Connect with us

Văn mẫu 9

Tre xanh bên lăng Bác Hồ

Được phát hành

,

Trong tâm thức mỗi con người Việt Nam, khi nghĩ về luỹ tre xanh, đều như tự hỏi: “Tre xanh”, “Xanh tự bao giờ” và rồi lại tự trả lời: “Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh” (Thi sĩ Nguyễn Duy). Nhà văn Thép Mới, trong tuỳ bút Cây tre Việt Nam đã viết: “Dưới bóng tre xanh của ngàn xưa thấp thoáng những ngôi chùa cổ. Dưới bóng tre xanh, Việt Nam gìn giữ một nền văn hoá lâu đời, tre xanh giúp người dân làm nhà dựng cửa, vỡ ruộng khai hoang, tre ăn ở với người đời đời kiếp kiếp…. Rặng tre xanh là chiến luỹ bảo vệ làng mạc, xóm thôn, đồng thời ôm vào lòng mình tình thân thương của bà con chòm xóm từ đời này qua đời khác, che mưa che bão cho con người”.

Cây tre đã gắn bó với bao thăng trầm của lịch sử nước nhà. “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre và đánh giặc”. Không phải ngẫu nhiên sự tích loại tre thân vàng được người Việt gắn với truyền thuyết Thánh Gióng. Hình ảnh Thánh Gióng nhổ bụi tre đằng ngà đánh đuổi giặc Ân xâm lược đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh chiến thắng thần kỳ, đột biến của dân tộc ta đối với những kẻ thù xâm lược lớn mạnh. Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, các luỹ tre đã trở thành “Pháo đài xanh” vững chắc chống quân xâm lược, chống thiên tai. Tre thật sự trở thành chiến luỹ và là nguồn nguyên, vật liệu vô tận để chế tạo vũ khí tấn công trong các cuộc chiến tranh chống xâm lược. Chính những cọc tre trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đã đánh tan quân Nam Hán. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trong lúc quân xâm lược tàn bạo, tung hoành với bao nhiêu vũ khí tối tân, đầy tính huỷ diệt thì dân tộc Việt Nam với gậy tầm vông vót nhọn, với hố chông nhọn hoắt đã không ngần ngại đối đầu với kẻ thù. Tre là gậy tầm vông, đòn càn, đòn xóc, chông tre… trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Tre là “Gậy Trường Sơn” cùng trai làng đi đánh giặc Mỹ…Gần gũi và thân thiết với dân tộc, cây tre đã từng là nguồn cảm hứng vô tận trong văn học, nghệ thuật. Từ những câu chuyện cổ tích đến những bài ca dao, tục ngữ đều có mặt của tre. Đã có không ít tác phẩm nổi tiếng viết về tre. Cây tre Việt Nam còn góp mặt trong những làn điệu dân ca, điệu múa sạp phổ biến hầu khắp cả nước, và còn là một trong những chất liệu quan trọng trong việc tạo ra các nhạc khí dân tộc như: Đàn tơ rưng, sáo, kèn,… Tre đi vào cuộc sống của mỗi người, đi sâu thẳm vào tâm hồn người Việt. Mỗi khi xa quê hương, mỗi chúng ta khó lòng quên được hình ảnh luỹ tre làng thân thương, những nhịp cầu tre êm đềm… Hình ảnh của tre luôn gợi nhớ về một làng quê Việt Nam mộc mạc, con người Việt Nam thanh cao, giản dị, bất khuất kiên trung. Tre là bạn đồng hành thuỷ chung, can đảm của người Việt từ thuở xa xưa khai hoang, dựng nước. Tre nghìn đời bao bọc, chở che cho sinh tồn của người. Tre hoá thân thành thế giới văn hoá tre trúc quây quần thân thiết với đời người, in hình in bóng đậm đà vào văn hoá, thi ca, nhạc hoạ, vào sâu xa tâm thức con người Việt Nam. Tre xanh hiên ngang, nhũn nhặn, cứng cáp mà dẻo bền vô hạn. Tre là biểu tượng của cốt cách và các phẩm chất đặc sắc của con người và văn hoá Việt Nam. Cây tre đã và sẽ mãi mãi trường tồn cùng với dân tộc Việt Nam….

