Connect with us

Văn mẫu 11

Phân tích bài thơ “Thương vợ” (3) – GS.NGND. Nguyễn Đình Chú

Được phát hành

,

Ông Tú tỏ lòng thương vợ bắt đầu bằng sự tính công. Đúng hơn là sự biết ơn, sự biết ơn sâu sắc công lao bà Tú:

Quanh năm buồn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Ông Tú nói chuyện bà Tú buôn bán để nuôi con và nuôi mình. Cách nói đáng lưu ý. Một năm có 365 ngày. Chả nhẽ bà chạy chợ hết cả 365? ít nhất bà cũng có mấy ngày nghỉ Tết nhất giỗ chạp hoặc về bên ngoại thăm bố mẹ, em út… nhưng ở đâỵ ông Tú vẫn tính tất cho bà trọn 365 ngày, trọn cả quanh năm, mà “quanh năm” tức là “quanh nam” rồi lại “quanh năm”… Cách nói như là sự xô bồ, cường điệu của chuyện văn chương, trong trường hợp này chính là sự bày tỏ lòng biết ơn bà Tú một cách triệt để. Người dân lao động xưa, muốn nói cảnh làm ăn cơ cực của mình – cũng một cách triệt để để tạo ra thành ngữ “quanh năm tận tháng” bên cạnh thành ngữ “đầu tắt mặt tối”. Ông Tú học cách nghĩ, cách nói đó của quần chúng để ghi công lao của bà Tú về mặt thời gian lao động. Còn cái nơi mà bà Tú buôn bán? – “ở mom sông”. Có người ghi chú rằng: “Mom sông là nơi đất nhô ra sông(?).Mom sông Vị là vùng đất gần làng Phù Long, ở chỗ nhà máy nước thành phố Nam Định bây giờ”, Có người còn cho biết thêm: Mom sông Vị là nơi đầu chỗ sông Vị Hoàng chảy thông ra sông Nam Định. Thời sông Vị Hoàng chưa bị lấp thì mom sông này là nơi buôn bán của bà con tiểu thương, thuyền bè qua lại hay đậu ờ đấy. Bà Tú có ngôi hàng buôn chung gạo với người khác ở mom sông đó. về sau, sông Vị Hoàng bị lấp. Chốn buôn bán của bà Tú cũng tàn lụi theo. Nhưng như Xuân Diệu nhận xét (ngay khi sông Vị Hoàng chưa bị lấp): “ở mom là cheo leo, chênh vênh chứ không phải ở một cái bến ngang sông tấp nập bình thường. Cảnh ngộ làm ăn như thế mà bà Tú vẫn “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Tất cả những sáu miệng ăn, trừ bà Tú chưa tính. Thành tích này, nói là bà Tú tần tảo vất vả, nói là bà Tú vị tha, cao cả thì cũng là tần tảo vất vả, cũng là vị tha, cao cả hết mực. Nhưng ở đây, nói sự việc là bất công, vô lí thì củng là hết mực vô lí bất công. Đẻ con ra, có ít đâu. Những năm đứa. Phải nuôi chúng nó khôn lớn. Trách nhiệm đó là của bà Tú. Dĩ nhiên rồi. Nhưng anh chồng “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu, Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa” đâu? Thì ở đây làm gì có. ông Tú không phải loại chồng đó, Ông là loại chồng “Tiền bạc phó cho con mụ kiếm” loại chồng “Thưng đấu nhờ lưng một mẹ mày”, ông Tú không cùng bà nuôi con đã đành. Mà như có kẻ ác khẩu đã châm biếm: ông còn là một “thứ con” đặc biệt để bà Tú phải nuôi riêng! Đoảng thế là cùng! Chế độ xã hội cũ đã sản sinh ra loại ông chồng đoảng, loại ông chổng “dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm” như ông Tú không ít.

