quân xâm lược có những lúc như muốn lấy lòng người dân. Tên lính Đức đưa cho tác giả, lúc ấy còn bé, mấy thanh sôcôla. Lát sau bà ngoại của ông phải giấu vứt đi, vì sợ bị đầu độc. Ông nói nhiều tới ký ức chiến tranh trong các buổi giao lưu, ông nhắc tới những cuộc đối đầu với quân Đức và ký ức bạo lực hầu như theo ông suốt đời.

Le Minh Khue anh 2

Các nhà văn quốc tế dự Liên hoan Văn chương Hòa bình ở Khu Phi quân sự DMZ Hàn Quốc, tháng 11.2023

Jean-Marie Gustave Le Clézio – một cái tên không xa lạ với độc giả Việt Nam. Tôi đã đọc tiểu thuyết Sa mạc của ông. Đọc các truyện ngắn. Đặc biệt là tiểu thuyết Sa mạc, rất khác với các tiểu thuyết có vẻ hơi nhẹ nhõm bóng bẩy ở một số nhà văn Pháp, tiểu thuyết của ông tràn đầy chi tiết, sự kiện, dày đặc tình huống về đời sống trên sa mạc, rất hấp dẫn và không dễ đọc. Ông là một trong ba nhà văn Pháp nổi tiếng, tiêu biểu, là người đã xuất bản trên 30 tác phẩm.

Le Clézio nhận giải Nobel Văn chương năm 2008. Trong lần đi thăm Khu Phi quân sự DMZ, nơi chia cắt hai miền Triều Tiên, ông ngồi giữa hai người phụ nữ, chắc một người là thư ký. Ông cao dong dỏng, thẳng thớm, rắn rỏi, dù đã ngoài 80. Trông ông rất trẻ. Chắc thời trẻ ông cực kỳ hấp dẫn. Tôi chỉ nói được với ông hai ba câu, nhờ Choi Hana dịch qua tiếng Anh. Tôi nói ở Việt Nam sách của ông nhiều người đọc nhất là thanh niên. Ông bình thản gật đầu. Tôi hỏi ông có đọc một vài nhà văn gốc Việt ở Pháp không. Ông bảo ông biết Linda Lê. Ông hỏi sách của tôi có được dịch ở Pháp không? Không, tôi chỉ được in sách ở Mỹ. Ông bảo sắp tới ông sẽ đi Mỹ, ông sẽ tìm đọc…

Tôi biết đó là điều không thể, vì ông hiếm thời gian, vì đi tìm một cuốn sách in đã lâu là điều không thể. Và vì sự quan tâm đến một nhà văn xa lạ cũng rất không thể. Nhưng tôi cảm động vì cách cư xử lịch sự của ông, nó gây nên thiện cảm, sự ấm áp và trân trọng… Những ngày ở Hàn Quốc, giữa các cuộc hội thảo và tham quan, Le Clézio rất trầm lặng, thậm chí có vẻ xa cách. Cũng không thấy nhà văn của nước nào ngồi trò chuyện với ông ngoài các cuộc hội thảo ông ngồi trên diễn đàn, trả lời vài câu hỏi, bàn tới vấn đề chiến tranh – hòa bình và điều ông nói trong hội thảo cũng như trong bản tham luận làm ta suy nghĩ.

Ông nói đến những bi kịch lớn của lịch sử thế giới, những cuộc chinh phục thuộc địa, sự tàn sát người vô tội ở châu Mỹ da đỏ, buôn bán nô lệ từ châu Phi, các cuộc chiến tranh thế giới… Không điều nào trong số đó bị văn chương ngăn chặn. Có lẽ đó không phải là vai trò của văn chương. Nhà văn không phải là nhà tiên tri hay nhà chính trị. Trên hết họ là nhân chứng… Tác phẩm của họ cộng hưởng, đôi khi khuếch đại những sự kiện xảy ra cùng thời với họ, nhưng chúng không ảnh hưởng đến tiến trình chung…

Người cùng ngồi trên diễn đàn với ông là bà Svetlana Alexievich, nhà văn người Belarus được giải Nobel Văn chương năm 2015. Tôi chú ý khuôn mặt hiền hậu của bà, nhưng cái vẻ không khoan nhượng của bà giống như một đặc điểm của các nhà văn nữ hay quan tâm đến các đề tài khó như chiến tranh, như chính trị và thuyết phục người đọc bằng quan điểm cứng rắn. Tôi chú ý tìm bà ngay từ đầu khi bà đi ra cùng hai cô thư ký. Tôi nói với bà: Tôi là nhà văn Việt Nam. Tôi đã trải qua chiến tranh.

