Connect with us

Văn mẫu 9

Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện “Làng” (3)

Được phát hành

,

Trước khi tìm hiểu tính cách, phẩm chất và ý nghĩa của hình tượng nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng, chúng ta hãy tóm lược lại cốt truyện. Câu chuyện gồm ba đoạn, với những tình huống đặc sắc:

1. Tối nào cũng vậy, ở nơi tản cư cách quê nhà vài chục cây số, ông Hai thường sang nhà hàng xóm trò chuyện. Khi những câu chuyện tin tức hàng ngày nhạt rồi, ông nói chuyện vé làng ông. Ông vẫn có tính khoe làng. Ông khoe làng ông phong cảnh thênh thang, thoáng rộng, sạch sẽ, có cái “sinh phần” quan tổng đốc người làng, bề thế, với những công trình kiến trúc kì khu. Rồi ông khoe những ngày khởi nghĩa dân làng sôi nổi, náo nức khí thế cách mạng, với những buổi tập quân sự có đủ nam nữ, già trẻ… Chẳng cần biết người nghe có chú ý không, “ông lão nói cho sướng miệng và đỡ nhớ cái làng của ông”. Ở nơi tán cư, trong thân phận nhờ cậy người khác, lòng ông luôn day dứt nhớ về quê hương (Đoạn 1. Sách giáo khoa).

2. Buổi trưa hôm ấy, trên đường từ phòng thông tin về nhà, ông Hai nghe lao xao mấy người tản cư từ mạn dưới lên đưa tin giặc Tây đánh vào quê ông, làng Dầu của ông “cả làng chúng nó Việt gian theo Tây”, cổ ông nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân. Về nhà, ổng nằm vật ra giường, nhìn lũ con, nước mắt cứ trào ra. Lòng ông đau xót và cảm thấy nhục nhã khôn cùng.

Suốt mấy ngày liền, nhất là khi nghe người chủ nhà ngỏ ý sẽ đuổi gia đình ông đi vì là… người của cái làng Việt gian, thì ông Hai “rợn cả người”, về làng ư? Không thể được! “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!…”, “Thật là tuyệt đường sinh sống” (Đoạn 2: Từ câu “Buổi trưa hôm ấy…” đến “… vợi đi được đôi lời”).

Advertisement

3. Vài ngày sau, khoảng ba giờ chiều, ông chí) tịch làng Dầu lên chơi, mời ông Hai di họp và báo tin mới. Mọi người chưa rõ tin gì, thì lúc sẩm tối, thấy ông Hai khăn áo chỉnh tề, mặt tươi vui rạng rỡ, mồm bỏm bẻm nhai trầu, chia quà cho các con, bô bô nói: “Bác Thứ đâu rồi?… Tây nó dốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính,…Cải chính cái lin làng chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết!… Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa lên cải chính…”. Ông lão cứ múa tay lên khoe cái tin ấy với mọi người.

Và tối tối, như trước kia, ông Hai lại sang nhà hàng xóm kể chuyện về cái làng của ông. Lần này ông không kể chuyện nào khác mà toàn là chuyện Tây vào làng đốt phá ra sao, dân quân, tự vệ làng ông bố trí, cầm cự ra sao, rành rọt, tí mỉ như chính ông vừa dự trận đánh giặc ấy, trở về (Đoạn 3: Phần còn lại).

