Connect with us

Văn mẫu 8

Phân tích truyện ngắn “Lão Hạc” (5)

Được phát hành

,

Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trước cách mạng. Tác phẩm của ông thường gắn liền với hình ảnh nông thôn đói khổ. Trong hoàn cảnh đó, ông vẫn nhìn thấy được những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân nghèo đang âm thầm toả sáng. Truyện ngắn Lão Hạc là một tác phẩm như vậy. Nhân vật chính là một lão nông nghèo khổ, bất hạnh nhưng vẫn mang những phẩm chất cao quý đáng trân trọng.

Truyện được kể qua lời ông giá – người hàng xóm thân thiết của lão Hạc – đã tạo cho câu chuyện thêm phần chân thực, sinh động. Qua ông giáo, ta được biết gia cảnh buồn của lão Hạc: vợ mất sớm, đứa con trai duy nhất lại phẫn chí do bị phụ tình vì quá nghèo nên bỏ vào Nam làm phu đồn điền cao su, biền biệt một năm nay chẳng tin tức gì. Kỉ vật duy nhất con trai lão để lại là con chó mà lão vẫn hay trìu mền gọi là cậu Vàng. Mỗi lần nhwos con, lão lại ngồi nói chuyện với nó cho khuây khoả. Vì thế, có thể nói nó là một người bạn tri kỉ của lão. Nhưng rồi, cảnh đói kém bủa vây. Một trận ốm đã làm cho số tiền tích cóp của lão cạn dần. Còn mảnh vườn nhưng lão không thể bán được vì lão muốn để dành nó cho con trai. Vì vậy, sau nhiều lẫn định bán con Vàng, lần này lão dứt khoát chia tay nó. Lão không muốn tiêu phạm vào những đồng tiền ít ỏi mà lão để dành cho con trai.

Cảnh lão bán cậu Vàng thật xót xa. Cả đời lão chưa dám lừa một ai. Vậy mà lần này lão lại đi lừa một con chó – điều này làm lão đau lòng và tội lỗi: “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước… Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”

Lão tìm đến ông giáo để giãi bày lòng mình. Lão muốn nhờ ông giáo trông coi hộ lão cái vườn đến khi con trai lão trở về. Rồi lão cũng nhờ ông giáo lo liệu ma chay cho mình nếu sau này già yếu. Những suy nghĩ, tính toán của lão thật đơn giản, thật thà. Nhưng mọi thứ đều được lão sắp xếp một cách cẩn thận, chi tiết. Lão vừa lo cho con trai mình, rồi lại lo đến cái chết của mình làm ảnh hưởng tới làng xóm. Điều này như một dự báo sẽ có một biến cố lớn xảy đến với lão.

Từ ngày bán cậu Vàng, và cũng từ khi nói chuyện, nhờ cậy ông giáo xong, nếp sống sinh hoạt của lão cũng có sự thay đổi: “lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết Bắt đầu từ đấy, lão chế được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì rau má, với thinh thoảng một vài củ rảy hay bữa trai, bữa ốc.“Mạc dù vẫn còn ba mươi đồng bạc đó, nhưng lão không muốn là ảnh hưởng tới cái “gia tài” của con. Xuất phát từ tình thương của một người cha đã khiến cho lão phải chịu cảnh sống đói khổ. Nhưng không phỉa vì thế mà lão nảy sinh thói hư tật xấu. Lão vẫn giữ cho mình nếp sống “đói cho sạch, rách cho thơm”.

Cuộc sống bế tắc đã đẩy lão Hạc tìm đến cái chết như một sự giải thoát. Trước hết, lão sang nhà Binh Tư xin ít bả chó. Biết tin, ông giáo thấy vô cùng đau lòng: “Hỡi ơi lão Hạc!… Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư?” Ai cũng cứ ngỡ rằng rồi đây, lão sẽ sa chân vào con đường tội lỗi khi nghe những lời Binh Tư kể lại: “Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tâm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu. Lão vừa xin tôi một ít bả chó… Lão bảo có con chó nhà nào cứ đến vườn nhà lão… Lão định cho nó xơi một bữa. Nếu trúng, lão với tôi uống rượu.” Nhưng rồi cái chết của lão đã làm đảo lộn suy nghĩ của tất cả mọi người: “Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết. Cái chết thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất thình lình như vậy. Chỉ có tôi với Binh Tư là hiểu.” Lão vẫn giữ cho bản thân mình trong sạch, như cái chết của lão thật đau đớn, bi thảm.