Đôi mắt bà nhìn rất nhanh qua tôi. Như nắm bắt nhanh một ấn tượng. Cái nhìn vừa như muốn quen biết vừa như dò hỏi. Nhưng thiện cảm thì rất rõ. Chúng tôi bắt tay nhau nhưng nói chuyện lại khó. Bà nói tiếng Nga. Phải có một phiên dịch tiếng Anh biết tiếng Nga. Đành chỉ biết cười vậy!

Svetlana Alexievich gây ấn tượng với tôi từ lâu khi tôi đọc quyển Chiến tranh không có khuôn mặt phụ nữ của bà. Sách được ông Nguyên Ngọc chuyển ngữ thu hút người đọc Việt Nam hơn vì tác giả và dịch giả cùng trải qua chiến tranh, có sự đồng cảm lớn.

Trong quyển sách của bà có một chi tiết làm tôi xúc động ngay từ lần đọc đầu tiên. Một nhóm nữ du kích bị bọn Đức bắt giam. Những tên Gestapo độc ác. Một người phụ nữ có đứa con nhỏ hơn một tuổi chưa biết nói. Khi bọn lính lôi người mẹ đi, đứa trẻ lần đầu tiên trong đời hét lên: Mẹ!

Quyển sách sắp xuất bản của bà cũng thuộc thể loại văn xuôi phi hư cấu. […]

Rất nhiều câu chuyện Svetlana nói trên diễn đàn. Cuộc chiến đang diễn ra và chuyện của bà thu hút người nghe.

Những tác giả Nobel Văn chương đến Hàn Quốc là một sự kiện. Hội trường đông nghẹt người nghe. Buổi giao lưu quan trọng có vị phó tỉnh trưởng tỉnh Gyeong-gi cầm trịch. Vị quan chức của tỉnh là người rất am hiểu văn chương. Ông dẫn dắt, gợi ý, từ đại biểu đến thính giả đều như hướng về cách gợi mở của ông. Trong dàn người đông đúc khi chụp ảnh lưu niệm, ông nhìn về phía tôi rồi tiến tới hỏi tôi ở đâu. Tôi ở Việt Nam đến! Ông cười rạng rỡ, nói như chúc mừng: Chào Việt Nam!

Nhìn cách đón tiếp trân trọng, sự nể nang của mọi người mới thấy người được giải Nobel cực kỳ hạnh phúc. Những điều ông Le Clézio nói làm tôi vừa tâm đắc vừa lấy lại niềm tin vào công việc mà lâu nay mình đã xem nhẹ. Văn chương đích thực phải được nuôi dưỡng trong môi trường tương xứng. Không khí tinh thần ô nhiễm khiến người viết chán nản, tự rẻ rúng với nghề. Nhà văn ta cũng có nhiều sự đáng bị xem thường, nhưng nếu như cần lấy lại sự tôn trọng thì cần hiểu hơn nữa cái nghề mình theo.

Bởi theo nhà văn đoạt giải Nobel mà tôi gặp, văn chương không giúp ích trực tiếp cho bất kỳ một mặt nào của cuộc sống. Văn chương không ngăn cản được chiến tranh, không ngăn cản được đói nghèo, không làm dịu được sự phẫn nộ của thiên nhiên. Nhưng nhà văn là nhân chứng sáng suốt bậc nhất, là người tỉnh táo, đủ trí tuệ để ghi lại rất nhiều sự kiện xảy ra trong cuộc sống. Lịch sử chỉ nói được về sự kiện đó trong vài dòng. Nhưng nhà văn nhìn sự kiện đó thấu đáo thông qua các số phận, ghi chép lại cho các thế hệ tiếp theo.

Nhà văn – có lẽ cũng là người cần thiết.

Nguồn: https://znews.vn/lien-hoan-van-chuong-hoa-binh-o-khu-phi-quan-su-post1453329.html

Tiếp tục đọc

Xuất Bản

Những dự án lan tỏa tình yêu sách

Được phát hành

,

Bởi

Không chỉ đầu tư nâng cao chất lượng sách, các đơn vị xuất bản còn tổ chức nhiều hoạt động nhằm lan tỏa tình yêu sách, góp phần xây dựng thói quen đọc.