Ngay ở phần đầu câu chuyện, tình yêu quê hương của người lão nông ấy đã bộc lộ khá sâu sắc. Nhà văn đặt nhân vật vào tình huống có ý nghĩa: là một nông dân suốt cuộc đời sống ở quê hương, gắn bó máu thịt với từng con đường, từng nếp nhà, thửa ruộng, từng ngọn cỏ, cành cây và biết bao người ruột thịt, xóm giềng, họ hàng gần xa, vậy mà giờ đây vì giặc ngoại xâm, ông Hai phải xa rời quê hương đi tản cư, sống nhờ nơi quê người đất khách. Do đó, lòng ông đau đáu nhớ quê. Ban ngày bận lo việc sản xuất, ổn định cuộc sống thì thôi, chiều, rồi buổi tối, ông Hai lại sang hàng xóm giãi bày nỗi nhớ của mình. Trong câu chuyện, ông không ngớt lời khoe những cái đẹp, điều hay ở quê hương mình. Làng Dầu quê ông đẹp lắm, đường làng phong quang, sạch sẽ, cái cổng làng rộng như cổng thành. Ông khoe cả cái “sinh phần” – cái lăng mộ – của viên tổng đốc người làng, mặc dầu đó là một chứng tích đau khổ của dân làng, trong đó có ông. Đặc biệt là ông Hai khoái nhất, khoe và kể nhiều nhất là những ngày dầu Cách mạng tháng Tám. Quê hương được giải phóng, thoát khỏi ách cường hào phong kiến và lũ tay sai thực dân. Dân làng ông bắt đầu cuộc sống mới. Đêm đêm rậm rịch tiếng bước chân của đoàn du kích tập quân sự, sáng, chiều râm ran tiếng trẻ học bài… Lại cả những tiếng hát của thanh niên ngân vang trong những buổi cả làng bàn việc nước, việc dân… Nghe những chuyện ấy, mọi người đều thông cảm với lòng nhớ quê da diết của ông. Không chỉ nhớ mà ông còn luôn tự hào, cho rằng làng Dầu của ông đẹp nhất nhì thiên hạ. Đó là một người yêu quê hương tha thiết bàng một tình cảm tự nhiên, hồn nhiên. Tình cảm đó bắt nguồn từ những kỉ niệm trong cuộc sống hằng ngày, từ những sự vật, con người gắn bó hằng ngày… Tình cảm đó thuần phác và trong sáng biết bao.

Không chí bằng tình cảm tự nhiên, ông Hai còn biết yêu quê hương bằng sự nhận thức sâu sắc của người dân Việt Nam tự nguyện đi theo kháng chiến, gắn bó với cuộc chiến đấu chung của dân tộc. Tình yêu quê hương đã gắn bó với tình yêu Tổ quốc. Nhà văn đã xây dựng tình huống thứ hai, éo le hơn, gay gắt hơn: ông Hai nghe tin làng mình theo giặc. Nghe được tin dữ, ông Hai sững sờ: “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tướng như đến không thở được”. Tin ấy không chỉ chấn động thể xác mà còn xâm chiếm, ám ảnh, day dứt cả tâm hồn. Nghe tiếng chửi bọn “Việt gian”, ông “cúi gầm mặt xuống mà đi”, về đến nhà ông nằm vật ra giường, nhìn đàn con – những đứa trẻ của làng Dầu quê hương – ông thấy tủi hổ “nước mắt ông lão cứ giàn ra”. Ông tự nhủ: “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”. Bao nhiêu điều tự hào về quê hương như sụp đổ trong tâm hồn người nông dân rất mực yêu quê hương ấy. Nhà văn đã miêu tả rất cụ thể, sâu sắc những biến động dữ dội trong nội tâm nhân vật. Những đau đớn, dằn vặt, sự hổ thẹn đến tột cùng đã đẩy ông Hai vào một tình huống phải lựa chọn. Quê hương và Tổ quốc, bên nào nặng hơn? Quê hương đáng yêu, đáng tự hào… Nhưng giờ đây… Dường như mới chỉ nghĩ tới đó, lòng ông Hai đã nghẹn đắng lại. Tình yêu quê hương và tình yêu Tổ quốc xung đột dữ dội trong lòng ông. Một ý nghĩ tiêu cực thoáng qua trong đầu: Hay là quay về làng. Nhưng rồi ông cảm thấy “rợn cả người”. Cuối cùng ông đã quyết định: “Không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Như vậy, đối với người nông dân thuần phác ấy, tình yêu nước rộng lớn đã bao trùm lên tình cảm làng quê. Chuẩn mực cho tình yêu và niềm tự hào về quê hương, đối với ông Hai lúc bấy giờ là cuộc kháng chiến. Tuy đau xót tưởng chừng bế tắc, nhưng trong cõi thẳm sâu của tấm lòng, người nông dân ấy vẫn hướng về kháng chiến, vẫn tin ở những điều tốt, cố giữ cho tâm hồn không vẩn đục, để đón đợi một điều gì đỡ đau đớn, tuyệt vọng hơn. Khi tâm sự với đứa con, nghe con nói “ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh”, nước mắt ông Hai giàn ra, chảy ròng ròng, giọng ông như nghẹn lại “ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ”. Phải chăng, trong tâm hồn người nông dân chất phác ấy vẫn không phút nào nguôi ngoai nỗi nhớ quê, yêu quê hương và nỗi đau đớn khi nghe tin quê hương rời xa công việc chiến đấu chung của đất nước bấy giờ? Tâm sự với con, ông Hai muốn bảo con nhớ câu “nhà ta ở làng chợ Dầu”. Đồng thời ông nhắc con – cũng là tự nhắc mình “úng hộ Cụ Hồ Chí Minh”. Tinh quê và lòng yêu nước của người nông dân ấy sâu nặng và thiêng liêng biết bao. Ông Hai đã trải qua những buồn vui, đau khổ, những tự hào, chua chát, những tuyệt vọng và hi vọng,… hài hoà, gắn bó giữa quê hương và Tổ quốc.