Nhưng ở ông Tú, có một điều này là khác, là rất khác: Ông tỏ ra biết nhận lỗi, biết đền bù lại bằng cái tình, bằng tấm lòng. Cái thái độ của Tú Xương trở nên dễ thương ở điểm này. Bài thơ của Tú Xương hay bắt đầu từ điểm này. Ông nói chuyện bà Tú nuôi con đã đành, mà còn là nuôi mình, nói theo kiểu nói toạc, không một chút ngượng bút, ngượng miệng, lại như vừa nói vừa tủm tỉm cười, tự trách sao mình vô tích sự, lại để vợ phải nuôi. Việc nuôi chồng của bà Tú, có thể là ông chưa xem là sung sướng. Cái cảnh “Cơm hai bữa; cả kho rau muống; quá một chiều: khoai lang lúa ngô” thì có gì là sung sướng, chắc còn xa sự sung sướng. Nhưng xem ra ông Tú đã không dám đòi hỏi gì hơn. Ông đã thấy vui, đã ra vẻ bằng lòng, và đặc biệt là đã cảm cái ơn của bà Tú lắm lắm rồi. Và do như thế mà ngay trong cặp thơ đề, hình ảnh bà Tú đã thấp thoáng hiện lên lớn, đẹp vô cùng. Cả đám cha con ông Tú sống trong sự cưu mang của bà Tú, tựa như đàn gà con đang được “mẹ gà ấp ủ”. Văn chương chữ nghĩa của ông Tú ở đây đơn giản mà thân tình đến kỳ lạ, có sức gợi phong phú vô cùng. Ông nói: “Nuôi đủ năm con với một chồng”, nói như nói chơi mà ý tình sâu nặng, chân thành biết bao nhiêu. Ông Tú không gộp sáu cha con lại mà nói. Ông nói “năm con” riêng, “một chồng” riêng. Như thế là vì con ơn mẹ là chuyện con với mẹ đã đành. Còn phần ông, ông chịu ơn vợ thì ông phải nói riêng ra cho thật rõ, nói riêng ra để khỏi mập mờ dù là một chút. Cũng như trong ý thơ, ông không tính đến bà Tú. Chỉ nói chuyện bà “nuôi đủ năm con với một chồng”. Không tính đến bà thì cái lòng vị tha, cái công lao của bà càng thêm rõ. Mà cái lòng tri ân của ông – thay mặt cả lũ trẻ con năm đứa nữa – đối với bà Tú cũng càng rõ thêm.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Hai câu thực gợi lên cảnh làm ăn vất vả, tội nghiệp hàng ngày của bà Tú. Chẳng hay ông Tú dã đón nhận câu ca dao “Con cò lặn lội bờ sông, gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”, từ bao giờ? Qua tiếng ru con của một bà mẹ láng giềng hay chính là ru Trần Tế Xương của bà cụ Nhuận? Chắc chắn từ “Con cò lặn lội bờ sông”, hình ảnh những bà vợ Việt Nam ngàn xưa trong xã hội cũ, ngược xuôi tần tảo, gian nan cực nhọc để nuôi chồng con cũng từ lâu đã đi vào hồn thơ giàu rung động của Tú Xương với bao nhiêu xót xa thương cảm. Để giờ đây, trong lúc nghĩ đến bà Tú thì con cò ấy bỗng vụt dậy vỗ cánh bay và thi hứng Thương vợ của Tú Xương. Ca dao xưa nói: “Con cò lặn lội bờ sông”, trông đã vất vả, tội nghiệp. Con cò của ca dao lặn lội bờ sông. Khung cảnh đã mênh mông, heo hút đến rợn người. Trong thơ ông Tú, có cái rợn ngợp của không gian, lại còn thêm cái rợn ngợp của thời gian. “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Chép như thế, dễ thường mất đi cái hoang vắng của thời gian làm mất đi cái khối hình của ý thơ. Ca dao nói: “Con cò lặn lội”. Tú Xương chuyển lại thành “lặn lội thân cò”. Hai từ “lặn lội” chen lên đứng đầu câu. Cảnh lặn lội lại càng lặn lội. Ca dao nói con cò, Tú Xương nói “thân cò”. Ý thơ cứ xoáy sâu vào sự cực khổ. “Thân” trong ngôn từ văn chương tiếng Việt trước hết là chỉ cái thân thế con người “Vai năm tấc rộng thân mười thước cao”. (Truyện Kiều). Nhưng còn là chỉ một đời người, một kiếp người “Thân này ví đổi thành trai được, sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu” – Hồ Xuân Hương: “Thân lươn bao quản lấm đầu, chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa” (Truyện Kiều) mà nói chung trong văn học xưa là đau khổ, là ê chề, tủi cực. Tú Xương đã nghĩ kiếp đời bà Tú bằng thứ ngôn ngữ có độ dày của giời gian, của truyền thống đó. Trong câu thơ, “thân cò” không “khóc nỉ non”. Bởi ở đây sự gian khổ đang được nén xuống. Nhưng càng nén lại càng đau. Câu thơ đó vẫn bị rỉ rả tiếng khóc cho thân cò. “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Tú Xương đã nâng cái tầm khái quát con cò trong ca dao từ ngàn xưa lên một mức để nói cho hết tấm lòng thương cảm da diết của mình đối với cuộc đời làm ăn vất vả của bà Tú. Câu thơ trở thành như một bức hoạ phác thảo về một người dàn bà mỏng manh, gầy guộc, lúi húi một mình kiếm sống giữa cuộc đời trơ trụi. Cái cảnh bà Tú lặn lội sớm khuya để nuôi chồng nuôi con giữa cái thời buổi “sống chết mặc bây”, cái thời buổi nghĩa tình đã bạc quá vôi, chính là người đàn bà trong bức hoạ phác thảo đó.

Advertisement

Eo sèo mặt nước buổi đò đông

Ý tình của thơ đúng là đang triển khai. Câu thực thứ nhất mới nói cái vất vả, cái cô đơn. Câu thực thứ hai này nói rõ thêm cái vật lộn. Vật lộn là có chuyện đụng chạm đến người chung quanh, đến xã hội rồi. Có sách chú thích: “Cứ buổi trưa hay chiều có chuyến đò chở những người đi buôn gạo ở những chợ Thông, chợ Quán (bên kia bên Tân Đệ) về quán bánh dày ở đầu tỉnh Nam là nơi bán gạo. Quán bánh dày quen gọi là “Mom”, những người này thường eo sèo với nhau là bán đắt bán rẻ. Có sách lại chú thích: “Eo sèo là kỳ kèo mặc cả, cãi cọ nhau”. Đúng đây chưa phải là cảnh cạnh tranh cướp giật gì nhau ghê gớm, càng chưa phải cái cảnh “cá nuốt cá”, “tre buộc tre” trong bọn thống trị với nhau và giữa bọn thống trị đối với dân lao động bị áp bức trong xã hội đó. Cảnh làm ăn của lớp tiểu thương như bà Tú với nhau trong xã hội cũ về bản chất không có như vậy. Ở đây, trước hết, chỉ mới là sự chen chúc. Vì cái sống mà phải chen chúc. Chen chúc với nhau trên những chuyến đò đưa khách sang sông. Chật hẹp, bấp bênh, mỏng manh, chơi vơi quá chừng! Và dường như sông nước càng mênh mông bao nhiêu thì cái độ chơi vơi, mỏng manh, bấp bênh đó lại càng tăng lên bấy nhiêu. Và tội nghiệp bà Tú. Hẳn đã có lần bà nghe mẹ dặn: “Con ơi, mẹ dặn câu này, sông sâu chớ lội đò đầy chớ khoan sang” (ca dao).

Ấy thế mà bây giờ, vì cuộc sống của chồng con mà con gái của mẹ vẫn bất chấp, vẫn phải liều lĩnh để sang sông “buổi đò đông”. Lời mẹ dặn, có thể vì cuộc sống mà quên. Hoặc nhớ nữa, nhưng biết làm sao hở mẹ? Cuộc sống trong xã hội bất công khắc nghiệt với con người đến thế. Bọn bóc lột, ngồi mát ăn bát vàng, sống trên mồ hôi nước mắt của người bị trị.