Du an tang sach anh 1

“Chia sẻ yêu thương – Chào xuân mới” là chương trình Nhà xuất bản (NXB) Phụ nữ Việt Nam phối hợp cùng Ban Quản lý Phố sách Hà Nội và Câu lạc bộ Gia đình người tự kỷ Hà Nội tổ chức trong tuần này với mong muốn đáp ứng mong ước của các gia đình có con tự kỷ là được đưa con ra phố, để con mình vào nhịp sống thường nhật, và có một ngày hội để con được biểu diễn, được xem các tiết mục văn nghệ, được gặp gỡ nhau.

Ngày hội ấy còn là dịp để các phụ huynh và các giáo viên làm việc trong lĩnh vực giáo dục trẻ đặc biệt có cơ hội gặp gỡ, chia sẻ thông tin, hỗ trợ và động viên nhau.

Đây chỉ là một trong số nhiều hoạt động vì cộng đồng mà NXB Phụ nữ Việt Nam tổ chức thường xuyên trong nhiều năm qua như đưa sách về vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, tặng sách đến các không gian đọc cộng đồng và các không gian đọc do những người khuyết tật quản lý, tổ chức các buổi trò chuyện chuyên đề và trao tặng sách tới các trại giam.

Đại diện NXB cho biết những năm gần đây, trung bình mỗi năm NXB Phụ nữ Việt Nam tổ chức khoảng 50 sự kiện khuyến đọc. Năm 2022, một Quỹ sách Cộng đồng cũng đã được NXB Phụ nữ Việt Nam cho ra mắt, từ đó nhận được sự đồng hành của nhiều cá nhân, tổ chức để có được nhiều chương trình trò chuyện khuyến đọc và tặng sách tới cộng đồng.

Điểm đặc biệt, không chỉ khuyến đọc ở vai trò của một đơn vị xuất bản mà nhiều cán bộ của NXB Phụ nữ Việt Nam cũng luôn mang trong mình một tình yêu với sách và truyền lửa đọc ấy đến xung quanh. Như một cán bộ truyền thông của NXB Phụ nữ Việt Nam đã thành lập Quỹ Khuyến đọc trong nhóm facebook “Mạng lưới cha mẹ” với mong muốn quyên góp sách tặng của nơi có sách tới nơi cần sách, quyên góp tiền ủng hộ mua sách, giá sách, các trang thiết bị liên quan tới việc đọc sách, và góp phần thúc đẩy văn hóa đọc trong cộng đồng.

Hướng tới cộng đồng bằng Quỹ Chibooks Kết nối yêu thương, năm vừa qua Công ty sách Chibooks hoạt động mạnh mẽ với dự án xây dựng 300 tủ sách thư viện miễn phí vào các trường học trên cả nước, từ tiểu học, THCS, THPT đến các trường cao đẳng, đại học. Đây là dự án đã được triển khai từ năm 2011 đến nay với tổng kinh phí ước tính 12 tỷ đồng nhằm nâng cao ý thức đọc sách trong cộng đồng. Đọc sách để chúng ta thêm hiểu và yêu thương con người, mở rộng cánh cửa tâm hồn ra với thế giới xung quanh. Chibooks mong muốn dự án sẽ lan tỏa ảnh hưởng sâu rộng về ý thức đọc sách đến học sinh từ tiểu học, THCS, gieo mầm tìm hiểu, khát khao khám phá, mở rộng trí tưởng tượng và tri thức cho các em thông qua sách vở.

Dịch giả Nguyễn Lệ Chi, Giám đốc Công ty sách Chibooks, cho biết: “Riêng năm 2023, Quỹ Chibooks Kết nối yêu thương đã trao tặng 32 tủ sách thư viện với 14.242 bản sách, tổng trị giá trên 1,61 tỷ đồng, trong đó gồm 14 tủ sách thư viện cho các trường học và trao tặng sách tới 18 thư viện cộng đồng, 15 thư viện của 15 nhà văn hóa bản”.