Đến tình huống cuối cùng của câu chuyện thì tất cả đã được giải toả. Đó là việc: ông chủ tịch làng Dầu lên chỗ ông Hai tản cư, cải chính cái tin làng chợ Dầu đi Việt gian. Khi nghe tin chính thức làng Dầu quê hương không theo giặc, trái lại đã đứng lên chiến đấu chống giặc, ông Hai vô cùng sung sướng, tự hào. Chia quà cho trẻ con, đi khoe với mọi người cái tin ấy…, ông như muốn sẻ chia niềm vui, khẳng định vẻ đẹp, bản chất cách mạng của làng quê. Và ông cũng muốn khẳng định tấm lòng yêu làng, trong niềm tin yêu cuộc kháng chiến của mình. Tình yêu quê hương trong trái tim người nông dân ấy đã hoà quyện với tình yêu Tổ quốc, cách mạng. Vì thế, mặc dù biết căn nhà mình bị giặc đốt cháy, ông Hai không xót xa nuối tiếc, trái lại ông cứ “múa tay lên mà khoe vợi mọi người”. Nét tâm trạng này không bình thường, nhưng lại hoàn toàn chân thực. Dường như, đối với ông lúc ấy cái sự việc phũ phàng kia (nhà ông bị giặc đốt cháy) là một chứng cớ hùng hồn nói với mọi người rằng làng xóm quê hương ông đã dũng cảm chiến đấu chống quân thù, căn nhà ông bị đốt cháy, bị thiêu huỷ, giống như một dũng sĩ anh hùng ngã xuống vì sự nghiệp chung. Sau cái làng bị đốt cháy kia sẽ là một làng quê anh hùng, đứng dậy chống thực dân Pháp. Đi khoe cái tin “căn nhà cháy”, ông Hai đã quên nỗi đau, sự mất mát riêng để tự hào sung sướng trong vẻ đẹp, sức mạnh chung của làng quê, đất nước. Tình yêu làng của ông đã mở rộng, hoà trong tình yêu nước. Nói cách khác, cội nguồn của lòng yêu quê hương là cuộc chiến đấu cứu nước, cứu làng. Làng và nước không thể lách rời mà luôn gắn bó thành một khối, bất khuất, kiên cường chống ngoại xâm.

Có thể nói: ông Hai làng Dầu là một người thuần phác, đôn hậu, có bản chất tốt đẹp. Tuy mới bước vào cuộc kháng chiến, nhưng ông đã sớm giác ngộ, có nhận thức và tình cảm đúng dắn. Trong trái tim ông, tình yêu quê hương và tình yêu đất nước hài hoà, nồng thắm. Ông ý thức sâu sắc tình quê nằm trong tình nước, niềm tự hào về quê hương phải bắt nguồn từ ý chí quyết tâm chiến dấu của mọi người trong cuộc chiến đấu chung của cả nước. Tất cả nỗi buồn và niềm vui của mỗi người dân luôn luôn gắn bó với làng quê, Tổ quốc, vẻ đẹp tâm hồn của ông Hai làng Dầu tiêu biểu cho những người nông dân Việt Nam, tuy trình độ văn hoá thấp, nhưng đã có ý thức giác ngộ cao, tha thiết yêu quê hương, Tổ quốc. Nói cách khác, quê hương – Tổ quốc đối với mỗi người Việt Nam chúng ta luôn gắn bó trong niềm tự hào và tình yêu nồng thắm! Xây dựng thành công một nhân vật điển hình như thế, nhà văn Kim Lân đã sử dụng giọng kể thù thỉ, tâm tình với cách dùng từ, viết câu giản dị, gần gũi với người nông dân, nhưng vẫn trau chuốt, chọn lọc (Đoạn tả làng quê ông Hai qua lời ông kể, đoạn kể lúc ông nhận tin vui trở về nhà…). Đặc biệt là tác giả rất thành công khi biểu hiện tâm lí, những biến đổi tính cách của nhân vật ông Hai qua những tình huống truyện khá đặc sắc. Ở nhân vật này có ba trạng thái, tâm tư, tình cảm biến đổi dần dần theo sự diễn biến của câu chuyện. Lúc đầu ông Hai yêu làng trong tình cảm tự nhiên, đơn giản, có phần chú quan, kiêu ngạo. Sau, ông căm thù làng quê trong nỗi đau bị xúc phạm, tuyệt vọng (dáng hình lời nói của nhân vật như thu nhỏ lại, co rúm, thảm bại). Nhưng đến cuối truyện, ông Hai như một con người khác, cả cử chỉ, lẫn thái độ, lời nói và ý nghĩ đcu sôi động hơn, mạnh mẽ hơn, chan chứa niềm vui, niềm tự hào. (Ở cuối truyện, nhà văn trở lại chi tiết đầu: ông Hai lại sang hàng xóm kể chuyện về làng quê, nhưng là những câu chuyện hoàn toàn mới.

Advertisement

Kể chuyện làng chiến đấu mà như kể chuyện chính mình vừa tham dự chiến đấu, trở về). Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật và xây dựng tình huống truyện của nhà văn như thế, thật tinh tế, linh hoạt. Ngòi bút Kim Lân hiện thực, chân chất, pha chút lãng mạn bay bổng rất hấp dẫn.

Tiếp tục đọc
Quảng cáo

Văn mẫu 9

Biệt tài vận dụng các biện pháp tu từ của văn học dân tộc, đặc biệt là ẩn dụ trong “Truyện Kiều”

Được phát hành

,

Bởi

Đề bài: Giáo sư Đặng Thanh Lê có viết: “Nguyễn Du có biệt tài vận dụng các biện pháp tu từ của văn học dân tộc, đặc biệt là ẩn dụ”. Hãy phân tích một số câu, một số đoạn trong Truyện Kiều để làm sáng tỏ nhận xét trên.

Bài làm

Truyện Kiều của thi hào dân tộc Nguyễn Du là kiệt tác trong nền văn học cổ Việt Nam. Tuy mượn đề tài, cốt truyện từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân (Trung Quốc) nhưng áng thơ dài 3254 câu thơ lục bát này đậm đà bản sắc đân tộc, chứa chan một tình nhân ái bao la “rung động đất trời” (Tố Hữu).

Về phương diện nghệ thuật, truyện thơ này là mẫu mực và đỉnh cao về ngôn ngữ thi ca và xây dựng nhân vật. Đọc Truyện Kiều, ta cảm nhận một cách sâu sắc. “Nguyễn Du có biệt tài vận dụng các biện pháp tu từ của văn học dân tộc, đặc biệt là ẩn dụ mà giáo sư Đặng Thanh Lê đã nhận xét.

Advertisement

Khi tả cảnh cũng như lúc tả người, tả tình, với cá tính sáng tạo của một thiên tài, Nguyễn Du đã vận dụng nhiều biện pháp tu từ của văn học dân tộc, đặc biệt tả ẩn dụ làm cho câu thơ, đoạn thơ đầy hình tượng và biểu cảm.

Nguyễn Du có biệt tài về vận dụng biện pháp tu từ của văn học dân tộc

Mùa xuân về tưng bừng trong ngày hội “Đạp thanh” của tuổi trẻ. Ba chị em Kiều cũng “sắm sửa bộ hành chơi xuân”. Khắp các ngả đường, dòng người trây hội kéo dài vô tận:

Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.