Giữa Ba Đình lịch sử, mùa thu năm 1975, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được khánh thành. Trong các loài cây, hoa tiêu biểu của cả nước được tụ hội về bên Lăng Bác, hai vườn tre xanh vươn thẳng, xanh mướt được trồng bên Lăng của Người. Và, gần 40 năm qua, tre xanh bên Lăng Bác cũng đã đi vào tâm thức, thơ ca trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Nhà thơ Viễn Phương đã gửi gắm tình cảm của mình khi về Lăng viếng Bác, ngắm những hàng tre xanh:

Con ở miền Nam ra thăm Lăng Bác.

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát.

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam.

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng…

Những hàng tre xanh bên Lăng Bác đã thực sự tô điểm thêm cho vẻ đẹp thanh tao, bình dị bên ngôi nhà vĩnh cửu của Người.

Advertisement

Ngày nối ngày, nhân dân từ mọi miền của Tổ quốc về Lăng viếng Bác, được ngắm nhìn hàng tre, biểu tượng của dân tộc và cũng là tượng trưng cho cốt cách của người anh hùng giải phóng Dân tộc, nhà văn hoá kiệt xuất Hồ Chí Minh. Tre xanh rì rào bên Lăng Bác, như khúc dân ca hát mãi mãi bên Người.

Đặng Hoà Bình

Tiếp tục đọc
Quảng cáo

Văn mẫu 9

Biệt tài vận dụng các biện pháp tu từ của văn học dân tộc, đặc biệt là ẩn dụ trong “Truyện Kiều”

Được phát hành

,

Bởi

Đề bài: Giáo sư Đặng Thanh Lê có viết: “Nguyễn Du có biệt tài vận dụng các biện pháp tu từ của văn học dân tộc, đặc biệt là ẩn dụ”. Hãy phân tích một số câu, một số đoạn trong Truyện Kiều để làm sáng tỏ nhận xét trên.

Bài làm

Truyện Kiều của thi hào dân tộc Nguyễn Du là kiệt tác trong nền văn học cổ Việt Nam. Tuy mượn đề tài, cốt truyện từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân (Trung Quốc) nhưng áng thơ dài 3254 câu thơ lục bát này đậm đà bản sắc đân tộc, chứa chan một tình nhân ái bao la “rung động đất trời” (Tố Hữu).

Về phương diện nghệ thuật, truyện thơ này là mẫu mực và đỉnh cao về ngôn ngữ thi ca và xây dựng nhân vật. Đọc Truyện Kiều, ta cảm nhận một cách sâu sắc. “Nguyễn Du có biệt tài vận dụng các biện pháp tu từ của văn học dân tộc, đặc biệt là ẩn dụ mà giáo sư Đặng Thanh Lê đã nhận xét.

Advertisement

Khi tả cảnh cũng như lúc tả người, tả tình, với cá tính sáng tạo của một thiên tài, Nguyễn Du đã vận dụng nhiều biện pháp tu từ của văn học dân tộc, đặc biệt tả ẩn dụ làm cho câu thơ, đoạn thơ đầy hình tượng và biểu cảm.

Nguyễn Du có biệt tài về vận dụng biện pháp tu từ của văn học dân tộc

Mùa xuân về tưng bừng trong ngày hội “Đạp thanh” của tuổi trẻ. Ba chị em Kiều cũng “sắm sửa bộ hành chơi xuân”. Khắp các ngả đường, dòng người trây hội kéo dài vô tận:

Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.

Đằng biện pháp tu từ hoán dụ (ngựa xe, áo quần), so sánh (… như nước… như nêm) và đối (2 vế câu 8 đối nhau) nhà thơ đã tái hiện cảnh trẩy hội mùa xuân tấp nập, đông vui, rộn ràng của giai nhân, tài tử.

Đây là hai câu tỏ tình của chàng Kim:

Advertisement

Tiện đây xin một hai điều,

Đài sen soi đến dấu bèo cho chăng?

“Dấu bèo” (ẩn dụ) chỉ kẻ tầm thường, thấp hèn. Kim Trọng khiêm tốn, nhún mình. “Đài sen” (ẩn dụ) chỉ con người cao quý, được trân trọng. “Đài sen soi đến…” (nhân hoá): lời tỏ tình tế nhị. Chàng Kim hào hoa, đa tình biểu lộ một tâm tình say đắm người đẹp, bày tỏ một tấm lòng khao khát yêu đương. Cách tỏ tình vừa hoa mỹ vừa truyền cảm.

“Trước lầu Ngưng Bích” là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc trong Truyện Kiều. Tác giả vận dụng tài tình các biên pháp tu từ như điệp ngữ, ẩn dụ, hoán dụ,… để viết nên những vần thơ tuyệt diệu. Điệp ngữ “Buồn trông” đứng ở đầu câu sáu, láy lại bốn lần liên tiếp, khơi gợi nỗi sầu thương nặng trĩu, triển miên, day dứt trong lòng Kiều. Cửa bể chiều hôm hoang vắng, xa lạ, mịt mờ với con thuyền và cánh buồm, ngọn nước mới sa và hoa trôi man mác, nội cỏ dầu dầu và chân mây, mặt đất,… gió cuốn và ầm ầm tiếng sóng – là những hình ảnh ẩn dụ và hoán dụ đặc tả một kiếp người lưu lạc đang lênh đênh, trôi dạt trên dòng đời vô định đầy bão tố, với tâm trạng sợ hãi, cô đơn và tuyệt vọng. Ngoại cảnh hoà hợp với tâm cảnh:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ dầu dầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Nguyễn Du có biệt tài… đặc biệt là ẩn dụ

Ẩn dụ là lối ví ngầm. Xưa nay, đoạn thơ tả tài sắc hai chị em Kiều vẫn được nhiều người tán thưởng. Bức chân dung “hai ả tố nga” vô cùng xinh đẹp, một vẻ đẹp thanh tân, tuyệt mĩ:

Mai cốt cách, tuyết tinh thần,

Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Thuý Kiều và Thuý Vân cốt cách, yểu điệu như “mai”, tinh thần trắng trong như “tuyết”; từ dáng vẻ, dung nhan đến tâm hồn đều kiều diễm “mười phân vẹn mười”. Hai hình ảnh ẩn dụ “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” là những nét vẽ tài hoa, có giá trị thẩm mỹ tinh tế.

Advertisement

Bốn câu thơ tiếp theo tả sắc đẹp Thuý Vân. Gương mặt đầy đặn xinh tươi như vầng trăng rằm, lông mày thanh tú xinh xắn như “mày ngài”, miệng cười tươi như “hoa”, tiếng nói trong như “ngọc”, tóc mềm bóng đẹp hơn “mây”, da trắng mịn hơn “tuyết”. Trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết,… tiêu biểu cho vẻ đẹp của thiên nhiên được ví với gương mặt, nụ cười, giọng nói, mái tóc, màu da… của giai nhân. Cách miêu tả ấy tuy mang tính chất ước lệ, nhưng ngòi bút “thần” của Tố Như đã viết nên những cảu thơ có hình ảnh ẩn dụ hấp dẫn lạ thường:

Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang.

Mây thua nước tốc, tuyết nhường màu da.

Nếu Vân là một giai nhân thì Kiều là một giai nhân tuyệt thế, mặn mà, sắc sảo tài sắc vẹn toàn. Nguyễn Du đã sử dụng biện pháp ẩn dụ – nhân hoá gợi tả vẻ đẹp mộng mơ của Thuý Kiều. Mắt nàng trong như nước mùa thu. Lông mày xinh xắn như dáng núi mùa xuân… Sắc đẹp ấy làm cho hoa phải “ghen”, liễu phải “hờn”:

Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Những câu thơ, những hình ảnh ẩn dụ – nhân hoá ấy là bông hoa nghệ thuật tươi thắm mãi với thời gian toả hương vào hồn người. Nó còn thể hiện tấm lòng ưu ái của nhà thơ đối với cái đẹp trong nhân gian.

Nguyễn Du không những đã tiếp thu thi liệu, điển tích của văn học Trung Hoa mà còn học tập dân ca, ca dao, học lời ăn tiếng nói của người trồng dâu, trồng gai nơi đồng nội để sáng tạo nên vần thơ đặc sắc.

“Hạt mưa” là hình ảnh so sánh ẩn dụ trong ca dao, dân ca nói về thân phận, số phận của người con gái ngày xưa: “Thân em như hạt mưa sa, Hạt rơi đài các, hạt ra ruộng cày”… Trước cảnh gia biến, nàng Kiều nghĩ và hành động:

Advertisement

Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,

Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.

“Hạt mưa, tấc cỏ, ba xuân” là những hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa tượng trung, nói ít mà gợi nhiều, hàm súc, hình tượng và truyền cảm. Kiều là một thiếu nữ giàu đức hi sinh, hiếu thảo, quyết bán mình chuộc cha khỏi vòng tù tội.

Nghệ thuật của Truyện Kiều là đa dạng, phong phú, đặc sắc độc đáo. Những câu Kiều vừa trích dẫn ở trên đã khẳng định nhận xét”của giáo sư Đặng Thanh Lê là đúng đắn.

Ứớc lệ và tượng trưng là đặc điểm của thi pháp cổ. Lúc tả cảnh, tả người, tả tình… Nguyễn Du cũng sừ dụng bút pháp ước lệ, tượng trưng nhưng với cá tính sáng tạo của một nghệ sĩ thiên tài, câu thơ Kiều đầy nhạc điệu, hình ảnh “Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”, rất sống động và tinh tế. Đặc biệt là những câu Kiều mang hình ảnh ẩn dụ đã in sâu vào tâm trí mỗi chúng ta: “Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày…” (Tố Hữu)

Truyện Kiều đã làm rạng rỡ nền văn học cổ Việt Nam. Tên tuổi thi hào dân tộc Nguyễn Du sống mãi trong tâm hồn của nhân dân ta với bao tình cảm kính phục, tự hào.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 9

Bình luận bài thơ “Bếp lửa”

Được phát hành

,

Bởi

Chúng ta đã được đọc nhiều áng thơ hay về tình yêu quê hương, tình cảm gia đình. Có người thích vẻ đẹp thiết tha, nồng nàn của Tế Hanh ở bài Quê hương. Có người yêu sự mộng mơ, lãng mạn của tình mẹ con trong bài Mây và Sóng của Ta-go… Riêng tôi, tôi đồng cảm cùng tình bà cháu nồng đượm, đằm thắm trong bài Bếp lửa của Bằng Việt.

Bếp lửa là một bài thơ của nỗi nhớ về một bếp lửa tuổi thơ, nhớ rành rọt, nhớ ngọn ngành. Không dễ gì mà biết nhớ như vậy. Nhà thơ đã thổi bùng lên một bếp lửa ấp iu nồng đượm trong kí ức để hiện lên mối tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích.

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa,

Trong thơ văn, còn có mối tình bà cháu nào cảm động hơn? Mối tình bà cháu như một dòng sông, dòng sông êm đềm và trong vắt, một dòng sông chở đầy kỉ niệm: một bếp lửa và một làn sương sớm. Tiếng tu hú và giọng kể chuyện của bà.

Rồi những ngày đói khổ làm nhoà mắt đứa cháu còn bé… Và kỉ niệm này xin để nguyên khôi, không dám lược bớt:

Advertisement

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu, nhà thơ nói thế, chúng ta cũng thấy cay sống mũi. Những kỉ niệm trôi theo một nhạc điệu tâm tình âm ỉ, thầm thì, triền miên như nỗi nhớ. Dòng sông êm đềm và trong vắt vẫn âm thầm chảy. Chúng ta được dạo trên chiếc thuyền thơ với một tay lái khoan thai, chúng ta đang say mê với những kỉ niệm thì thấy biển cả hiện ra trước mắt!