Với hoạt động tặng sách cho học sinh tại các trường học ở những nơi chưa đủ điều kiện để thiết lập tủ sách, chương trình “Sách đến tay em” là một trong những Dự án của Câu lạc bộ Vườn yêu thương Thái Hà được triển khai từ cuối tháng 7/2022. Bên cạnh đó, Thái Hà books cũng tổ chức nhiều chương trình khuyến đọc như “Tết sách”, “Sách đồng hành cùng sinh viên”, “ATM sách miễn phí – phiên bản 2”, “Đổi sách lấy cây – gây quỹ khuyến đọc”…

Omega Plus books chọn hướng đi là hỗ trợ xây dựng tủ sách cộng đồng cho các doanh nhân muốn xây dựng thư viện cho cộng đồng, doanh nghiệp, cho các cá nhân, nhóm muốn xây dựng thư viện cho gia đình, quê hương, dòng họ, thư viện cho bệnh viện hay thư viện cho trường học… Danh mục sách là các tác phẩm kinh điển, nền tảng do Omega Plus books tuyển chọn và xuất bản ở nhiều chủ đề khác nhau từ lịch sử Việt Nam, lịch sử thế giới, chính trị, kinh tế, khoa học vật lý, văn học thiếu nhi, giáo dục, y học, nghệ thuật, âm nhạc…

Với NXB Kim Đồng, hoạt động khuyến đọc và trao tặng sách được tổ chức thường xuyên, liên tục như chương trình “Một triệu cuốn sách cho trẻ em nghèo”, tặng tủ sách cho các trường học ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, cho cộng đồng trẻ em nghèo người Việt tại nước ngoài – những nơi còn khó khăn, không có điều kiện tiếp cận với sách vở, tài liệu trong nước; bảo trợ, thường xuyên tặng sách cho các thư viện, không gian đọc.

Mỗi đơn vị chọn một cách làm riêng nhưng điểm chung là đều hướng đến vì cộng đồng, đặc biệt với những cộng đồng còn khó khăn, nhằm mang tri thức đến với lớp trẻ, lan tỏa tình yêu sách và góp phần xây dựng thói quen đọc.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho ZNews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. ZNews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/nhung-du-an-lan-toa-tinh-yeu-sach-post1454645.html

Tiếp tục đọc

Xuất Bản

‘Hồn Trương Ba da hàng thịt’ – Một cách tiếp cận thế hệ công chúng mới

Được phát hành

,

Bởi

Kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Tsuyoshi Sugiyama là sự tiếp cận ráo riết thế hệ người xem mới, song gây ra tiếng thở dài cho phần công chúng còn luyến nhớ những mẫu mực.

Hon Truong Ba anh 1

Đạo diễn người Nhật Bản Tsuyoshi Sugiyama từng gây được dư luận ở Việt Nam với cách xử lý độc đáo hai vở kịch kinh điển Cậu Vanya (Anton Chekhov) và Hedda Gabler (Henrik Ibsen) ở Nhà hát Tuổi Trẻ. Lần này, vẫn với tư duy sân khấu độc đáo đó, anh mang đến cho bản dựng Hồn Trương Ba da hàng thịt nhiều nét lạ.

Một tổng thể những nét lạ

Cái lạ đầu tiên là hóa trang và trang phục. Tất cả nhân vật đều ăn mặc khá hiện đại và có phần được Nhật hóa. Vợ chồng con cái nhà Trương Ba như những người nông dân đâu đó bên nước Nhật. Vợ anh hàng thịt, đặc biệt là đám tiên nữ nhà trời, không khác gì những vũ nữ tân thời trong một màn tạp kỹ (nói như một ông quan thiên đình trong kịch “thiên đình gì mà như cái chợ”, thì ở bản dựng này thiên đình gì mà như sân khấu tạp kỹ). Hai ông quan liêu tùy tiện ở thiên đình là Nam Tào Bắc Đẩu trang phục như công chức, nhưng được phân biệt với người hạ giới bằng cách đội trên đầu cặp sừng trâu và sừng dê, vừa như quỷ sống vừa như đám đầu trâu mặt ngựa.

Các nhân vật phần nhiều mang điểm nhấn hóa trang bôi mặt trắng như kiểu kịch Nô của Nhật, cũng có khi là những vạch vằn vện kiểu tuồng Tàu hoặc thổ dân đâu đó. Hóa trang và phục trang gây không khí Nhật hóa và gợi liên tưởng một câu chuyện dân gian không chỉ riêng một đất nước nào.