Đằng biện pháp tu từ hoán dụ (ngựa xe, áo quần), so sánh (… như nước… như nêm) và đối (2 vế câu 8 đối nhau) nhà thơ đã tái hiện cảnh trẩy hội mùa xuân tấp nập, đông vui, rộn ràng của giai nhân, tài tử.

Đây là hai câu tỏ tình của chàng Kim:

Advertisement

Tiện đây xin một hai điều,

Đài sen soi đến dấu bèo cho chăng?

“Dấu bèo” (ẩn dụ) chỉ kẻ tầm thường, thấp hèn. Kim Trọng khiêm tốn, nhún mình. “Đài sen” (ẩn dụ) chỉ con người cao quý, được trân trọng. “Đài sen soi đến…” (nhân hoá): lời tỏ tình tế nhị. Chàng Kim hào hoa, đa tình biểu lộ một tâm tình say đắm người đẹp, bày tỏ một tấm lòng khao khát yêu đương. Cách tỏ tình vừa hoa mỹ vừa truyền cảm.

“Trước lầu Ngưng Bích” là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc trong Truyện Kiều. Tác giả vận dụng tài tình các biên pháp tu từ như điệp ngữ, ẩn dụ, hoán dụ,… để viết nên những vần thơ tuyệt diệu. Điệp ngữ “Buồn trông” đứng ở đầu câu sáu, láy lại bốn lần liên tiếp, khơi gợi nỗi sầu thương nặng trĩu, triển miên, day dứt trong lòng Kiều. Cửa bể chiều hôm hoang vắng, xa lạ, mịt mờ với con thuyền và cánh buồm, ngọn nước mới sa và hoa trôi man mác, nội cỏ dầu dầu và chân mây, mặt đất,… gió cuốn và ầm ầm tiếng sóng – là những hình ảnh ẩn dụ và hoán dụ đặc tả một kiếp người lưu lạc đang lênh đênh, trôi dạt trên dòng đời vô định đầy bão tố, với tâm trạng sợ hãi, cô đơn và tuyệt vọng. Ngoại cảnh hoà hợp với tâm cảnh:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ dầu dầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Nguyễn Du có biệt tài… đặc biệt là ẩn dụ

Ẩn dụ là lối ví ngầm. Xưa nay, đoạn thơ tả tài sắc hai chị em Kiều vẫn được nhiều người tán thưởng. Bức chân dung “hai ả tố nga” vô cùng xinh đẹp, một vẻ đẹp thanh tân, tuyệt mĩ:

Mai cốt cách, tuyết tinh thần,

Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Thuý Kiều và Thuý Vân cốt cách, yểu điệu như “mai”, tinh thần trắng trong như “tuyết”; từ dáng vẻ, dung nhan đến tâm hồn đều kiều diễm “mười phân vẹn mười”. Hai hình ảnh ẩn dụ “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” là những nét vẽ tài hoa, có giá trị thẩm mỹ tinh tế.

Advertisement

Bốn câu thơ tiếp theo tả sắc đẹp Thuý Vân. Gương mặt đầy đặn xinh tươi như vầng trăng rằm, lông mày thanh tú xinh xắn như “mày ngài”, miệng cười tươi như “hoa”, tiếng nói trong như “ngọc”, tóc mềm bóng đẹp hơn “mây”, da trắng mịn hơn “tuyết”. Trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết,… tiêu biểu cho vẻ đẹp của thiên nhiên được ví với gương mặt, nụ cười, giọng nói, mái tóc, màu da… của giai nhân. Cách miêu tả ấy tuy mang tính chất ước lệ, nhưng ngòi bút “thần” của Tố Như đã viết nên những cảu thơ có hình ảnh ẩn dụ hấp dẫn lạ thường:

Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang.

Mây thua nước tốc, tuyết nhường màu da.