Người dân lao động luôn luôn bị cái quy luật cạnh tranh sinh tồn, đặc biệt là cái quy luật bần cùng hoá của chế độ thực dân nửa phong kiến uy hiếp, nên lắm lúc vì cái ăn cái mặc hàng ngày của gia đình mà buộc phải liều lĩnh, phải bực dọc, phải cau có, phải mè nheo, phải chen lấn… thì cũng là điều thường tình, dễ hiểu và đáng thương hơn đáng trách. Sự tha hoá của con người có khi chính là bắt đầu từ những dấu hiệu đó. Tú Xương nhận biết sâu sắc cái hiện thực phũ phàng, bất nhân đó mà càng xót xa thương vợ khi viết câu thơ trên:

Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Trong ấn tượng của ông Tú, kiếp sống của bà Tú thật là căng thẳng, nặng nhọc. Một cuộc đời, một kiếp sống như thế mà không sinh ra vật vã, dằng dặc với nó sao chịu được. Tú Xương nói chuyện ông bà lấy nhau, chuyện bà Tú lấy ông Tú. Kể cũng là cái duyên, về tư cách làm chồng thì quả là ông còn nhiều khuyết điếm. Nhưng chẳng gì thì ông cũng có chân Tú Tài để may khỏi tiếng “cha cu”. Ông cũng hào hoa, cũng duyên dáng, cũng thơ phú lừng danh, đặc biệt là đối xử với bà Tú cũng tử tế, cũng nhiều lúc đùa vui, tình tứ. Còn về đường con cái, thì “Trời cho” cũng “năm con” rồi. Một cảnh chồng con như thế, bình thường không đáng gọi là duyên sao. Nhưng ở đây, sao đã nói đến “một duyên” rồi lại nói đến “hai nợ”? Nghe lại nặng nề, chua chát, éo le, thậm chí còn như dằn vặt, vật vã nữa. Trước hết có vấn đề chữ nghĩa nên hiểu thế nào? “Một duyên hai nợ”, một hai là số chỉ thứ tự hay số lượng? Có lẽ cái âm hưởng dằn vặt của câu thơ này và cả cái lối nói cũng theo kiểu tăng cấp, bồi thán (năm nắng mười mưa) trong luật đối của câu thơ sau, dễ khiến ta hiểu theo nghĩ thứ hai. Và như thế thì ý thơ muốn nói: duyên thì có một mà nợ lại thành hai. Trở lại nguồn gốc xa xưa của chữ nghĩa thì đúng là giáo lý của đạo Phật đã nói đến túc trái tiền duyên. Đạo Phật – quan niệm rằng sự vật, con người có quan hệ với nhau ví như vợ chồng lấy nhau là do có cái duyên từ kiếp trước. Và như thế thì cái duyên cũng là cái nợ từ kiếp trước mà con người ở kiếp này phải trả. Duyên và nợ, theo quan niệm đó của đạo Phật thành ra như một. Trong văn học chịu ảnh hưởng của đạo Phật, từ lâu cũng nói đến duyên nợ “Ví chăng duyên nợ ba sinh, làm chi đem thói khuynh thành trêu người”. (Truyện Kiều). Nhưng cũng từ lâu, trong văn học và trong ngôn ngữ dân gian đã có hiện tượng dân gian hoá quan niệm về duyên nợ theo hướng làm mờ nội dung triết lý siêu hình của nó và muốn tách duyên riêng nợ riêng. Nói đến duyên là nói đến sự may mắn, thuận chiều. Nói đến nợ là nói đến sự đau khổ, phải chịu đựng. Ở Tú Xương trong trường hợp này, xu hướng dân gian hoá đó dường như dẫn đến một sự tách chia đã khá rạch ròi duyên và nợ. Câu thơ của Tú Xương muốn nói: Cuộc đời của bà Tú “duyên” thì có một mà “nợ” thì đến hai, nghĩa là một cuộc đời oái oăm, cay đắng mà đành cam phận. Tú Xương thương xót cho cuộc đời đó mà thành ra dằn vặt thay, vật vã thay. “Một duyên hai nợ âu dành phận”. Âm hưởng của câu thơ đúng là âm hưởng dằn vặt, vật vã. Và nói là “đành phận” thì đúng lại là vừa cam chịu vừa như không muốn cam chịu. Cái ý có vẻ như ngược chiều nhau này chính là tâm trạng của Tú Xương trong khi nghĩ đến cuộc đời của bà vợ. Cái sự thật khách quan chua chát và tâm trạng chủ quan thương vợ của ông Tú xen lẫn trong ý thơ. Hai câu luật vừa nổi lên hình ảnh bà Tú vị tha, cao cả vừa ngầm chứa ý nghĩa tố cáo xã hội đương thời, cái xã hội ma quái đã dồn những con người chịu thương chịu khó như bà Tú đến bước cơ khổ, quằn quại, có duyên mà không vui được với duyên. Duyên có một mà nợ những là hai, vui sao được.

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không.

Không vui được, đã đành. Còn phải phát khùng lên với nó. Bài thơ đã kết lại bằng một tiếng chửi mát. Nhìn cuộc đời bà Tú như thế, có chửi cũng là điều dễ hiểu. Nhưng ở dây, ai chửi, chửi ai? Và chửi cái gì? Thì vẫn là ông Tú thương xót cho bà Tú mà chửi thay cho bà Tú. Chứ bà Tú mà dư luật thành Nam đã hằng khen là chịu thương chịu khó, tần tảo nuôi chồng nuôi con, bà Tú “năm nắng mười mưa dám quản công” hẳn có bao giờ lại chửi như thế. Ông Tú đã chửi mát chính ông Tú về cái tội “ăn ở bạc”, cái tội làm chồng mà “hờ hững cũng như không”, làm chồng mà để vợ phải trăm cơ nghìn cực như thế! “Có chồng hờ hững cũng như không” chữ nghĩa của Tú Xương ở đây lại cũng buột ra quá cái mức tự nhiên và giản dị nhưng ý tình lại cũng sắc biết bao nhiêu, cảm động bao nhiêu. Ngày trước, Thuý Kiều trong buổi trao duyên, tự nhiên cứ cố buộc vào mình cái tội phụ chàng Kim Trọng “Vì ta khăng khít cho người dở dang”, “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây” (Truyện Kiều) mà thực ra, Kiều đâu có phụ. Ở đây, Tú Xương đối với bà Tú, nói là không giúp đỡ bà Tú được gì thì đúng, chứ nói “ăn ở bạc” với bà Tú thì đâu đã đến thế. Và nói là “hờ hững” thì cũng một mặt thôi, chứ đâu tất cả là “hờ hững”, đến mức là kết tội là “ăn ở bạc”. Đúng là giữa Thuý Kiều và Tú Xương, hai cảnh ngộ khác nhau rất xa, nhưng nhân cách lại có mặt giống nhau. Đó là nhân cách của những con người biết yêu thương cho người khác hơn mình biết nghĩ cho người khác hơn mình. Thuý Kiều là cho người yêu. Tú Xương là cho bà vợ. Tú Xương càng thương, càng nghĩ đến bà Tú bao nhiêu thì càng thấy mình “ăn ở bạc, càng thấy mình “hờ hững” bấy nhiêu. Đọc đi dọc lại câu thơ cứ thấy nhói lên một lời tự phán, một lời thương cảm của ông Tú. Nhớ lại xã hội thời ông Tú, trong tầng lớp của ông (thậm chí cả trong nhân dân lao động một phần) có khối gì anh chồng lêu lổng chỉ quen hách dịch, ăn bám vợ, không thoả mãn thì giở trò dã man đánh vợ. Ít tệ bạc hơn thì cũng ăn bám vợ mà chẳng bao giờ biết nghĩ mình ăn bám. Người vợ đối với họ, thực tế đã bị biến thành một thứ “nô lệ”, một thứ nô lệ đặc biệt, một thứ nô lệ mà không bị gọi là nô lệ, vẫn được gọi là bu nó, bà nó, thế thôi. Cho nên, thái độ, tình ý của thơ của Tú Xương ở đây quả là đáng quý, khiến cho mọi người dễ cảm thông.

Tú Xương tự phán, tự rủa mà vô hình trung lại để lộ rõ thêm nhân cách của mình, mà vô hình trung lại tự rũ bỏ được con người phong kiến, con người Nho gia trong mình để cho một Trần Tế Xương ân tình, một Trần Tế Xương nhân ái, một Trần Tế Xương nhân dân hiện lên, đáng quý biết bao nhiêu. Nhưng ở đây, Tú Xương chửi mình đã đành, lại còn chửi lây sang cả cái “thói đời” cái “thói đời ăn ở bạc”. Trong cái “thói đời ăn ở bạc” ấy, có anh “chồng hờ hững cũng như không” là ông Tú, nhưng còn bao nhiêu thứ khác đáng chửi hơn. Cái tiếng chửi của Tú Xương lại chính là muốn hướng vào cái “thói đời ăn ở bạc” nói chung đó. Nghe lại tiếng chửi của Tú Xương. Đúng là ông đang thay bà Tú mà chửi cả cái “thói đời ăn ở bạc”, nghĩa là cả cái xã hội thực dân nửa phong kiến bất nhân đương thời. Cái xã hội đó đẻ ra cái thói đời đó. Cái thói đời đó là bạc bẽo, là đểu cáng, là chen lấn, là cướp giật, là sống chết mặc bây… để những người lương thiện như vợ ông Tú, tần tảo mà vẫn đói nghèo, thương chồng con mà thành khổ cực, có duyên mà không vui nổi với duyên. Cái “thói đời” đó, Tú Xương không chửi vung lên sao yên. Tú Xương là bậc “thần thơ”, “thánh chữ”. Tú Xương chỉ chửi một tiếng, có vẻ như chửi mát, chửi bâng quơ, chửi cái anh “chồng hờ hững” là mình, mà hoá ra lại là chửi cả cái xã hội, chửi cả cái đời bấy giờ. Nói chữ nghĩa nhưng chính là nói thái độ. Vấn đề bài thơ đặt ra không chỉ còn là vấn đề thái độ của Tú Xương đối với người vợ của mình mà đã mở rộng sang vận đề thái độ của Tú Xương đối với xã hội. Vai trò của các câu kết trong thơ Tú Xương thường làm nhiệm vụ nâng cao, mở rộng ý nghĩa xã hội của nội dung thơ như vậy. Nói kết nhưng lại là mở, chính là như vậy.

Advertisement

Bài thơ Thương vợ là tất cả tấm lòng biết ơn sâu sắc, là niềm thương cảm da diết của Tú Xương đối với cuộc đời cần mẫn, nhân ái nhưng vất vả cực nhọc của bà Tú. Mặt khác, cũng là sự tự phán, sự hối hận rất mực chân thành của Tú Xương về những thiếu sót của mình đối với vợ, và đặc biệt cũng là thái độ của Tú Xương oán đời, giận đời bạc bẽo, gây khổ cực cho những người chân chính như bà Tú. Cảm xúc nghệ thuật của Tú Xương vừa có cái độ dày của cảm xúc truyền thống, của nhân dân, của văn học dân gian, vừa nóng hổi cái cảm hứng thời cuộc của ông. Qua bài thơ Thương vợ, hiện lên một bà Tú chưa phải là một bậc nghĩa liệt, nhưng là một người vợ, một người mẹ Việt Nam với bao nhiêu phẩm chất cao quý: Chịu thương chịu khó, hy sinh tất cả cho chồng cho con mặc dù cuộc đời phải ngược xuôi tất tả, tủi nhục, đắng cay. Thơ Thương vợ của ông Tú, chữ nghĩa giản dị mà ý tình lại sâu nặng.

Đặt bài Thương vợ vào trong lịch sử thơ cả cũ mà đối chiếu, lại càng thấy nó đáng quý bao nhiêu. Suốt thời đại phong kiến, trong văn học viết, hỏi đã mấy ai trực tiếp làm văn thơ về người vợ của mình, trừ lúc vợ chết mà họ thường làm văn tế. Hai trường hợp; Ngô thi sĩ viết Khúc ai lục, Phạm Nguyễn Du viết Đoạn trường lục là quả đặc biệt mà chính hoàn cảnh lịch sử cuối thế kỷ XVIII đã cho phép. Sự sụp đổ tan tành của chế độ phong kiến Lê – Trịnh – Nguyễn, sự trỗi dậy mãnh liệt của trào lưu tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa của quần chúng, đã đề ra Đoạn trường lụcKhúc ai lục. Nhưng sau đó, trong hoàn cảnh lịch sử đầu thế kỷ XIX cũng không còn những tác phẩm như vậy ra đời nữa. Trước sau Tú Xương một ít, có Nguyễn Khuyến, Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội Châu, đều có thơ văn khóc vợ. Có nhiều trường hợp khá chân thành, thắm thiết, nhưng nói chung vẫn chưa ai làm thơ văn về vợ, đặc biệt là khi vợ chồng đang sống với nhau kiểu Tú Xương. Phải chăng hệ ý thức phong kiến đã không cho phép những bà vợ Việt Nam xưa trở thành đề tài trong thơ văn của chính những ông chồng của họ?. Ở phương diện này, có lẽ Tú Xương thành ra một trường hợp mới mẻ, độc đáo của văn học. Bài thơ Thương vợ cũng thành ra một hiện tượng đặc sắc, quý báu của lịch sử văn học dân tộc.

Giáo sư, nhà giáo nhân dân Nguyễn Đình Chú

Tiếp tục đọc
Quảng cáo

Văn mẫu 11

Bình giảng bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” – Nhà nghiên cứu Trần Thị Băng Thanh

Được phát hành

,

Bởi

Bài ca ngất ngưởng được viết theo thể ca trù, một lối thơ gần với thơ tự do sau này. Bài thơ tuy có những dòng “tự thuật” của tác giả, nhưng vần là một tác phẩm trữ tình, bộc lộ khá rõ tâm hồn, tư tưởng, nhàn cách của Nguyễn Công Trứ. Cố người xem đây như một “tuyên ngôn” bằng thơ của ông. Bởi vậy, Bài ca ngất ngưởng có giá trị khá tiêu biểu cho sáng tác của Nguyễn Công Trứ.

Nguyễn Công Trứ viết khá nhiều bài ca trù (trên sáu mươi bài). Trước và sau ông trong văn học Việt Nam, cũng có một số người viết, nhưng ca trù của Nguyễn Công Trứ ở vào hàng xuất sắc. “Nếu như ngâm khúc thể hiện một con người cô đơn đau xót đi tìm những giá trị của mình đã bị mất mát thì thể thơ hát nói, một thể thông dụng trong ca trù lại thể hiện một con người tài tứ thoát vòng cương toả, thoát sáo, thoát tục luỵ, danh lợi, nắm lấy phút vui hiện tại.

Không chỉ viết ca trù, đương thời nhà thơ Nguyễn Công Trứ còn tham gia sinh hoạt loại hình nghệ thuật này Giá trị của Bài ca ngất ngưởng là ở chỗ, đây là bài thơ duy nhất Nguyễn Công Trứ trực tiếp thể hiện thái độ phong cách sống của mình. Sự thể hiện đó chỉ có thế có được trên cơ sở một sự tự ý thức sâu sắc về những giá trị của bản thân, về chốn quan trường và rộng hơn là cả xã hội thời bấy giờ. Điều này, trong văn học trung đại Việt Nam, khá hiếm hoi, nhất là với những nhà thơ tham gia vào chốn quan trường. Nói rộng hơn, những kiểu tự ý thức như Nguyễn Công Trứ báo hiệu cho sự đòi hỏi bức thiết về sự xuất hiện và khẳng định cái tôi trong văn học cũng như ngoài đời. Hơn nữa, bài thơ được Nguyễn Công Trứ viết khi đã cáo quan về nghỉ và bước vào tuổi bảy mươi. Do đó, nó là sự tổng kết, tự đánh giá một cách nghiêm túc, sâu sắc của một người từng trải, chứ không phải nhất thời, bồng bột khi ở tuổi thanh xuân.

Bài thơ có tên: Bài ca ngất ngưởng. Điểm đáng chú ý là từ ngất ngưởng, chứ không phải là “bài ca” (cùng thời với Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát cũng viết nhiều bài ca: Sa hành đoản ca – Bài ca ngắn đi trên cát, Đằng tiên ca – Bài ca cái roi song…). Từ “ngất ngưởng” vốn diễn tả trạng thái không vững, ở chỗ cheo leo, dễ đổ, dễ rơi. Đấy là lớp nghĩa thông thường, càng không phải ở trong trường hợp của Nguyễn Công Trứ. Đáng chú ý hơn, trong bài thơ, tác giả sử dụng tất cả năm lần (kể cả tiêu đề). Hai lần đầu trong bài, từ ngất ngưởng xuất hiện ở cuối một khổ thơ, có tác dụng nhấn mạnh.

Advertisement

Lần thứ nhất, kể từ khi ông Hi Văn đỗ Thủ khoa, rồi làm quan Tham tán và tới chức vụ rất cao (Tổng đốc), ông đã ngất ngưởng. Rồi khi bình Tây, lúc về Phủ doãn Thừa Thiên và tới ngày đô môn giải tổ, ông đều ngất ngưởng. Khi thực sự cáo quan, sống cuộc sống bình thường, ông càng ngất ngưởng. So ra, trong triều, chẳng có ai ngất ngưởng như ông. Như vậy, ngất ngưởng là một thái độ, một phong cách sống của Nguyền Công Trứ. Nó vượt lên muôn vạn người thường, nó cũng không Phật, không tiên, không vướng tục. Nó là một cá nhân – cá thể, là bản ngã của chính nhà thơ.

Có thể nói, bộ phận thơ ngôn chí trong di sản thơ Nguyễn Công Trứ là những bài thơ có giá trị nghệ thuật cao, mà trong đó bài thơ Bải ca ngất ngưởng có một vị trí quan trọng. Bài thơ mang dáng vẻ một lời tuyên ngôn nhưng thực sự chính là bản tổng kết cả cuộc đời mình cua Nguyễn Công Trứ.

Thật đặc biệt, cả cuộc đời làm quan, nhìn lại, ông chỉ tự định giá bằng bốn từ: ngất ngưởng.

Trước hết, đó là ngất ngưởng khi “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”, có nghĩa là sự ngất ngưởng khi Nguyễn Công Trứ đã bước vào hoạn lộ, ông đang “đắc chí”. Làm nên sự ngất ngưởng lúc này là tài và chí. Cũng như tất cả những nhà nho dấn thân hành đạo, Nguyễn Công Trứ lập chí ở việc “kinh bang tế thế” (trị nước giúp đời). Đó là sự nghiệp, đương nhiên có công ắt có danh. Nguyễn Công Trứ đã coi điều đó – công danh – là lẽ sống: “Không công danh thà nát với cỏ cây”; đã làm trai đứng trong trời đất “phải có danh gì với núi sông”. Với một quan niệm “chí làm trai” như thế, Nguyễn Công Trứ đã “vơ” tất cả mọi việc trong thiên hạ vào phận sự của mình: Vũ trụ nội mạc phi phận sự. Cũng không mấy nhà nho hào phóng tự tin đến thế trong việc tự nhận trách nhiệm với đời. Và quả thật trong 28 năm, từ khi thi đỗ đến khi nghỉ quan, Nguyễn Công Trứ đã chứng tỏ tài thao lược của mình. Ông đã liệt kê hàng loạt sự việc lớn:

Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông…

Lúc bình Tây, cờ Đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.

Tất cả, Nguyễn Công Trứ đã thực hiện một cách “ngang ngửa với đời” (nói như ngôn từ đang được lưu hành trong dân gian gần đây):

Advertisement

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng

Nguyễn Công Trứ đã tỏ ra tự bằng lòng về mình! Ngất ngưởng là một từ tự khen, thể hiện sự đánh giá cao tài năng, nhân cách và cả phong cách cá nhân mình trong thời gian ở cương vị mà những con người thiếu bản lĩnh rất dễ bị tha hoá: quyền cao chức trọng.

Tuy nhiên đối với Nguyễn Công Trứ, công danh không chỉ là vinh mà còn là nợ, là trách nhiệm. Vì thế ông đã coi đó là sự “dấn thân”, tự nguyện đem tự do, tài hoa nhốt vào vòng trói buộc:

Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.

Một nhà nghiên cứu đã bình luận “giọng văn hơi khoa trương và không gây khó chịu là bởi nhà thơ rất có ý thức về tài năng và phẩm hạnh vủa mình”; nhưng có lúc cần nói thêm: chính là nhờ sự giảm đẳng của ngữ khí trào lộng và cụm từ “tay ngất ngưởng”. Nguyễn Công Trứ đã “ngang trời dọc đất” nhưng bằng sự từng trải trong cuộc đời nhiều thăng trầm, nhìn lại ông đã nhận ra tất cả đều không hẳn là quan trọng, vững bền và dường như còn không hoàn toàn nghiêm chỉnh, cũng gần như một thứ trò đùa. Không hẳn là Nguyền Công Trứ phủ định công tích của mình nhưng ông đã nhìn nó với một cái nhìn có phần khinh bạc.

Thứ hai là trạng thái ngất ngưởng trên lưng bò vàng đeo đạc ngựa khi nghỉ quan.

Thông thường, sự kiện cởi mũ áo nghỉ quan là một việc hết sức hệ trọng, một bước ngoặt trong đời đối với một người iàm quan mà lại là quan to như ông. Nhưng với Nguyễn Công Trứ thì chuyện đó cũng chẳng làm ông bận tâm. Ông không lưu luyến gì và rất muốn “phủi sạch tay trước khi ra về” như giáo sư Trương Chinh nhận định. Ngày 3 tháng 8 năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) khi xin về hưu, ông đà làm đơn nộp trả lại hết bằng sắc cho triều đình và ngày “đô môn giải tổ” chỉ còn đọng lại duy nhất trong ông một sự kiện ngất ngưởng:

Advertisement

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.

Nguyễn Công Trứ đã làm một việc ngược đời, đã bày ra một đối nghịch: kinh thành đầy vồng lọng, ngựa xe nghiêm trang, còn ông thì ngất ngưởng trên lưng con bò vàng nghênh ngang đủng đỉnh! Không những thế, con bò của ông cũng biểu hiện một sự trái khoáy: đã là bò, một loài vật thấp kém, lại còn là bò cái, nhưng được trang sức bằng đạc ngựa – đồ trang sức sang trọng của loài gia súc cao quý. Tương truyền Nguyễn Công Trứ còn cho buộc mo cau vào đuôi bò ở cái chỗ cần che nhất với một tuyên ngôn ngạo ngược: “để che miệng thế gian”! Nguyễn Công Trứ đã trêu ngươi, khinh thị cả thế gian kinh kì. Không những riêng ông mà cả con bò vàng của ông cũng ngất ngưởng.

Thứ ba là ngất ngưởng trong “dạng từ bi” đến nỗi Bụt cũng phải nực cười.

Nguyễn Công Trứ nghi quan, cương vị, chức phận và cuộc sống đã thay đổi, mà thay đổi sâu sắc: một ông tướng quyền sinh quvền sát “tay kiếm cung” đã trở thành một ông già mang dáng từ bi. Nguyễn Công Trứ đã để lại đằng sau cả một thời vùng vẫy ngang dọc, còn phía trước, chờ đón ông, dường như là một sự trống vắng: chỉ có núi Đại Nại quê ông với những tầng mây trắng phau:

Kìa núi nọ phau phau mây trắng.

Câu thơ trữ tình, gợi một chút bâng khuâng, thoáng ý vị chua chát. Hình ảnh những làn mây trắng – rất trắng – trên đỉnh núi gợi nhiều liên tưởng. Nó biểu tượng cho những gì rất thanh, rất cao nhưng nhẹ tênh, mong manh và vô định. Tất cả sẽ là hư vô chăng, “bạch vân thương cẩu” (mây trắng biến ra hình chó xanh) chăng?

Tuy nhiên Nguyễn Công Trứ vốn là một tính cách mạnh, sự bâng khuâng triết học đó không dừng lại lâu trong ông. Ông đã nhanh chóng chọn lối sống phá cách đủ để “thích ý”:

Advertisement

Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.

Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng!

Ở đây cùng vậy, giữa Nguyễn Công Trứ và thế gian lại diễn ra những điều trái ngược: dạng từ bi nhưng lại sống tiên cách. Nguyễn Công Trứ đã không đi tu khổ hạnh, cùng không theo những phương pháp nghiên cứu Thiền học để tìm đến sự giác ngộ mà trái lại ông sống phóng túng, thảnh thơi, vui vẻ. Những cuộc dạo chơi, cả khi lên chùa theo sau ông, cũng có vài bóng “hường hường yến yến”. Tuy nhiên lúc này Nguyễn Công Trứ dường như không còn “hết mình” trong những cuộc hành lạc “Chơi cho thủng trống long bồng”. Trạng từ đủng đỉnh, nhân dạo số từ không xác định một, đôi rất có giá trị gợi tả, giúp cho người đọc hình dung ra một nhóm người thũng thẳng du ngoạn, kể cả lèn chùa, trong đó có sự trang nghiêm của ông già và sự nhùng nhẵng của những cô gái trỏ. Đó quả là một hiện tượng “trái mắt” nhưng nó chỉ đủ để biểu thị sự trêu ngươi, bất cần của tác giả chứ không thể đủ để lên án ông “đắm say tửu sắc”. Chính vì thế Bụt cùng phải bật cười – một nụ cười vừa như khoan dung vừa như chấp nhận.

Cuối cùng kết luận, Nguyễn Công Trứ tự coi sự ngất ngưởng là nét độc đáo, khác đời cứa nhân cách ông.

Ở các đoạn trôn Nguyễn Công Trứ đà định nghĩa con người mình từng giai đoạn: một tay ngất ngưởng ở quan trường, một cách làm ngất ngưởng khi nghỉ quan và một cách sống ngất ngưởng khi đả là một là một hưu quan. Đoạn này, Nguyễn Công Trứ đánh giá con người mình một cách tổng quát, toàn diện. Ông là một người không quan tâm đến chuyện được mất, không bận lòng về sự khen chê, có những khi hành lạc: uống rượu, cô đầu con hát, nhưng rốt cuộc lại ông không phải là người của Phật, của tiên mà vẫn là một con người của cuộc đời, duy có điều: không vướng tục. Người như thế thật là một nhân cách, một bản lình cao, đã “chấp” tất cả, đã không để luỵ và khinh thị tất cả những gì của thói thường. Tuy vậy, cuối cùng Nguyễn Công Trứ vẫn là một nhà nho, mặc dù các bậc “phương diện quốc gia” không ưa ông và ông cũng không ưa được họ, ông vẫn luôn bày ra những sự trái ngược với hộ song trong phấn sâu thẳm của tâm hồn, lí tưởng mà ông theo đuổi suốt đời không thế nào từ bỏ vẫn là lòng trung quân, giúp đời:

Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú

Nghĩa vua tôi chơ vẹn đạo sơ chung.

Tống kết cuộc đời mình, Nguyễn Công Trứ tự cho rằng hai điều quan trọng nhất đối với kẻ nam nhi là trách nhiệm “kinh bang tế thế” và đạo nghĩa vua tôi. Ong đã giữ được trọn vẹn, đã thực hiện một cách xuất sắc, sánh được với những danh tướng thời xưa. Chính vì vậy, Nguyễn Công Trứ dám ngông ngạo buông một câu khẳng định chắc nịch đầy vẻ thách thức:

Trong triều ai ngất ngưởng như ông!

Thơ Nguyên Cồng Trứ phong phú, nhiều vẻ Bài ca ngất ngưởng có một vị trí đặc biệt. Nó vừa là lời tuyên ngôn về quan niệm, phong cách sống, vừa tự khẳng định về nhân cách, sự nghiệp của chính mình. Chính nhờ bài thơ này với những đặc sắc nghệ thuật của nó mà hậu thế định hình một chân dung Nguyễn Công Trứ: con người ngất ngưởng.

Advertisement
PGS.TS. Trần Thị Băng Thanh

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 11

Bình giảng bài thơ “Chiều xuân”

Được phát hành

,

Bởi

Anh Thơ (1921-2005) là một nhà thơ xuất thân trong một gia đình công chức nhỏ, quê gốc ở tỉnh Bắc Giang, tên tuổi của bà xuất hiện trong phong trào Thơ mới với những bài thơ viết về cảnh sắc nông thôn tràn ngập những hình ảnh gần gũi, thân thuộc, gợi được không khí và nhịp sống sôi động nơi đồng quê miền Bắc nước ta. Anh Thơ được được giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2007. Các tác phẩm tiêu biểu của bà là: Bức tranh quê (thơ -1941), Kể chuyện Vũ Lăng (truyện thơ – 1957), Từ bến sông Thương (hồi kí – 1986)… Bài thơ Chiều xuân là bài thơ được rút từ Bức tranh quê – là tập thơ đầu tay của Anh Thơ. Đây là bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Anh Thơ, bài thơ là bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi mát, thơ mộng và khung cảnh làng quê tĩnh lặng, thanh bình làm cho con người thêm gắn bó với quê hương.

Bài thơ với ba khổ thơ như vẽ nên ba bức tranh về chiều xuân yên ả, thanh bình. Những bức tranh nhỏ ghép lại thành một bức hoạ lớn về bức tranh thiên nhiên nơi đồng quê miền Bắc nước ta.

Khổ thơ thứ nhất tương ứng với bức tranh thứ nhất, tả cảnh một chiều mưa bụi với những hình ảnh thân thuộc, “bến sông vắng khách”, “quán tranh” và “chòm xoan đầy hoa tím”:

Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng

Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi

Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng

Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.

Nhà thơ đã dùng cả tâm hồn nhạy cảm của mình để cảm nhận cảnh vật, trong một buổi chiều mưa lạnh nên cảnh vật trở nên tiêu điều, vắng vẻ và có phần xơ xác. Bao trùm cả bức tranh là một vẻ tĩnh lặng gần như là hoàn toàn, nhưng vẫn có sự hoạt động của cảnh vật dù chỉ là sự hoạt động rất nhẹ: “mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng”, các cảnh vật còn lại dường như chỉ lặng im, con đò thì “nằm mặc nước sông trôi”, còn quán tranh thì “đứng im lìm”. Con đò hàng ngày tất bật chở khách thì hôm nay trở nên “biếng lười”, như tỏ vẻ mệt mỏi. Quán tranh trong buổi chiều mưa bụi cũng trở nên vắng lạnh vì thiếu đi sự nhộn nhịp tấp nập tiếng cười, tiếng trò chuyện của khách. Nhưng cơn mưa dù nhỏ, nhẹ nhưng khi kèm theo những cơn gió gió còn vướng hơi lạnh của những ngày cuối mùa đông cũng đủ sức làm cho những chòm hoa xoan tím rụng “tơi bời”. Nhưng có lẽ chính sự tĩnh lặng này đã làm cho bức tranh buổi chiều xuân có chiều sâu của nó, tất cả cảnh vật đều như ẩn chứa một nỗi buồn sâu kín.