Cái lạ nữa là đạo diễn chuyển đổi giới tính cho một số nhân vật. Đế Thích cao cờ không phải là phi giới tính như cách thể hiện của nghệ sĩ Trần Tiến trong bản dựng đầu tiên gần bốn chục năm trước, mà là một… bà, bà tiên Đế Thích.

Lý trưởng bê bối tham nhũng ngày trước là nghệ sĩ Phạm Bằng thì nay là một người đàn bà, một bà có chức có quyền và cũng không hẳn là giới tính nữ. Một số nền văn minh cổ coi thần thánh mang trong mình cùng lúc nhiều giới tính, và kẻ tham nhũng trong kịch này có lẽ cũng đa sắc như vậy.

Đạo diễn dụng công tạo ra những mảng miếng lạ, chẳng hạn trong vở Cậu Vanya, ông để cho nghệ sĩ Lê Khanh và các diễn viên khác lăn lộn trong nhem nhuốc cát bụi. Cát thật. Cát mịt mù trên sân khấu. Còn ở Hồn Trương Ba da hàng thịt, lối sử dụng các nguyên vật liệu làm đạo cụ vẫn còn đó. Cái chậu tiết anh hàng thịt hất văng ra nhuộm đỏ một mảng sân khấu. Cốc nước của bà quyền chức cũng màu máu. Xô nước mà người con dâu hắt vào cái hồn-Trương-Ba-da-hàng-thịt để thức tỉnh phần hồn ông Trương Ba cũng là… nước thật.

Đạo diễn không ngần ngại để cho nước lênh láng trên sàn diễn, mà theo một quan niệm sân khấu nào đó thì không nhiều mỹ cảm. Nhưng chỉ có cách tự lý giải: đó là chủ ý của riêng đạo diễn Tsuyoshi Sugiyama. Các động tác lên thiên đình xuống trần gian của Đế Thích và bà vợ Trương Ba là ước lệ không gian kiểu chiếu chèo nhưng cũng là phép ước lệ của sân khấu dân gian nhiều nước.

Cuộc giằng co giữa thể xác hàng thịt và linh hồn của Trương Ba được cụ thể bằng một vật kết nối như sợi dây thừng, lại cũng như những khúc dồi hoặc dây xúc xích của anh hàng thịt. Ấy vậy, người xem vừa tưởng như có thể kết luận rằng sử dụng ước lệ và biểu tượng là căn tính của đạo diễn thì lại va ngay vào những động tác hình thể quá cụ thể như động chạm cầm nắm sờ soạng. Diễn viên đã làm thật, như có dụng ý bác bỏ ước lệ mà khẳng định họ đang làm dạng kịch truyền hình trong nhà ngoài phố.

Nhiệt tình mang đến cái lạ cũng có thể đã làm cho kịch thiếu đi những khoảng lặng, những phút lắng lại, trầm sâu trong tâm tưởng và gieo vào người đọc những cảm xúc mà kịch bản đã sẵn có. Những yếu tố kỹ thuật tân thời và sự mải mê thủ pháp mảng miếng lạ có khi đã khiến cho kịch thiên về tính kỹ nghệ và duy lý.

Hon Truong Ba anh 2

Tạo hình tiên Đế Thích và bà vợ Trương Ba trong vở kịch. Ảnh: Se sẽ chứ.

Chiến trường của linh hồn và thể xác

Dù có tránh bớt liên tưởng đến cây cao bóng cả, thì cũng thấy sau mấy thế hệ của sân khấu kinh điển như Trọng Khôi, Mỹ Dung, Trần Tiến, Lan Hương (Quắm), Phạm Bằng… truyền thống dựng kịch kinh điển duy mỹ có thể đã dừng lại sau thế hệ của những Lê Khanh, Ngọc Huyền, Chí Trung, Anh Tú (và Thành Lộc ở Sài Gòn)…

Trong tình thế hiện nay, chạm đến những vở kịch kinh điển giàu tính biểu tượng và ẩn dụ, đạo diễn vẫn phải thỏa hiệp với lớp diễn viên mới để làm nên một thứ “tân cổ giao duyên” – chỉ nói về nghệ thuật diễn xuất. Phải chấp nhận pha trộn giữa động tác hình thể cách điệu và cách diễn tả thật, pha trộn lối diễn xuất giữa sân khấu và phim truyền hình. Đến thế mới thấy diễn viên đóng vai hồn-Trương-Ba-da-hàng-thịt nỗ lực rất nhiều mà cái gánh nặng ấy vẫn là quá sức.