Dòng sông của tình bà cháu đã đổ vào biển cả của tình yêu nước. Biển yên sóng lặng thôi, nhưng cũng bát ngát sâu thẳm.

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh

Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen…

Mấy câu thơ chẳng có gì là kĩ xảo, chẳng có gì là gọt tỉa, giản dị như lời nói thường thôi: như được nghe chính lời bà thủ thỉ, như có một thứ gió lạ kì lay động tâm hồn ta mãi. Đứa cháu có nghĩa có tình đã biết đã quý điều bà thường cất giấu kín đáo trong rương trong hòm. Và chính ánh sáng của những thứ của quý đó đã từng rọi vào tâm hồn thơ bé của đứa cháu, nhóm dậy, nhóm dậy, nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ. Nhịp thơ trở nên xốn xao như sự sống sinh đôi, như cây non xoè lá, như chim non chớp cánh.

Rồi đứa cháu lớn vụt lên, bay bổng:

Giờ cháu đã đi xa.

Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Những năm tháng sống ở nước ngoài, giữa ngọn khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả, giữa những hoa mĩ, dễ hấp dẫn lòng người, nhưng nhà thơ tỏ ra không bị choáng ngợp. Có thể nói, tình cảm chủ đạo chi phối tâm não tác giả là những hình ảnh thân yêu quen thuộc của quê hương đất nước, đã từ lâu gắn bó với tuổi thơ. Vì thế nhà thơ đã gửi về bà – người bà rất đỗi kính yêu – như lời tâm tình chân thật, thiết tha: sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Advertisement

Từ tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích, bài thơ gợi lên những yêu thương đầu tiên, những suy nghĩ đầu tiên về cuộc đời, về đất nước… Cảm xúc tinh tế, chân thật và đượm buồn của nhà thơ trỗi dậy trong kí ức người đọc những kỉ niệm về cuộc sống gia đình, về truyền thống tình nghĩa của dân tộc. Và đó chính là sức hấp dẫn của bài thơ Bếp lửa.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 9

Bình luận bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”

Được phát hành

,

Bởi

Mùa Xuân, ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền xứ Huế…

(Thanh Hải)

Vâng, đã có một Mùa Xuân như thế – một Mùa Xuân âm vang tiếng hát từ trong lòng người để rồi lan toả cả đất trời- một Mùa Xuân trên quê hương xứ Huế giàu chất thơ với bao vẻ đẹp quyến rũ làm say đắm lòng người. Mùa Xuân làm đổi mới, khởi sắc thiên nhiên, tạo vật và bỗng dưng tâm hồn con người tràn trề một niềm yêu đời, vui sống mãnh liệt. Nhà thơ Thanh Hải, một người con của Huế đã nắm bắt và truyền vào lòng người những cảm xúc chan chứa yêu thương ấy bằng một bài thơ có nhan đề rất khiêm tốn: Mùa Xuân nho nhỏ. Thế nhưng bài thơ từ lúc ra đời đã cất cao tiếng hát lạc quan từ trái tim nhà thơ hoà vào bản hoà- tấu- cuộc- đời rộng lớn, âm vang suốt chiều dài thời gian từ bấy đến nay. Bài thơ đã thực sự thành bài hát nổi tiếng được mọi người yêu chuộng.

Mở đầu bài thơ là một bức tranh Mùa Xuân tươi đẹp, không gian bao la, bát ngát mở ra cả ba chiều:

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

Trên cái nền không gian rộng lớn ấy, nổi bật những hình ảnh, đường nét, màu sắc thật nên thơ và gợi cảm, êm ái, dịu dàng, đáng yêu biết bao. Một màu xanh tươi sáng trải rộng mênh mông làm nền và tôn thêm vẻ đẹp nổi bật của “bông hoa tím biếc”. Một màu “tím biếc” lung linh, lấp lánh giữa “dòng sông xanh” lại càng thơ mộng.Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên được nhà thơ phác hoạ bằng hai hình ảnh với những đường nét mềm mại, thanh sơ, màu sắc hài hoà đã thể hiện cái “hồn” của Mùa Xuân: một sắc Xuân đầy sức sống và quyến rũ

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc.