Nếu Vân là một giai nhân thì Kiều là một giai nhân tuyệt thế, mặn mà, sắc sảo tài sắc vẹn toàn. Nguyễn Du đã sử dụng biện pháp ẩn dụ – nhân hoá gợi tả vẻ đẹp mộng mơ của Thuý Kiều. Mắt nàng trong như nước mùa thu. Lông mày xinh xắn như dáng núi mùa xuân… Sắc đẹp ấy làm cho hoa phải “ghen”, liễu phải “hờn”:

Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Những câu thơ, những hình ảnh ẩn dụ – nhân hoá ấy là bông hoa nghệ thuật tươi thắm mãi với thời gian toả hương vào hồn người. Nó còn thể hiện tấm lòng ưu ái của nhà thơ đối với cái đẹp trong nhân gian.

Nguyễn Du không những đã tiếp thu thi liệu, điển tích của văn học Trung Hoa mà còn học tập dân ca, ca dao, học lời ăn tiếng nói của người trồng dâu, trồng gai nơi đồng nội để sáng tạo nên vần thơ đặc sắc.

“Hạt mưa” là hình ảnh so sánh ẩn dụ trong ca dao, dân ca nói về thân phận, số phận của người con gái ngày xưa: “Thân em như hạt mưa sa, Hạt rơi đài các, hạt ra ruộng cày”… Trước cảnh gia biến, nàng Kiều nghĩ và hành động:

Advertisement

Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,

Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.

“Hạt mưa, tấc cỏ, ba xuân” là những hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa tượng trung, nói ít mà gợi nhiều, hàm súc, hình tượng và truyền cảm. Kiều là một thiếu nữ giàu đức hi sinh, hiếu thảo, quyết bán mình chuộc cha khỏi vòng tù tội.

Nghệ thuật của Truyện Kiều là đa dạng, phong phú, đặc sắc độc đáo. Những câu Kiều vừa trích dẫn ở trên đã khẳng định nhận xét”của giáo sư Đặng Thanh Lê là đúng đắn.

Ứớc lệ và tượng trưng là đặc điểm của thi pháp cổ. Lúc tả cảnh, tả người, tả tình… Nguyễn Du cũng sừ dụng bút pháp ước lệ, tượng trưng nhưng với cá tính sáng tạo của một nghệ sĩ thiên tài, câu thơ Kiều đầy nhạc điệu, hình ảnh “Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”, rất sống động và tinh tế. Đặc biệt là những câu Kiều mang hình ảnh ẩn dụ đã in sâu vào tâm trí mỗi chúng ta: “Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày…” (Tố Hữu)

Truyện Kiều đã làm rạng rỡ nền văn học cổ Việt Nam. Tên tuổi thi hào dân tộc Nguyễn Du sống mãi trong tâm hồn của nhân dân ta với bao tình cảm kính phục, tự hào.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 9

Bình luận bài thơ “Bếp lửa”

Được phát hành

,

Bởi

Chúng ta đã được đọc nhiều áng thơ hay về tình yêu quê hương, tình cảm gia đình. Có người thích vẻ đẹp thiết tha, nồng nàn của Tế Hanh ở bài Quê hương. Có người yêu sự mộng mơ, lãng mạn của tình mẹ con trong bài Mây và Sóng của Ta-go… Riêng tôi, tôi đồng cảm cùng tình bà cháu nồng đượm, đằm thắm trong bài Bếp lửa của Bằng Việt.

Bếp lửa là một bài thơ của nỗi nhớ về một bếp lửa tuổi thơ, nhớ rành rọt, nhớ ngọn ngành. Không dễ gì mà biết nhớ như vậy. Nhà thơ đã thổi bùng lên một bếp lửa ấp iu nồng đượm trong kí ức để hiện lên mối tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích.

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa,

Trong thơ văn, còn có mối tình bà cháu nào cảm động hơn? Mối tình bà cháu như một dòng sông, dòng sông êm đềm và trong vắt, một dòng sông chở đầy kỉ niệm: một bếp lửa và một làn sương sớm. Tiếng tu hú và giọng kể chuyện của bà.

Rồi những ngày đói khổ làm nhoà mắt đứa cháu còn bé… Và kỉ niệm này xin để nguyên khôi, không dám lược bớt:

Advertisement

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu, nhà thơ nói thế, chúng ta cũng thấy cay sống mũi. Những kỉ niệm trôi theo một nhạc điệu tâm tình âm ỉ, thầm thì, triền miên như nỗi nhớ. Dòng sông êm đềm và trong vắt vẫn âm thầm chảy. Chúng ta được dạo trên chiếc thuyền thơ với một tay lái khoan thai, chúng ta đang say mê với những kỉ niệm thì thấy biển cả hiện ra trước mắt!