Diễn viên không làm cho người xem thấy được cơn vật vã giằng giật của hồn bên trong xác, một khi hình thể khô cứng thiếu sinh sắc. Đài từ các diễn viên vốn quen được hỗ trợ khuếch âm của các phương tiện âm thanh hiện đại, khi bị khước từ dùng micrô, phải dùng giọng mộc, dùng âm thanh gốc, thì nỗi hoang mang không tự tin vào giọng mình bộc lộ qua những phát âm nhả chữ thiếu tròn vành, thậm chí nhiều khi díu và dính, nhòe và hụt hơi.

Trở lại với cách xử lý của đạo diễn. Kết thúc vở kịch, hồn ông Trương Ba chấp nhận cái chết và anh hàng thịt được sống lại. Đạo diễn Nguyễn Đình Nghi khi xưa đã để cho anh ta vùng dậy, nhìn quanh rồi thô lỗ quát mắng cô vợ – ngựa quen đường cũ, thói xưa khó bỏ.

Nhưng đạo diễn Tsuyoshi Sugiyama đã xử lý cách khác. Không chỉ ông Trương Ba chết, tất cả nhân vật từ anh hàng thịt, vợ chồng con cái nhà anh cho đến gia đình Trương Ba và bạn bè, cả tiên nữ và Đế Thích đều đi những bước giật lùi, họ đi ngược không gian và thời gian, để rồi tất thảy cùng đổ xuống, cùng lăn ra chết. Mới trước đó các nhân vật còn luận về chuyện hồn nọ xác kia, hồn không cần cậy nhờ cái xác, xác cũng chẳng phải mượn hồn, giờ thì hồn nào xác nào cũng chết. Tại sao vậy? Rằng không phải chỉ có một ông Trương Ba mới phải mượn thể xác người khác? Có khi cả thế gian này đều là hồn nọ xác kia, chẳng có ai được nguyên vẹn là mình, có khi ai ai cũng đều là những thực thể lắp ghép, để mà sống với đời?

Trên cái thế gian mà hóa ra chẳng có ai nguyên vẹn, chỉ còn lại một nhạc công ôm cây đàn ghi ta, đi như trên một bãi chiến trường sau trận đấu hồn và xác. Anh ta cũng là người dẫn chuyện bằng âm thanh trong suốt vở diễn. Và những âm thanh cuối cùng được cất lên, có thể là khúc cầu siêu, cũng có thể là khúc hoan ca.

Ở bản Hồn Trương Ba da hàng thịt của Tsuyoshi Sugiyama, đài từ và hình thể của các diễn viên nếu đạt chuẩn kịch kinh điển, sẽ chuyển tải nội dung trọn vẹn, và cái trải nghiệm sân khấu lạ lùng này sẽ thật sự là cách xử lý sân khấu kinh điển có ý nghĩa cho người xem hôm nay.

Tất nhiên sự tiếp cận ráo riết thế hệ người xem mới sẽ gây ra tiếng thở dài cho phần công chúng còn luyến nhớ những mẫu mực. Nhật hóa và quốc tế hóa một vở kịch Việt như vậy, không chỉ vì đạo diễn Nhật Bản nhớ quê hương, mà biết đâu Tsuyoshi Sugiyama cũng mong một ngày nào đó bản dựng này sẽ đến với người xem ở quê hương anh và cả đâu đấy bên ngoài đất Việt.

Hồn Trương Ba da hàng thịt, kịch của Lưu Quang Vũ, đạo diễn: Tsuyoshi Sugiyama, sản xuất: Nguyễn Hoàng Điệp, diễn viên của nhiều nhà hát: Chiều Xuân, Kim Oanh, Xuân Tùng, Hương Thủy, Hoàng Tùng, Mạnh Hoàng, Thanh Lê, Hirota, Trường Khang… Ba buổi công diễn tác phẩm diễn ra từ 12 đến 14/1 tại rạp Công Nhân, Hà Nội.

Nguồn: https://znews.vn/hon-truong-ba-da-hang-thit-mot-cach-tiep-can-the-he-cong-chung-moi-post1454673.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng