Connect with us

Văn mẫu 8

Phân tích hình tượng người anh hùng Phan Bội Châu trong bài thơ “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác”

Được phát hành

,

Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỉ XX đã khắc hoạ thành công nhiều hình tượng nhân vật anh hùng mà bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác là một trong những tác phẩm tiêu biểu. Bài thơ đã đem đến cho chúng ta một cảm nhận đẹp về nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu.

Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, đồng bào lầm than cực khổ, Phan Bội Châu rất đau lòng. Tấm lòng yêu nước thương dân thiết tha sâu sắc thôi thúc người thanh niên Phan Văn San quyết chí tìm đường cứu nước. Cuộc đời cách mạng đầy gian truân sóng gió, đầy bất trắc hiểm nguy vẫn không làm ông sờn lòng nản chí, mà càng hun đúc thêm cái khí phách anh hùng nơi ông. Và đây, một hình ảnh tuyệt đẹp về người anh hùng đó:

Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu

Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.

Đã khách không nhà trong bốn biển,

Lại người có tội giữa năm châu.

Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,

Mở miệng cười tan cuộc oán thù.

Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp

Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.

(Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác)

Bài thơ được viết khi Phan Bội Châu bị chính quyền Quảng Đông bắt giam năm 1913, trước đó, năm 1912, ông đã bị chính quyền thực dân Pháp kết án tử hình vắng mặt. Cho nên, khi bị bọn quân phiệt Quảng Đông bắt giam và có ý định trao ông cho thực dân Pháp, ông nghĩ rằng mình khó có thể thoát khỏi cái chết. Bài thơ cũng có thể coi như lời tâm huyết cuối cùng của ông.

Càng đọc bài thơ ta càng cảm phục tư thế lẫm liệt của con người cách mạng, lúc sa cơ lỡ bước lâm vào cảnh tù ngục hiểm nghèo. Đứng trước ngưỡng cửa của cái chết, Phan Bội Châu vẫn rất ngang tàng:

Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu

Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.

Một phong thái thật đường hoàng, tự tin, thật ung dung thanh thản. Việc bị bắt trở thành sự chủ động dừng chân nghỉ ngơi trên chặng đường bôn tẩu dài dặc. Tiếng cười cất lên ngạo nghễ giữa song sắt nhà tù, bất chấp gông cùm xiềng xích, khắc tạc người anh hùng đứng cao hơn mọi sự cùm kẹp, đày đoạ của kẻ thù, cảm thấy mình hoàn toàn tự do thanh thản về mặt tinh thần.

Vừa ngạo nghễ cười trên gông cùm, xiềng xích, Phan Bội Châu quay lại với thực tại chua xót cay đắng:

Đã khách không nhà trong bốn biển,

Lại người có tội giữa năm châu.

Kể từ khi Phan Bội Châu từ biệt Tổ quốc ra đi tìm dường cứu nước đến nay đã gần 10 năm. 10 năm trôi lưu lạc nơi đất khách quê người, không một mái ấm gia đình, bao nhiêu sự cực khổ về vật chất, cay đắng về tinh thần! Thêm vào đó là sự săn đuổi, truy lùng của kẻ thù. Tình cảnh của nhà cách mạng yêu nước quả thật là một bi kịch lớn, khiến người đọc không khỏi ngậm ngùi. Nhưng đằng sau bi kịch riêng của cá nhân là bi kịch của cả một dân tộc, một đất nước. Nước đã mất thì nhà đâu còn! Lúc bấy giờ không chỉ có Phan Bội Châu, còn bao nhà cách mạng khác như Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc cũng bị lâm vào hoàn cảnh khách không nhà trong bốn biển, bị săn đuổi khắp năm châu. Đọc hai câu thơ, ta bỗng thấy tầm vóc người tù yêu nước vụt trở nên lớn lao phi thường. Nỗi đau của Phan Bội Châu trở thành nỗi đau lớn lao của bậc anh hùng, là nỗi đau thương của cả một đất nước.

Đến đây ta mới thấy hết khí phách anh hùng của Phan Bội Châu. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt khách không nhà, người có tội, ông vẫn giữ vững chí khí hào kiệt.

Và người anh hùng hào kiệt ấy còn nguyên vẹn khí phách và chí lớn:

Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,

Mở miệng cười tan cuộc oán thù.

Một hình ảnh lãng mạn tuyệt đẹp! Hoài bão kinh bang tế thế (lo nước, cứu đời) đã đưa người chiến sĩ cách mạng Phan Bội Châu từ một người tù nhỏ bé vụt lớn lên trở thành một hình ảnh lớn lao đến mức phi thường, thần thánh.

Nhìn lại cuộc đời Phan Bội Châu, hoài bão cứu nước, cứu đời đã được ông ôm ấp từ khi còn là chàng thanh niên Phan Văn San:

Phùng xuân hội, may ra, ừ cũng dễ

Nắm địa cầu vừa một tí con con

Đạp toang hai cánh càn khôn,

Đem xuân vẽ lại trên non nước nhà.

Khát vọng ấy, chí lớn ấy không hề suy giảm ngay cả khi ông đã vào trong ngục tù. Cận kề với cái chết nhưng ông vẫn ngạo nghễ cười trước mọi thủ đoạn tàn bạo của kẻ thù.

Tinh thần cách mạng lạc quan đã tạo nên sức mạnh dể ông chiến thắng hoàn cảnh, giữ vững ý chí chiến đấu sắt son của mình:

Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp

Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.

Đó là ý chí của con người đứng cao hơn cả cái chết. Kẻ thù có thể giam cầm, đày đoạ người cách mạng, nhưng chúng không thể lung lạc được tinh thần của họ, không thể đánh gục ý chí của họ. Sau này nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh lại khẳng định:

Thăn thể ở trong lao

Tinh thần ở ngoài lao

Muốn nến sự nghiệp lớn

Tinh thần phải càng cao

(Trích Nhật kí trong tù)

Đọc xong bài thơ, gấp sách lại, những hình ảnh kỳ vĩ của nhà cách mạng lớn của dân tộc với những hoài bão cao đẹp, với khí phách kiên cường và tấm lòng yêu nước cháy bỏng vẫn còn in đậm trong tâm trí người đọc, tạo nên sự cảm phục và ngưỡng mộ sâu sắc.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 8

Bình luận bài thơ “Ông đồ”

Được phát hành

,

Bởi

Đấy là một thế hệ người. Mà nhiều khi chỉ còn dăm bảy người. Lúc đầu, đông đúc, rôm rả lắm, nhưng mà cái gì cũng thế thôi, ngày càng thưa thớt dần, quạnh quẽ dần…

Ông Vũ Đình Liên dừng lại, không nhìn vào tôi, ông nhìn đi đâu, xa chừng, hun hút:

– Tôi nói quạnh quẽ lắm, nghe mà thương, anh ạ. Anh có thấy thương không, một lớp người họ từng ngồi vào cái chỗ anh và tôi đương ngồi, nói cái chuyện anh và tôi đương nói, chuyện năm, chuyện tháng, chuyện thời gian… Đang nói vui vẻ thế thì tự nhiên hết năm, hết tháng, và họ cũng hết nốt… Cho nên, bức xúc thì mình đã có sẵn, bây giờ chỉ lựa chỗ để đưa họ vào, vào thật êm mà không bật ra:

Mỗi năm hoa đào nở

Lại thấy ông đồ già

Bày mực tàu giấy đỏ

Bên phố đông người qua.

Đừng để câu thơ trống, gánh một gánh chữ mà không làm được việc gì. Anh thấy tôi viết như chơi ấy. Thế là đã có một ông đồ rồi đấy nhé. Bốn câu, câu nào cũng có nhiệm vụ văn học của nó. Khác thể anh kéo ra một tấm màn sân khấu, tấm màn màu hoa đào hực hỡ, rồi cho ông đồ lọt thỏm vào giữa. Mỗi năm nghĩa là năm nào cũng thế. Hoa ấy, cứ đến tiết thì lại trồi. Người ấy, cứ đến tiết thì lại nở. Cho nên mới nói Lại thấy ông đồ già. Cứ Khoắng chữ lên là gặp. Ông đồ đang làm gì? Ông ta không làm gì ra trò. Ấy là tôi nói đã vào cái thời tàn. Ông cụ cứ loay hoay bày đặt. Ông bò ra, giữa cái nhí nhố của cuộc sống này mà bày mực tàu giấy đỏ. Phố thì đông, ông thì quạnh. Bày ra, là bày cái ở trong lòng ra giữa thanh thiên bạch nhật. Như vậy thì ông phải trân trọng lắm, và cái chỗ ông ngồi bên mái phố là một chỗ thiêng:

Bao nhiêu người thuê viết

Tấm tắc ngợi khen tài

Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa rồng bay

Đấy là vào thời hạnh phúc nhất của ông. Bao nhiêu người là đông người lắm. Tấm tắc ngợi khen, không phải chỉ ngợi khen suông mà lời khen đọng lại trên khoé miệng, thầm thì, nắc nỏm. Đây là khổ thơ cao trào. Nó bắn lên như pháo hoa rồi tàn lụi dần. Phượng múa rồng bay là vẽ vời ra lắm thứ ngoạn mục rồi trở về với hư vô:

Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu

Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu.

Nhưng mỗi năm mỗi… Cứ hiu hắt dần đi. Cây thì rụng lá, hoa thì rụng cuống. Thời gian làm một cuộc hành trình đi về phía vô tận. Ông đồ, hững hờ mà cuống quít ném vào giữa đời một câu hỏi, cũng chẳng là hỏi ai. Người thuê viết nay đâu? Hỏi thời gian? Hỏi không gian? Không, không hỏi ai cả. Hỏi chính lòng mình, tức là hỏi cái quy luật khắc nghiệt và buồn thảm. Trước câu hỏi ấy, giấy đỏ buồn không thắm, đỏ mà lại không thắm thì đỏ cái nỗi gì? Và mực mài ra là để viết, chứ sao lại để đọng? Đọng không ngoài nghiên mà trong nghiên, vì thế cái nghiên cũng phải sầu!

Đến đây, cái thời tàn nó rõ mồn một:

Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài trời mưa bụi bay.

Ông đồ, thì cứ vẫn ông đồ, chứ chả lẽ ông gì? Đâu thì lại ngồi đấy thôi. Dưới tấm màn mưa bụi, nghĩa là tấm màn đan bằng những hạt mưa nhỏ tí xíu như là hạt bụi, bụi thời gian, ném vào ông đồ từng đợt sóng lãng quên, ông bị va đập và níu kéo, bào mòn. Thôi rồi, không còn thể thống gì nữa cái ông đồ, ông vẫn ngồi đấy, tưởng là định vị, nhưng hình tượng hăm hở ấy cứ mờ nhoè, ngút ngấm… cho đến một lúc tả ra như lá, như bụi mưa… Ngoài trời mưa bụi bay… Anh có thấy ra cái điều này không? Bụi mưa, mưa bụi, nó thoảng thớt là thế, mà khắc nghiệt là thế. Nó ưu ái bám lấy con người ta, nhào nắn, rút tỉa, nó cũng gạt gẫm và phỉnh phờ kia đấy, cho đến một ngày, nó nâng bổng người ta lên, ném vào nơi ký ức xoá mờ…

Năm nayđào lại nở

Không thấy ông đồ xưa

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?

Những người muôn năm cũ, là những người không thể nào cũ hơn được. Những con người ấy bây giờ đang ở đâu? Phàm ở đời, cái mới không ngừng nảy sinh, trong lúc cái cũ không ngừng tàn tạ. Như thế nó mới là cuộc sống con người.

Bài thơ nó còn là cái chỗ này: Làm một nơi cư ngụ mong manh cho hồi ức con người về một thế hệ đã tàn phai, và đấy phải chăng là sứ mệnh của văn học?

Đông Trình – Báo Thừa Thiên Huế, xuân 2000

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 8

Cảm nghĩ về hành động của các nhân vật trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”

Được phát hành

,

Bởi

Trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ, thái độ của chị Dậu đối với tên cai lệ và người nhà lí trưởng có cả một quá trình diễn biến. Khi anh Dậu run rẩy bưng bát cháo, vừa mới kề vào miệng thì cai lệ và người nhà lí trưởng sầm sập tiến vào. Trước thái độ hống hách của tên cai lệ và người nhà lí trưởng, lúc đầu, chị Dậu hết sức nhún nhường. Chị lễ phép run run nói: “Nhà cháu đã túng, lại phải đóng cả suất SƯU của chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bê tiền SƯU của nhà nước đâu? Hai ông làm phúc nói với ông lí hãy cho cháu khất…”. Nhưng chị Dậu càng van xin tha thiết, tên cai lệ càng sừng sộ, sai tên người nhà lí trưởng trói anh Dậu lại, điệu ra đình. Khi thấy người nhà lí trưởng hình như không dám hành hạ một người ốm nặng, tên cai lệ sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu. Chị Dậu hốt hoảng chạy đến đỡ lấy tay hắn và một lần nữa, khẩn thiết xin tha: “Cháu van ông, nhà cháu mới tỉnh lại được một lúc, ông tha cho!”. Cai lệ tát vào mặt chị Dậu rồi nhảy vào trói anh Dậu. Hành động tàn bạo của tên cai lệ đã thổi bùng ngọn lửa căm thù trong lòng chị Dậu. Chị nghiến hai hàm răng: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Rồi bằng sức mạnh của lòng căm thù, chị đã lần lượt quật ngã tên cai lệ và người nhà lí trưởng.

Như vậy là, trước hành động tàn bạo của tên cai lệ và người nhà lí trưởng, chị Dậu đã từ thái độ van xin ôn hoà đến chỗ quyết liệt, vùng lên quật ngã bọn tay sai hung ác.

Hành động của chị Dậu trong hoàn cảnh đó không thể khác. Để bảo vệ tính mệnh cho chồng, chị không thể không vùng dậy chông lại hành động tàn bạo của bọn tay sai. Sức mạnh bất ngờ kì lạ của chị Dậu chính là sức mạnh của lòng căm thù bọn tay sai bất nhân, tàn ác.

Đoạn văn trích cho ta thấy người nông dân lao động vốn hiền lành, nhẫn nhục, nhưng khi bị dồn đến cùng đường, họ cũng biết vùng lên chống cự lại một cách dũng cảm. Hành động đánh lại tên cai lệ và người nhà lí trưởng của chị Dậu thể hiện sức mạnh tiềm tàng, tinh thần kiên cường, bất khuất của người nông dân Việt Nam, người phụ nữ Việt Nam. Hành động của chị Dậu cũng phản ánh qui luật “tức nước vỡ bờ”, “con gian xéo mãi cũng quằn, “có áp bức, có đấu tranh”.

Trong đoạn trích, Ngô Tất Tố cũng đã thành công trong việc khắc hoạ bộ mặt tàn ác, đểu cáng, không chút tính người của tên cai lệ và người nhà lí trưởng.

Với những “roi song, tay thước và dây thừng”, tên cai lệ và người nhà lí trưởng hùng hổ xông vào nhà chị Dậu. Tên cai lệ ra oai, hách dịch ngay từ những giây phút đầu tiên. Gõ đầu roi xuống đất, hắn lên giọng quát anh Dậu phải mau mau nộp thuế. Trước lời van xin nhũn nhặn của chị Dậu, hắn “trợn ngược hai mắt”, lớn tiếng quát tháo: “Mày định nói cho cha mày nghe đó à! Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất!”. Không một chút mủi lòng trước cảnh anh Dậu đang đau ốm, bỏ ngoài tai lời van xin tha thiết của chị Dậu, tên cai lệ doạ dỡ nhà, quát tên người nhà lí trưởng, rồi trói cổ anh Dậu lại, điệu ra đình. Khi tên người nhà lí trưởng còn đang “lóng ngóng ngơ ngác” thì tên cai lệ đùng đùng “giật phắt lấy cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu”. Chị Dậu vẫn nhẫn nhục van xin. Nhưng không một chút tình người, tên cai lệ đã đấm vào ngực, tát vào mặt chị Dậu rồi nhảy tới anh Dậu, không kể gì tới mạng sống của anh. Hành động của tên cai lệ thật đểu cáng, bất nhân, không còn chút tình người.

Tên người nhà lí trưởng cũng đểu cáng, bất nhân không kém. Hắn cười mỉa mai khi thấy anh Dậu vì sợ hãi quá mà lăn đùng xuống phảng. Rồi hắn “sấn cổ bước đến giơ gậy chực đánh chị Dậu”. Hành động tàn ác của cả tên cai lệ và người nhà lí trưởng đã đẩy chị Dậu tới chỗ không thể không vùng lên chông trả để bảo vệ mạng sông cho anh Dậu.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 8

Cảm nhận của em về đoạn trích “Hai cây phong”

Được phát hành

,

Bởi

Hai cây phong là phần đầu của truyện Người thầy đầu tiên của nhà văn xứ Cư-gơ-rư-xtan – một nước Cộng hoà ở vùng Trung Á thuộc Liên Xô trước đây. Bài văn có hai mạch kể và tả xen lẫn vào nhau rất nhuần nhuyễn tạo nên một sắc thái đặc biệt về cảm nhận.

Trước hết, bằng lối miêu tả đầy xúc động của một tầm hồn nhạy cảm, người kể chuyện tự giới thiệu mình là hoạ sĩ. Bức tranh vẽ giữa ngọn đồi có hai cây phong. Tuy nhiên đầy không phải là nét vẽ bằng cây cọ, mà bằng lời kể và tả thật duyên dáng, sâu lắng.

Bức tranh ấy chỉ thể hiện lên mỗi lần “chúng tôi” (lời xưng hô của chủ thể trữ tình) đi xa và nghĩ thầm với một nỗi buồn da diết: “Ta sắp được thấy chúng chưa, hai cây phong sinh đôi ấy? Mong sao chóng về đến làng, chóng lên đồi mà đến với hai cây phong!”.

Như vậy, cảnh sắc quê hương được cảm nhận bằng những hình ảnh đậm nhạt, cao thấp, xa gần, khác nhau. Đó là tâm tình của người hoạ sĩ tài hoa trước phong cảnh đầy cảm xúc dâng trào.

Nhưng ở một góc độ cảm nhận, tác giả (nhân vật trữ tình) đã kết hợp tự sự với miêu tả và biểu cảm tạo nên sức hút kì lạ. Bởi vì người kể đã khơi dậy hoài niệm của tuổi thơ.

Đó là vào năm học cuối cùng, bọn trẻ đã reo hò, huýt còi ầm ĩ rồi công kênh nhau bám vào các mắt mấu của hai cây phong mà leo lên. Quên làm sao được “lũ nhóc đi chân đất” ấy “làm chấn động cả vương quốc loài chim” ở trên “những cành cao ngất”. Ôi, ở đây, “bọn nhóc” còn vô cùng sung sướng ngắm nhìn cảnh vật một cách vừa trịnh trọng, vừa yêu thương.

Chúng giương hết tầm mắt nhìn vào nơi xa biêng biếc của thảo nguyên. Chúng “nép mình ngồi trên các cành cây lắng nghe tiếng gió ảo huyền và tiếng lá cây đáp lại lời gió…”. Hai cây phong đã làm cho tuổi thơ rạo rực, bị quyến rũ về vẻ đẹp vừa uy nghi vừa hoang sơ của nó.

Như vậy, đoạn trích Hai cây phong chan chứa một thi vị của quê hương. Nghệ thuật tả và kể của bài văn đã làm cho mạch kể hết sức sinh động.

Đoạn văn thể hiện tâm hồn riêng của hai cây phong là hay nhất, rung động nhất. Đoạn trích chính là một bài ca về tình nghĩa quê hương và về người thầy vĩ đại đã “trồng cây và trồng người”.

Tiếp tục đọc

Xu hướng