Lão Hạc đã cho chúng ta thấu hiểu được hoàn cảnh khổ đau, khốn cùng, bế tắc của người nông dân nghèo có tâm hồn cao đẹp trong chế độ thực dân phong kiến tàn ác đương thời. Đồng thời, truyện cũng là lời nhắc nhở cho chúng ta phải biết quan tâm, giúp đỡ nhưng con người có số phận éo le hơn mình.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 8

Bình luận bài thơ “Ông đồ”

Được phát hành

,

Bởi

Đấy là một thế hệ người. Mà nhiều khi chỉ còn dăm bảy người. Lúc đầu, đông đúc, rôm rả lắm, nhưng mà cái gì cũng thế thôi, ngày càng thưa thớt dần, quạnh quẽ dần…

Ông Vũ Đình Liên dừng lại, không nhìn vào tôi, ông nhìn đi đâu, xa chừng, hun hút:

– Tôi nói quạnh quẽ lắm, nghe mà thương, anh ạ. Anh có thấy thương không, một lớp người họ từng ngồi vào cái chỗ anh và tôi đương ngồi, nói cái chuyện anh và tôi đương nói, chuyện năm, chuyện tháng, chuyện thời gian… Đang nói vui vẻ thế thì tự nhiên hết năm, hết tháng, và họ cũng hết nốt… Cho nên, bức xúc thì mình đã có sẵn, bây giờ chỉ lựa chỗ để đưa họ vào, vào thật êm mà không bật ra:

Mỗi năm hoa đào nở

Lại thấy ông đồ già

Bày mực tàu giấy đỏ

Bên phố đông người qua.

Đừng để câu thơ trống, gánh một gánh chữ mà không làm được việc gì. Anh thấy tôi viết như chơi ấy. Thế là đã có một ông đồ rồi đấy nhé. Bốn câu, câu nào cũng có nhiệm vụ văn học của nó. Khác thể anh kéo ra một tấm màn sân khấu, tấm màn màu hoa đào hực hỡ, rồi cho ông đồ lọt thỏm vào giữa. Mỗi năm nghĩa là năm nào cũng thế. Hoa ấy, cứ đến tiết thì lại trồi. Người ấy, cứ đến tiết thì lại nở. Cho nên mới nói Lại thấy ông đồ già. Cứ Khoắng chữ lên là gặp. Ông đồ đang làm gì? Ông ta không làm gì ra trò. Ấy là tôi nói đã vào cái thời tàn. Ông cụ cứ loay hoay bày đặt. Ông bò ra, giữa cái nhí nhố của cuộc sống này mà bày mực tàu giấy đỏ. Phố thì đông, ông thì quạnh. Bày ra, là bày cái ở trong lòng ra giữa thanh thiên bạch nhật. Như vậy thì ông phải trân trọng lắm, và cái chỗ ông ngồi bên mái phố là một chỗ thiêng:

Bao nhiêu người thuê viết

Tấm tắc ngợi khen tài

Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa rồng bay

Đấy là vào thời hạnh phúc nhất của ông. Bao nhiêu người là đông người lắm. Tấm tắc ngợi khen, không phải chỉ ngợi khen suông mà lời khen đọng lại trên khoé miệng, thầm thì, nắc nỏm. Đây là khổ thơ cao trào. Nó bắn lên như pháo hoa rồi tàn lụi dần. Phượng múa rồng bay là vẽ vời ra lắm thứ ngoạn mục rồi trở về với hư vô:

Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu

Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu.

Nhưng mỗi năm mỗi… Cứ hiu hắt dần đi. Cây thì rụng lá, hoa thì rụng cuống. Thời gian làm một cuộc hành trình đi về phía vô tận. Ông đồ, hững hờ mà cuống quít ném vào giữa đời một câu hỏi, cũng chẳng là hỏi ai. Người thuê viết nay đâu? Hỏi thời gian? Hỏi không gian? Không, không hỏi ai cả. Hỏi chính lòng mình, tức là hỏi cái quy luật khắc nghiệt và buồn thảm. Trước câu hỏi ấy, giấy đỏ buồn không thắm, đỏ mà lại không thắm thì đỏ cái nỗi gì? Và mực mài ra là để viết, chứ sao lại để đọng? Đọng không ngoài nghiên mà trong nghiên, vì thế cái nghiên cũng phải sầu!

Đến đây, cái thời tàn nó rõ mồn một:

Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài trời mưa bụi bay.

Ông đồ, thì cứ vẫn ông đồ, chứ chả lẽ ông gì? Đâu thì lại ngồi đấy thôi. Dưới tấm màn mưa bụi, nghĩa là tấm màn đan bằng những hạt mưa nhỏ tí xíu như là hạt bụi, bụi thời gian, ném vào ông đồ từng đợt sóng lãng quên, ông bị va đập và níu kéo, bào mòn. Thôi rồi, không còn thể thống gì nữa cái ông đồ, ông vẫn ngồi đấy, tưởng là định vị, nhưng hình tượng hăm hở ấy cứ mờ nhoè, ngút ngấm… cho đến một lúc tả ra như lá, như bụi mưa… Ngoài trời mưa bụi bay… Anh có thấy ra cái điều này không? Bụi mưa, mưa bụi, nó thoảng thớt là thế, mà khắc nghiệt là thế. Nó ưu ái bám lấy con người ta, nhào nắn, rút tỉa, nó cũng gạt gẫm và phỉnh phờ kia đấy, cho đến một ngày, nó nâng bổng người ta lên, ném vào nơi ký ức xoá mờ…

Năm nayđào lại nở

Không thấy ông đồ xưa

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?

Những người muôn năm cũ, là những người không thể nào cũ hơn được. Những con người ấy bây giờ đang ở đâu? Phàm ở đời, cái mới không ngừng nảy sinh, trong lúc cái cũ không ngừng tàn tạ. Như thế nó mới là cuộc sống con người.

Bài thơ nó còn là cái chỗ này: Làm một nơi cư ngụ mong manh cho hồi ức con người về một thế hệ đã tàn phai, và đấy phải chăng là sứ mệnh của văn học?

Đông Trình – Báo Thừa Thiên Huế, xuân 2000

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 8

Cảm nghĩ về hành động của các nhân vật trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”

Được phát hành

,

Bởi

Trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ, thái độ của chị Dậu đối với tên cai lệ và người nhà lí trưởng có cả một quá trình diễn biến. Khi anh Dậu run rẩy bưng bát cháo, vừa mới kề vào miệng thì cai lệ và người nhà lí trưởng sầm sập tiến vào. Trước thái độ hống hách của tên cai lệ và người nhà lí trưởng, lúc đầu, chị Dậu hết sức nhún nhường. Chị lễ phép run run nói: “Nhà cháu đã túng, lại phải đóng cả suất SƯU của chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bê tiền SƯU của nhà nước đâu? Hai ông làm phúc nói với ông lí hãy cho cháu khất…”. Nhưng chị Dậu càng van xin tha thiết, tên cai lệ càng sừng sộ, sai tên người nhà lí trưởng trói anh Dậu lại, điệu ra đình. Khi thấy người nhà lí trưởng hình như không dám hành hạ một người ốm nặng, tên cai lệ sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu. Chị Dậu hốt hoảng chạy đến đỡ lấy tay hắn và một lần nữa, khẩn thiết xin tha: “Cháu van ông, nhà cháu mới tỉnh lại được một lúc, ông tha cho!”. Cai lệ tát vào mặt chị Dậu rồi nhảy vào trói anh Dậu. Hành động tàn bạo của tên cai lệ đã thổi bùng ngọn lửa căm thù trong lòng chị Dậu. Chị nghiến hai hàm răng: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Rồi bằng sức mạnh của lòng căm thù, chị đã lần lượt quật ngã tên cai lệ và người nhà lí trưởng.

Như vậy là, trước hành động tàn bạo của tên cai lệ và người nhà lí trưởng, chị Dậu đã từ thái độ van xin ôn hoà đến chỗ quyết liệt, vùng lên quật ngã bọn tay sai hung ác.

Hành động của chị Dậu trong hoàn cảnh đó không thể khác. Để bảo vệ tính mệnh cho chồng, chị không thể không vùng dậy chông lại hành động tàn bạo của bọn tay sai. Sức mạnh bất ngờ kì lạ của chị Dậu chính là sức mạnh của lòng căm thù bọn tay sai bất nhân, tàn ác.

Đoạn văn trích cho ta thấy người nông dân lao động vốn hiền lành, nhẫn nhục, nhưng khi bị dồn đến cùng đường, họ cũng biết vùng lên chống cự lại một cách dũng cảm. Hành động đánh lại tên cai lệ và người nhà lí trưởng của chị Dậu thể hiện sức mạnh tiềm tàng, tinh thần kiên cường, bất khuất của người nông dân Việt Nam, người phụ nữ Việt Nam. Hành động của chị Dậu cũng phản ánh qui luật “tức nước vỡ bờ”, “con gian xéo mãi cũng quằn, “có áp bức, có đấu tranh”.

Trong đoạn trích, Ngô Tất Tố cũng đã thành công trong việc khắc hoạ bộ mặt tàn ác, đểu cáng, không chút tính người của tên cai lệ và người nhà lí trưởng.