Dòng sông của tình bà cháu đã đổ vào biển cả của tình yêu nước. Biển yên sóng lặng thôi, nhưng cũng bát ngát sâu thẳm.

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh

Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen…

Mấy câu thơ chẳng có gì là kĩ xảo, chẳng có gì là gọt tỉa, giản dị như lời nói thường thôi: như được nghe chính lời bà thủ thỉ, như có một thứ gió lạ kì lay động tâm hồn ta mãi. Đứa cháu có nghĩa có tình đã biết đã quý điều bà thường cất giấu kín đáo trong rương trong hòm. Và chính ánh sáng của những thứ của quý đó đã từng rọi vào tâm hồn thơ bé của đứa cháu, nhóm dậy, nhóm dậy, nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ. Nhịp thơ trở nên xốn xao như sự sống sinh đôi, như cây non xoè lá, như chim non chớp cánh.

Rồi đứa cháu lớn vụt lên, bay bổng:

Giờ cháu đã đi xa.

Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Những năm tháng sống ở nước ngoài, giữa ngọn khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả, giữa những hoa mĩ, dễ hấp dẫn lòng người, nhưng nhà thơ tỏ ra không bị choáng ngợp. Có thể nói, tình cảm chủ đạo chi phối tâm não tác giả là những hình ảnh thân yêu quen thuộc của quê hương đất nước, đã từ lâu gắn bó với tuổi thơ. Vì thế nhà thơ đã gửi về bà – người bà rất đỗi kính yêu – như lời tâm tình chân thật, thiết tha: sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Advertisement

Từ tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích, bài thơ gợi lên những yêu thương đầu tiên, những suy nghĩ đầu tiên về cuộc đời, về đất nước… Cảm xúc tinh tế, chân thật và đượm buồn của nhà thơ trỗi dậy trong kí ức người đọc những kỉ niệm về cuộc sống gia đình, về truyền thống tình nghĩa của dân tộc. Và đó chính là sức hấp dẫn của bài thơ Bếp lửa.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 9

Bình luận bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”

Được phát hành

,

Bởi

Mùa Xuân, ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền xứ Huế…

(Thanh Hải)

Vâng, đã có một Mùa Xuân như thế – một Mùa Xuân âm vang tiếng hát từ trong lòng người để rồi lan toả cả đất trời- một Mùa Xuân trên quê hương xứ Huế giàu chất thơ với bao vẻ đẹp quyến rũ làm say đắm lòng người. Mùa Xuân làm đổi mới, khởi sắc thiên nhiên, tạo vật và bỗng dưng tâm hồn con người tràn trề một niềm yêu đời, vui sống mãnh liệt. Nhà thơ Thanh Hải, một người con của Huế đã nắm bắt và truyền vào lòng người những cảm xúc chan chứa yêu thương ấy bằng một bài thơ có nhan đề rất khiêm tốn: Mùa Xuân nho nhỏ. Thế nhưng bài thơ từ lúc ra đời đã cất cao tiếng hát lạc quan từ trái tim nhà thơ hoà vào bản hoà- tấu- cuộc- đời rộng lớn, âm vang suốt chiều dài thời gian từ bấy đến nay. Bài thơ đã thực sự thành bài hát nổi tiếng được mọi người yêu chuộng.

Mở đầu bài thơ là một bức tranh Mùa Xuân tươi đẹp, không gian bao la, bát ngát mở ra cả ba chiều:

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

Trên cái nền không gian rộng lớn ấy, nổi bật những hình ảnh, đường nét, màu sắc thật nên thơ và gợi cảm, êm ái, dịu dàng, đáng yêu biết bao. Một màu xanh tươi sáng trải rộng mênh mông làm nền và tôn thêm vẻ đẹp nổi bật của “bông hoa tím biếc”. Một màu “tím biếc” lung linh, lấp lánh giữa “dòng sông xanh” lại càng thơ mộng.Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên được nhà thơ phác hoạ bằng hai hình ảnh với những đường nét mềm mại, thanh sơ, màu sắc hài hoà đã thể hiện cái “hồn” của Mùa Xuân: một sắc Xuân đầy sức sống và quyến rũ

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc.