“Mọc” là vươn lên, trỗi dậy từ lòng đất. Đặt từ “mọc” ngay từ đầu câu thơ, bài thơ đã gây cho người đọc về sức sống mãnh liệt, bất ngờ đến ngạc nhiên của thiên nhiên, tạo vật. Bức tranh Mùa Xuân không chỉ có hình ảnh, màu sắc mà còn có cả âm thanh. Đó là âm thanh tiếng chim chiền chiện hót ngân vang, thánh thót càng làm cho buổi sớm xuân có không khí náo nức lạ thường. Đứng trước vẻ đẹp đầy sức hấp dẫn và quyến rũ của bức tranh Xuân ấy, tâm hồn nhà thơ làm sao ngăn được những xúc động mãnh liệt. Tâm hồn nhạy cảm của thi nhân và những tác động ngoại cảnh đã khơi dậy bao nguồn cảm xúc. Tình yêu thiên nhiên, lòng yêu đời, yêu cuộc sống trào dâng chan chứa, tràn đầy. Tiếng thơ là tiếng lòng tác giả thốt lên từ trái tim rung động dào dạt:

Advertisement

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời.

Hai câu thơ nhằm bộc lộ cảm xúc cao độ. Có cái gì ngọt ngào, rất Huế trong giọng thơ trìu mến, thân thương qua những từ ngữ chân quê, mộc mạc: “ơi… chi mà..”. Phải thực sự là người sống gắn bó với Huế qua bao tháng năm bằng tình yêu tha thiết, mới hiểu được cái giọng Huế ngọt ngào trong lời thơ Thanh Hải. “Hót chi mà vang trời” cứ ngỡ như là một lời trách nhưng là trách yêu đấy thôi; chan chứa yêu thương. Với một tâm hồn nhạy cảm và một tình yêu mãnh liệt như thế, tiếng chim đã tác động vào trí tưởng tượng phong phú của nhà thơ, tạo nên những ảo giác. Tâm hồn tác giả đang ở trạng thái “tĩnh” chuyển sang trạng thái “say”. Trí tưởng nhà thơ đi từ cõi thực dần vào cõi mộng. Vì thế mà tiếng chim hót, nhà thơ cứ ngỡ như là “từng giọt long lanh rơi” có thể nhìn thấy, có thể đưa tay hứng được:

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

Tâm hồn nhà thơ đã bị cuốn hút mãnh liệt bởi tiếng chim. Và cái cử chỉ “Tôi đưa tay tôi hứng” là một biểu hiện cao độ của niềm say mê đó. Có cái gì náo nức, rộn rã, xao xuyến không chỉ thể hiện qua cử chỉ mà còn chứa đựng trong cả lời thơ, giọng thơ. Nhịp thơ dồn dập, âm hưởng ngân vang rất cao như một bản hoà tấu, bắt đầu thong thả, nhỏ nhẹ rồi nhanh dần, vút cao bằng một thanh trắc ở cuối đoạn: “tôi đưa tay tôi hứng”. Tiếng hót của loài chim trong thiên nhiên đã khơi dậy tiếng hát trong lòng tác giả. Dường như, tự trong lòng mình, nhà thơ đã cất cao tiếng hát. Tiếng hát của niềm lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống thiết tha. Nhà thơ đã hát cùng thế hệ, hát mãi một niềm khát vọng, một lẽ sống tốt đẹp: khát vọng cống hiến phần nhỏ bé của bản thân mình để làm cho cuộc đời chung ngày một tươi đẹp:

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hoà ca

Một nốt trầm xao xuyến.

Lẽ sống ấy đã trở thành điều tâm niệm và điều tâm niệm ấy được láy đi láy lại như một điệp khúc trong bản hoà tấu ngợi ca Quê hương, Mùa Xuân và Cuộc sống.

(Bài viết của Thuỷ Triều, đăng trên báo Thừa Thiên Huế số 55, 24/1/1999)

Advertisement
Tiếp tục đọc

Xu hướng