Với những “roi song, tay thước và dây thừng”, tên cai lệ và người nhà lí trưởng hùng hổ xông vào nhà chị Dậu. Tên cai lệ ra oai, hách dịch ngay từ những giây phút đầu tiên. Gõ đầu roi xuống đất, hắn lên giọng quát anh Dậu phải mau mau nộp thuế. Trước lời van xin nhũn nhặn của chị Dậu, hắn “trợn ngược hai mắt”, lớn tiếng quát tháo: “Mày định nói cho cha mày nghe đó à! Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất!”. Không một chút mủi lòng trước cảnh anh Dậu đang đau ốm, bỏ ngoài tai lời van xin tha thiết của chị Dậu, tên cai lệ doạ dỡ nhà, quát tên người nhà lí trưởng, rồi trói cổ anh Dậu lại, điệu ra đình. Khi tên người nhà lí trưởng còn đang “lóng ngóng ngơ ngác” thì tên cai lệ đùng đùng “giật phắt lấy cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu”. Chị Dậu vẫn nhẫn nhục van xin. Nhưng không một chút tình người, tên cai lệ đã đấm vào ngực, tát vào mặt chị Dậu rồi nhảy tới anh Dậu, không kể gì tới mạng sống của anh. Hành động của tên cai lệ thật đểu cáng, bất nhân, không còn chút tình người.

Tên người nhà lí trưởng cũng đểu cáng, bất nhân không kém. Hắn cười mỉa mai khi thấy anh Dậu vì sợ hãi quá mà lăn đùng xuống phảng. Rồi hắn “sấn cổ bước đến giơ gậy chực đánh chị Dậu”. Hành động tàn ác của cả tên cai lệ và người nhà lí trưởng đã đẩy chị Dậu tới chỗ không thể không vùng lên chông trả để bảo vệ mạng sông cho anh Dậu.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 8

Cảm nhận của em về đoạn trích “Hai cây phong”

Được phát hành

,

Bởi

Hai cây phong là phần đầu của truyện Người thầy đầu tiên của nhà văn xứ Cư-gơ-rư-xtan – một nước Cộng hoà ở vùng Trung Á thuộc Liên Xô trước đây. Bài văn có hai mạch kể và tả xen lẫn vào nhau rất nhuần nhuyễn tạo nên một sắc thái đặc biệt về cảm nhận.

Trước hết, bằng lối miêu tả đầy xúc động của một tầm hồn nhạy cảm, người kể chuyện tự giới thiệu mình là hoạ sĩ. Bức tranh vẽ giữa ngọn đồi có hai cây phong. Tuy nhiên đầy không phải là nét vẽ bằng cây cọ, mà bằng lời kể và tả thật duyên dáng, sâu lắng.

Bức tranh ấy chỉ thể hiện lên mỗi lần “chúng tôi” (lời xưng hô của chủ thể trữ tình) đi xa và nghĩ thầm với một nỗi buồn da diết: “Ta sắp được thấy chúng chưa, hai cây phong sinh đôi ấy? Mong sao chóng về đến làng, chóng lên đồi mà đến với hai cây phong!”.

Như vậy, cảnh sắc quê hương được cảm nhận bằng những hình ảnh đậm nhạt, cao thấp, xa gần, khác nhau. Đó là tâm tình của người hoạ sĩ tài hoa trước phong cảnh đầy cảm xúc dâng trào.

Nhưng ở một góc độ cảm nhận, tác giả (nhân vật trữ tình) đã kết hợp tự sự với miêu tả và biểu cảm tạo nên sức hút kì lạ. Bởi vì người kể đã khơi dậy hoài niệm của tuổi thơ.

Đó là vào năm học cuối cùng, bọn trẻ đã reo hò, huýt còi ầm ĩ rồi công kênh nhau bám vào các mắt mấu của hai cây phong mà leo lên. Quên làm sao được “lũ nhóc đi chân đất” ấy “làm chấn động cả vương quốc loài chim” ở trên “những cành cao ngất”. Ôi, ở đây, “bọn nhóc” còn vô cùng sung sướng ngắm nhìn cảnh vật một cách vừa trịnh trọng, vừa yêu thương.

Chúng giương hết tầm mắt nhìn vào nơi xa biêng biếc của thảo nguyên. Chúng “nép mình ngồi trên các cành cây lắng nghe tiếng gió ảo huyền và tiếng lá cây đáp lại lời gió…”. Hai cây phong đã làm cho tuổi thơ rạo rực, bị quyến rũ về vẻ đẹp vừa uy nghi vừa hoang sơ của nó.

Như vậy, đoạn trích Hai cây phong chan chứa một thi vị của quê hương. Nghệ thuật tả và kể của bài văn đã làm cho mạch kể hết sức sinh động.

Đoạn văn thể hiện tâm hồn riêng của hai cây phong là hay nhất, rung động nhất. Đoạn trích chính là một bài ca về tình nghĩa quê hương và về người thầy vĩ đại đã “trồng cây và trồng người”.

Tiếp tục đọc

Xu hướng