Connect with us

Văn mẫu 8

Phân tích nhân vật ông giáo trong truyện ngắn “Lão Hạc” (3)

Được phát hành

,

Viết truyện ngắn Lão Hạc Nam Cao không lạnh lùng khách quan mà chân thực, gắn bó, không thờ ơ, hững hờ mà tha thiết cảm động. Nhà văn coi mình là người trong cuộc (ý của Hà Minh Đức). Ấy là bởi có nhân vật ông giáo.

Truyện ngắn Lão Hạc nếu mất đi nhân vật ông giáo quả là một sự thiếu sót. Ông giáo đã làm sáng lên, nêu bật nội dung tư tưởng sâu sắc của tác phẩm.

Nam Cao được đánh giá là nhà văn hay trăn trở về cuộc đời, trăn trở về thân phận con người, Nhân vật ông giáo được đặt vào tác phẩm không phải là không có chủ định. Với vai trò là người dẫn chuyện, kể chuyện, ông giáo trực tiếp thổ lộ, biểu hiện những tình cảm của mình một cách tự nhiên, khái quát. Tác phẩm trở nên phong phú như được phả vào một luồng tình cảm chắt lọc từ một con người có tấm lòng chân chính – ông giáo.

“Ốm dậy, tôi về quê. Hành lí chỉ vẻn vẹn có một cái va-li đựng toàn những sách. Ôi những quyển sách rất nâng niu… Sau cùng, chỉ còn có năm quyển, tôi nhất định dù có phải chết cùng không chịu bán. Ấy thế mà tôi cũng, bán! Mới cách đây có hơn một tháng thôi, đứa con nhỏ của tôi bị chứng kiết lị gần kiệt sức… Không! Lão Hạc ơi! Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu?” Những lời chua chát đắng cay thấm vào từng câu chữ. Ông giáo đã có một thời cao vọng, đầy những say mê, nhiệt huyết, nguyện cống hiến cho đời tất cả tài năng trí tuệ. Nhưng hình như cuộc sống thực tại đã trói chặt và xoá mờ những ước mơ đó. Cái gì đẹp hơn là một con người nguyện công hiến toàn bộ lí tưởng đó lại bị một bức tường ngăn trước mặt. Tính cách của ông giáo có sung sướng lão Hạc. Nhân vật này là hình bóng của nhân vật trí thức tiểu tư sản nghèo của Nam Cao, là đối tượng của nhà văn khai thác. Đó cũng là hình bóng, là hiện thân của Nam Cao.

Là một con người được nếm trải – và chứng kiến bao cảnh sống, ông giáo luôn canh cánh bền lòng nỗi trăn trở về cuộc đời, về con người. Trong tác phẩm đã rất nhiều lần ông giáo phải thốt lên những lời đắng cay, chua xót về mối quan hệ giữa con người và con người, sự biến mất ở mỗi con người: Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta… không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương. Không! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác. Sự lo lắng, băn khoăn của ông giáo cũng là nỗi niềm của Nam Cao. Tâm sự của nhân vật mang một nỗi đau về thời thế. Thật sâu sắc và trân trọng. Nhưng đó cũng là con người bất lực – “lực bất tòng tâm”, chỉ biết kêu lên những lời ca tha thiết. Ông giáo không biết và không chỉ ra được con đường thoát cho lão Hạc cũng không tìm được con đường thoát cho chính mình. Đó cũng là đặc điểm của bao nhân vật tiểu tư sản nghèo trong tác phẩm của Nam Cao.

Được học hành, nếm trải ông giáo có một sự hiểu biết và lòng thương yêu rất mực đối với con người, một lòng thương quê mình. Đối với vợ – một người hay đánh giá lầm lạc về con người, ông giáo chỉ có thể buồn chứ không nỡ giận. Bởi hiểu biết về quy luật khắc nghiệt của cuộc sống, ông giáo đã sẵn sàng tha thứ tính xấu hay những lầm lạc của con người. Một sự bao dung nhìn nhận con người một cách đúng đắn. Đặc biệt với nhân vật lão Hạc, ông giáo càng thể hiện tấm lòng mình. Ông là người biết nhìn nhận cái đẹp và trân trọng cái đẹp. Chính vì vậy mà đã có lúc ông lo sợ cái đẹp ở con người lão Hạc có thể biến mất. Ông giáo đã tìm thấy con người bề ngoài có vẻ lẩm cẩm kia chứa đựng bên trong một vẻ đẹp sáng ngời. Chính vì thế mà ngòi bút của Nam Cao qua nhân vật ông giáo, ban đầu thì lạnh lùng, nhưng càng về sau càng tha thiết càng gắn bó.

Sống trong một xã hội mà con người lừa dối lẫn nhau, có được một sự hiểu biết đúng đắn và một trái tim như ông giáo quả là đáng quý. Ông giáo có cách nhìn nhận về người nông dân có lúc lầm lạc, nhưng cuối cùng thì ông cũng thấy được vẻ đẹp đáng trân trọng ở họ. Dù phải sống trong một hoàn cảnh không sung sướng gì nhưng ông giáo luôn luôn giúp đỡ những người đói khổ hơn mình: Tôi giấu giếm vợ tôi, thỉnh thoảng giúp ngấm ngầm lão Hạc.

Trên cương vị là nhân vật xưng tôi, ông giáo đã không giấu giếm những suy nghĩ, tình cảm đối với người đọc. Đó cũng là cách khai thác nội tâm nhân vật của Nam Cao. Ông giáo trở thành tri kỉ của những con người đau khổ như lão Hạc. Ông giáo đã chứng kiến và thực sự xúc động trước nỗi đau của lão Hạc: “Đôi mắt lão ầng ậng nước,… Lão hu hu khóc…”

Người ta đánh giá Ngô Tât Tố là nhà văn trân trọng người nông dân nhất, còn Nam Cao, thông qua nhân vật ông giáo cũng đã thể hiện một tấm lòng rất mực thông cảm đối VỚI người nông dân. Ông giáo đến với lão Hạc, làm bạn với lão Hạc, đó là sự đến với con người.

Truyện ngắn Lão Hạc khép lại với tiếng thổn thức tận đáy lòng ông giáo. Sự tiếc cho một cái đẹp đã vĩnh viễn mất đi, tấm lòng và sự hiểu biết của ông giáo quả là không thể thiếu được trong tác phẩm.

Dù còn những mặt hạn chế, nhưng nhân vật ông giáo là một tấm gương hiếm hoi về lòng đôn hậu, về cách nhìn nhận và trân trọng những phẩm chất cao đẹp của những con người đau khổ ở cái xã hội rối ren đầy cạm bẫy. Ông giáo cũng là nhân vật Nam Cao trân trọng và gửi gắm tấm lòng mình. Chủ nghĩa nhân đạo qua nhân vật ông giáo đã giúp cho tác phẩm một tiếng nói của con người chứng kiến và cảm nhận câu chuyện. Từ lúc mở đầu cho đến kết thúc. Đồng thời qua nhân vật ông giáo, ta còn phát hiện được những điều độc đáo, mới mẻ trong cách xây dựng nhân vật của Nam Cao. Ông giáo được xây dựng qua dòng suy nghĩ, tình cảm của tác giả. Nhân vật ông giáo đã ghi một dấu ấn khó quên trong lòng người đọc và chiếm một vai trò quan trọng

trong tác phẩm. Nhân vật còn hướng chúng ta tới những điều chân, thiện, mĩ. Cho nên không chỉ bằng nhân vật lão Hạc mà bằng nhân vật ông giáo, tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao đã truyền được hơi thở của cuộc sống, những băn khoăn day dứt của con người đến chúng ta và do đó truyền được cái đẹp đến với chúng ta.

Tiếp tục đọc

Sách hay

Huyền thư bị thất lạc và trăn trở về tìm đạo, hành đạo

Được phát hành

,

Bởi

Tên gọi “Minh Đạo sách” lấy tứ từ việc một cuốn sách, một huyền thư đã bị thất lạc trong lịch sử, tác giả thể hiện nỗi niềm thế sự nhân tình, những sách lược, những trăn trở bằng thơ trên tiến trình tìm đạo và hành đạo.

Nhà xuất bản Nghệ An vừa ấn hành tập thơ Minh Đạo sách của nhà thơ Khúc Hồng Thiện. Đây là tác phẩm mới nhất của tác giả, tập trung vào thơ thế sự với những suy tư sâu sắc về tinh thần văn hóa Việt.

Tác giả chia sẻ: “Minh Đạo là Đạo sáng, đường sáng – con đường của Minh chủ. Tên gọi Minh Đạo sách lấy tứ từ việc một cuốn sách, một huyền thư đã bị thất lạc trong lịch sử. Đó cũng là nỗi niềm thế sự nhân tình, những sách lược, những trăn trở bằng thơ trên tiến trình tìm Đạo và hành Đạo. Một cuốn sách dành cho mỗi người, lúc buồn khi vui, bế tắc hay bối rối sẽ đều tìm được sự sẻ chia, đồng cảm…”.

Minh doa sach anh 1
Tập thơ Minh Đạo sách của tác giả Khúc Hồng Thiện vừa ấn hành. Ảnh: NVCC

Tinh thần của tập thơ được thể hiện rõ nét qua những câu như:

“Rồi đến buổi bình minh mở cõi/ vừa giữ nhà, chống chọi thiên tai / biết bao nhiêu bậc anh tài/ bọc thây da ngựa bỏ ngoài chiến xa…

Quyết tìm sách minh đường học đạo / các thiền nhân cùng dạo bước chung/ dù cho thủy tận sơn cùng/ ta đi với một tấm lòng trung trinh” (Minh Đạo sách)

Nhận định về Khúc Hồng Thiện, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều – Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam từng nhận xét: “Đọc thơ Khúc Hồng Thiện tôi càng suy nghĩ nhiều hơn về một thế hệ các nhà thơ trẻ, về một thời đại của thi ca, về những vấn đề của thi ca, và xa hơn nữa là sự phát triển của nền văn học – nghệ thuật nước nhà”.

Dù thuộc thế hệ trẻ trên văn đàn, Khúc Hồng Thiện gây ấn tượng với lối viết chín chắn, già dặn trước tuổi. Thơ của anh đa phần là thơ thế sự, với những suy tư sâu sắc về văn hóa và đời sống được truyền tải qua ngôn ngữ đời thường, mộc mạc.

Tác giả cũng đặc biệt thành công với thể thơ lục bát, thổi vào đó làn gió mới qua việc khéo léo sử dụng “khoảng trắng”, tạo không gian cho trí tưởng tượng của người đọc. Điều này thể hiện rõ trong những câu thơ như: “Mẹ ta đầu đội nón mê/ mà che mát cả bốn bề nước non/ đồng quang mẹ dẫu chẳng còn/ vẫn nguyên lời dặn cháu con nhân từ…” (Mẹ ta)

Minh doa sach anh 2
Nhà thơ Khúc Hồng Thiện. Ảnh: NVCC

Khúc Hồng Thiện sinh năm 1983, quê Hưng Yên, là hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Di sản văn hóa Việt Nam. Tốt nghiệp khoa Sáng tác & Lý luận – Phê bình, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, hiện anh công tác tại Báo Nhân Dân. Ngoài Minh Đạo sách, anh đã xuất bản nhiều tác phẩm thơ, văn, chính luận và chuyên luận được đánh giá cao.

Nguồn: https://znews.vn/huyen-thu-bi-that-lac-va-tran-tro-ve-tim-dao-hanh-dao-post1523529.html

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 8

Bình luận bài thơ “Ông đồ”

Được phát hành

,

Bởi

Đấy là một thế hệ người. Mà nhiều khi chỉ còn dăm bảy người. Lúc đầu, đông đúc, rôm rả lắm, nhưng mà cái gì cũng thế thôi, ngày càng thưa thớt dần, quạnh quẽ dần…

Ông Vũ Đình Liên dừng lại, không nhìn vào tôi, ông nhìn đi đâu, xa chừng, hun hút:

– Tôi nói quạnh quẽ lắm, nghe mà thương, anh ạ. Anh có thấy thương không, một lớp người họ từng ngồi vào cái chỗ anh và tôi đương ngồi, nói cái chuyện anh và tôi đương nói, chuyện năm, chuyện tháng, chuyện thời gian… Đang nói vui vẻ thế thì tự nhiên hết năm, hết tháng, và họ cũng hết nốt… Cho nên, bức xúc thì mình đã có sẵn, bây giờ chỉ lựa chỗ để đưa họ vào, vào thật êm mà không bật ra:

Mỗi năm hoa đào nở

Lại thấy ông đồ già

Bày mực tàu giấy đỏ

Bên phố đông người qua.

Đừng để câu thơ trống, gánh một gánh chữ mà không làm được việc gì. Anh thấy tôi viết như chơi ấy. Thế là đã có một ông đồ rồi đấy nhé. Bốn câu, câu nào cũng có nhiệm vụ văn học của nó. Khác thể anh kéo ra một tấm màn sân khấu, tấm màn màu hoa đào hực hỡ, rồi cho ông đồ lọt thỏm vào giữa. Mỗi năm nghĩa là năm nào cũng thế. Hoa ấy, cứ đến tiết thì lại trồi. Người ấy, cứ đến tiết thì lại nở. Cho nên mới nói Lại thấy ông đồ già. Cứ Khoắng chữ lên là gặp. Ông đồ đang làm gì? Ông ta không làm gì ra trò. Ấy là tôi nói đã vào cái thời tàn. Ông cụ cứ loay hoay bày đặt. Ông bò ra, giữa cái nhí nhố của cuộc sống này mà bày mực tàu giấy đỏ. Phố thì đông, ông thì quạnh. Bày ra, là bày cái ở trong lòng ra giữa thanh thiên bạch nhật. Như vậy thì ông phải trân trọng lắm, và cái chỗ ông ngồi bên mái phố là một chỗ thiêng:

Bao nhiêu người thuê viết

Tấm tắc ngợi khen tài

Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa rồng bay

Đấy là vào thời hạnh phúc nhất của ông. Bao nhiêu người là đông người lắm. Tấm tắc ngợi khen, không phải chỉ ngợi khen suông mà lời khen đọng lại trên khoé miệng, thầm thì, nắc nỏm. Đây là khổ thơ cao trào. Nó bắn lên như pháo hoa rồi tàn lụi dần. Phượng múa rồng bay là vẽ vời ra lắm thứ ngoạn mục rồi trở về với hư vô:

Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu

Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu.

Nhưng mỗi năm mỗi… Cứ hiu hắt dần đi. Cây thì rụng lá, hoa thì rụng cuống. Thời gian làm một cuộc hành trình đi về phía vô tận. Ông đồ, hững hờ mà cuống quít ném vào giữa đời một câu hỏi, cũng chẳng là hỏi ai. Người thuê viết nay đâu? Hỏi thời gian? Hỏi không gian? Không, không hỏi ai cả. Hỏi chính lòng mình, tức là hỏi cái quy luật khắc nghiệt và buồn thảm. Trước câu hỏi ấy, giấy đỏ buồn không thắm, đỏ mà lại không thắm thì đỏ cái nỗi gì? Và mực mài ra là để viết, chứ sao lại để đọng? Đọng không ngoài nghiên mà trong nghiên, vì thế cái nghiên cũng phải sầu!

Đến đây, cái thời tàn nó rõ mồn một:

Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài trời mưa bụi bay.

Ông đồ, thì cứ vẫn ông đồ, chứ chả lẽ ông gì? Đâu thì lại ngồi đấy thôi. Dưới tấm màn mưa bụi, nghĩa là tấm màn đan bằng những hạt mưa nhỏ tí xíu như là hạt bụi, bụi thời gian, ném vào ông đồ từng đợt sóng lãng quên, ông bị va đập và níu kéo, bào mòn. Thôi rồi, không còn thể thống gì nữa cái ông đồ, ông vẫn ngồi đấy, tưởng là định vị, nhưng hình tượng hăm hở ấy cứ mờ nhoè, ngút ngấm… cho đến một lúc tả ra như lá, như bụi mưa… Ngoài trời mưa bụi bay… Anh có thấy ra cái điều này không? Bụi mưa, mưa bụi, nó thoảng thớt là thế, mà khắc nghiệt là thế. Nó ưu ái bám lấy con người ta, nhào nắn, rút tỉa, nó cũng gạt gẫm và phỉnh phờ kia đấy, cho đến một ngày, nó nâng bổng người ta lên, ném vào nơi ký ức xoá mờ…

Năm nayđào lại nở

Không thấy ông đồ xưa

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?

Những người muôn năm cũ, là những người không thể nào cũ hơn được. Những con người ấy bây giờ đang ở đâu? Phàm ở đời, cái mới không ngừng nảy sinh, trong lúc cái cũ không ngừng tàn tạ. Như thế nó mới là cuộc sống con người.

Bài thơ nó còn là cái chỗ này: Làm một nơi cư ngụ mong manh cho hồi ức con người về một thế hệ đã tàn phai, và đấy phải chăng là sứ mệnh của văn học?

Đông Trình – Báo Thừa Thiên Huế, xuân 2000

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 8

Cảm nghĩ về hành động của các nhân vật trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”

Được phát hành

,

Bởi

Trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ, thái độ của chị Dậu đối với tên cai lệ và người nhà lí trưởng có cả một quá trình diễn biến. Khi anh Dậu run rẩy bưng bát cháo, vừa mới kề vào miệng thì cai lệ và người nhà lí trưởng sầm sập tiến vào. Trước thái độ hống hách của tên cai lệ và người nhà lí trưởng, lúc đầu, chị Dậu hết sức nhún nhường. Chị lễ phép run run nói: “Nhà cháu đã túng, lại phải đóng cả suất SƯU của chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bê tiền SƯU của nhà nước đâu? Hai ông làm phúc nói với ông lí hãy cho cháu khất…”. Nhưng chị Dậu càng van xin tha thiết, tên cai lệ càng sừng sộ, sai tên người nhà lí trưởng trói anh Dậu lại, điệu ra đình. Khi thấy người nhà lí trưởng hình như không dám hành hạ một người ốm nặng, tên cai lệ sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu. Chị Dậu hốt hoảng chạy đến đỡ lấy tay hắn và một lần nữa, khẩn thiết xin tha: “Cháu van ông, nhà cháu mới tỉnh lại được một lúc, ông tha cho!”. Cai lệ tát vào mặt chị Dậu rồi nhảy vào trói anh Dậu. Hành động tàn bạo của tên cai lệ đã thổi bùng ngọn lửa căm thù trong lòng chị Dậu. Chị nghiến hai hàm răng: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Rồi bằng sức mạnh của lòng căm thù, chị đã lần lượt quật ngã tên cai lệ và người nhà lí trưởng.

Như vậy là, trước hành động tàn bạo của tên cai lệ và người nhà lí trưởng, chị Dậu đã từ thái độ van xin ôn hoà đến chỗ quyết liệt, vùng lên quật ngã bọn tay sai hung ác.

Hành động của chị Dậu trong hoàn cảnh đó không thể khác. Để bảo vệ tính mệnh cho chồng, chị không thể không vùng dậy chông lại hành động tàn bạo của bọn tay sai. Sức mạnh bất ngờ kì lạ của chị Dậu chính là sức mạnh của lòng căm thù bọn tay sai bất nhân, tàn ác.

Đoạn văn trích cho ta thấy người nông dân lao động vốn hiền lành, nhẫn nhục, nhưng khi bị dồn đến cùng đường, họ cũng biết vùng lên chống cự lại một cách dũng cảm. Hành động đánh lại tên cai lệ và người nhà lí trưởng của chị Dậu thể hiện sức mạnh tiềm tàng, tinh thần kiên cường, bất khuất của người nông dân Việt Nam, người phụ nữ Việt Nam. Hành động của chị Dậu cũng phản ánh qui luật “tức nước vỡ bờ”, “con gian xéo mãi cũng quằn, “có áp bức, có đấu tranh”.

Trong đoạn trích, Ngô Tất Tố cũng đã thành công trong việc khắc hoạ bộ mặt tàn ác, đểu cáng, không chút tính người của tên cai lệ và người nhà lí trưởng.

Với những “roi song, tay thước và dây thừng”, tên cai lệ và người nhà lí trưởng hùng hổ xông vào nhà chị Dậu. Tên cai lệ ra oai, hách dịch ngay từ những giây phút đầu tiên. Gõ đầu roi xuống đất, hắn lên giọng quát anh Dậu phải mau mau nộp thuế. Trước lời van xin nhũn nhặn của chị Dậu, hắn “trợn ngược hai mắt”, lớn tiếng quát tháo: “Mày định nói cho cha mày nghe đó à! Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất!”. Không một chút mủi lòng trước cảnh anh Dậu đang đau ốm, bỏ ngoài tai lời van xin tha thiết của chị Dậu, tên cai lệ doạ dỡ nhà, quát tên người nhà lí trưởng, rồi trói cổ anh Dậu lại, điệu ra đình. Khi tên người nhà lí trưởng còn đang “lóng ngóng ngơ ngác” thì tên cai lệ đùng đùng “giật phắt lấy cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu”. Chị Dậu vẫn nhẫn nhục van xin. Nhưng không một chút tình người, tên cai lệ đã đấm vào ngực, tát vào mặt chị Dậu rồi nhảy tới anh Dậu, không kể gì tới mạng sống của anh. Hành động của tên cai lệ thật đểu cáng, bất nhân, không còn chút tình người.

Tên người nhà lí trưởng cũng đểu cáng, bất nhân không kém. Hắn cười mỉa mai khi thấy anh Dậu vì sợ hãi quá mà lăn đùng xuống phảng. Rồi hắn “sấn cổ bước đến giơ gậy chực đánh chị Dậu”. Hành động tàn ác của cả tên cai lệ và người nhà lí trưởng đã đẩy chị Dậu tới chỗ không thể không vùng lên chông trả để bảo vệ mạng sông cho anh Dậu.

Tiếp tục đọc

Xu hướng