“Mọc” là vươn lên, trỗi dậy từ lòng đất. Đặt từ “mọc” ngay từ đầu câu thơ, bài thơ đã gây cho người đọc về sức sống mãnh liệt, bất ngờ đến ngạc nhiên của thiên nhiên, tạo vật. Bức tranh Mùa Xuân không chỉ có hình ảnh, màu sắc mà còn có cả âm thanh. Đó là âm thanh tiếng chim chiền chiện hót ngân vang, thánh thót càng làm cho buổi sớm xuân có không khí náo nức lạ thường. Đứng trước vẻ đẹp đầy sức hấp dẫn và quyến rũ của bức tranh Xuân ấy, tâm hồn nhà thơ làm sao ngăn được những xúc động mãnh liệt. Tâm hồn nhạy cảm của thi nhân và những tác động ngoại cảnh đã khơi dậy bao nguồn cảm xúc. Tình yêu thiên nhiên, lòng yêu đời, yêu cuộc sống trào dâng chan chứa, tràn đầy. Tiếng thơ là tiếng lòng tác giả thốt lên từ trái tim rung động dào dạt:

Advertisement

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời.

Hai câu thơ nhằm bộc lộ cảm xúc cao độ. Có cái gì ngọt ngào, rất Huế trong giọng thơ trìu mến, thân thương qua những từ ngữ chân quê, mộc mạc: “ơi… chi mà..”. Phải thực sự là người sống gắn bó với Huế qua bao tháng năm bằng tình yêu tha thiết, mới hiểu được cái giọng Huế ngọt ngào trong lời thơ Thanh Hải. “Hót chi mà vang trời” cứ ngỡ như là một lời trách nhưng là trách yêu đấy thôi; chan chứa yêu thương. Với một tâm hồn nhạy cảm và một tình yêu mãnh liệt như thế, tiếng chim đã tác động vào trí tưởng tượng phong phú của nhà thơ, tạo nên những ảo giác. Tâm hồn tác giả đang ở trạng thái “tĩnh” chuyển sang trạng thái “say”. Trí tưởng nhà thơ đi từ cõi thực dần vào cõi mộng. Vì thế mà tiếng chim hót, nhà thơ cứ ngỡ như là “từng giọt long lanh rơi” có thể nhìn thấy, có thể đưa tay hứng được:

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

Tâm hồn nhà thơ đã bị cuốn hút mãnh liệt bởi tiếng chim. Và cái cử chỉ “Tôi đưa tay tôi hứng” là một biểu hiện cao độ của niềm say mê đó. Có cái gì náo nức, rộn rã, xao xuyến không chỉ thể hiện qua cử chỉ mà còn chứa đựng trong cả lời thơ, giọng thơ. Nhịp thơ dồn dập, âm hưởng ngân vang rất cao như một bản hoà tấu, bắt đầu thong thả, nhỏ nhẹ rồi nhanh dần, vút cao bằng một thanh trắc ở cuối đoạn: “tôi đưa tay tôi hứng”. Tiếng hót của loài chim trong thiên nhiên đã khơi dậy tiếng hát trong lòng tác giả. Dường như, tự trong lòng mình, nhà thơ đã cất cao tiếng hát. Tiếng hát của niềm lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống thiết tha. Nhà thơ đã hát cùng thế hệ, hát mãi một niềm khát vọng, một lẽ sống tốt đẹp: khát vọng cống hiến phần nhỏ bé của bản thân mình để làm cho cuộc đời chung ngày một tươi đẹp:

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hoà ca

Một nốt trầm xao xuyến.

Lẽ sống ấy đã trở thành điều tâm niệm và điều tâm niệm ấy được láy đi láy lại như một điệp khúc trong bản hoà tấu ngợi ca Quê hương, Mùa Xuân và Cuộc sống.

(Bài viết của Thuỷ Triều, đăng trên báo Thừa Thiên Huế số 55, 24/1/1999)

Advertisement
Tiếp tục đọc

Xu hướng