Advertisement

Tiếp đến là khổ thơ thứ hai với bức tranh thứ hai, nếu như ở bức tranh thứ nhất là bức tranh về cảnh vật tĩnh lặng thì ở bức tranh thứ hai dường như đã có sự sống, hoạt động của các loài động vật:

Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,

Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;

Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,

Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.

Con đê ven làng là hình ảnh thân thuộc mà có lẽ ở vùng quê nào cũng có, mùa xuân là mùa của hoa lá, cỏ cây bắt đầu sinh sôi nảy nở, chính vì vậy mà con đường ven đê cỏ non tràn biếc cỏ, câu thơ thể hiện sự tươi mát, xanh non của cảnh vật tràn ngập sức sống của mùa xuân, hai từ cỏ như mở ra trước mắt ta một không gian ngập tràn màu xanh làm tâm hồn ta mênh mang, rộng mở. Trên cái nền xanh tươi ấy là hình ảnh “đàn sáo đen”, là “mấy cánh bướm” và “những trâu bò”, tất cả như một sự điểm xuyết làm cho bức tranh thiên nhiên trở nên sinh động hơn. Trong bức tranh này các hoạt động cũng trở nên rộn ràng, tấp nập hơn chứ không nhỏ, nhẹ như bức tranh thứ nhất nữa, đàn sáo đen sà xuống mặt đất mổ nhưng chỉ là mổ vu vơ, trước cơn gió xuân ta cảm giác như những cánh bướm không bay mà là đang “trôi’ theo làn gió, đặc biệt là hình ảnh trâu bò “cúi ăn mưa”, tại sao không phải là ăn cỏ mà lại là “ăn mưa”. Đây là một hình ảnh thật sự lãng mạn, mưa xuống những ngọn cỏ còn long lanh nước, ta có cảm giác như không phải là trâu bò gặm cỏ dưới làn mưa bụi mà là đang cúi xuống để gặm những hạt mưa. Bức tranh thứ hai là một bức tranh được nhìn bằng sự lãng mạn của nhà thơ, chính vì vậy nó vừa thực vừa ảo, vừa gợi cảm giác tươi mát vừa gợi sự thơ mộng.

Bức tranh thứ ba được thể hiện qua khổ thơ cuối cùng với sự xuất hiện của con người, đây chính là yếu tố quan trọng làm cho từ một bức tranh thiên nhiên trở thành bức tranh sinh hoạt của con người:

Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,

Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra

Làm giật mình một cô nàng yếm thắm

Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.

Một bức tranh dù đẹp đến đâu nhưng nếu thiếu vắng đi bóng dáng con người thì bức tranh cũng thật đơn điệu và kém phần sinh động. Từ bức tranh thứ nhất đến bức tranh thứ ba đã có sự biến chuyển đi từ tĩnh lặng gần như là tuyệt đối đến đã bắt đầu có sự hoạt động của sự vật và ở bức tranh cuối cùng là hoạt động của con người. Giữa cánh đồng lúa xanh rờn và hành động của lũ cò con “chốc chốc vụt bay ra” thì đã xuất hiện hình ảnh của con người đó là “một cô nàng yếm thắm”, cả bức tranh là một sự hoà hợp của nhiều sắc màu, lúa xanh, cò trắng, yếm thắm làm cho bức tranh trở nên sinh động và rất tươi tắn.

Ba bức tranh đã khắc hoạ nên những cảnh vật khác nhau với những dáng vẻ khác nhau nhưng đó đều là những hình ảnh rất thân thuộc, gần gũi với làng quê nông thôn, mang đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật của Anh Thơ. Bài thơ mang cho ta cảm nhận về bức tranh thiên nhiên của một buổi chiều xuân êm đẹp, qua đó gợi lên tình yêu quê hương đất nước sâu sắc trong trái tim mỗi con người chúng ta.

Advertisement
Tiếp tục đọc

Văn mẫu 11

Bình giảng bài thơ “Hương Sơn phong cảnh ca”

Được phát hành

,

Bởi

Chu Mạnh Trinh (1862-1905) đậu tiến sĩ, nổi danh tài hoa phong nhà văn chương lỗi lạc, âm nhạc, hội hoạ, kiến trúc đều tinh thông. Chu Mạnh Trinh là người vẽ kiểu, trùng tu chùa Thiên Trù ở Hương Sơn. Thi sĩ Xuân Diệu đã xếp Chu Mạnh Trinh vào hàng ngũ những tao nhân – tài tử – tài tình trong nền văn học Việt Nam thời cận đại.

Hương Sơn thuộc huyện Mĩ Đức, tỉnh Hà Tây, một vùng sơn thuỷ hữu tình có động Hương Tích với nhiều chùa chiền tuyệt đẹp, được coi là “Nam thiên đệ nhất động”. Hội chùa Hương là một lề hội lớn nhất ở miền Bắc nước ta, kéo dài từ tháng giêng đến tháng ba âm lịch hàng năm, có ngày đông tới hàng vạn người. Thám hoa Vũ Phạm Hàm đã từng viết:

Người tai mắt kẻ nhân gian,

Ai chẳng đến Hương Sơn thì cùng tục.

(Hương Sơn phong cảnh)

Thơ viết về Hương Sơn khá nhiều. Trong hàng trăm bài thơ của các thi sĩ thời cận đại và hiện đại, bài thơ Hương Sơn phong cảnh ca của Chu Mạnh Trinh được xem là áng thơ kiệt tác. Bài thơ được viết theo thể hát nói (đôi hai khổ giữa) gồm 19 câu thơ. Tính nhạc du dương, cảnh đẹp thiên nhiên đượm mùi Thiền, được miêu tả và cảm nhận qua tâm hồn nghệ sĩ tài hoa là nét đặc sác của bài thơ này.

Khổ thơ đầu giới thiệu khái quát phong cảnh Hương Sơn được tả từ xa trong tầm mắt của du khách. Giọng thơ trang trọng, từ điệu khoan thai thể hiện du khách vừa đi vừa đứng lại ngắm cảnh và suy ngẫm:

Advertisement

Bầu trời cảnh Bụt,

Thú Hương Sơn ao ước bây lâu nay.

Kìa non non, nước nước, mây mây,

Đệ nhất động hỏi đây có phải?

Một thiên nhiên mênh mông chan hoà với màu sắc Phật giáo. Hương Sơn là thiên tạo nhưng cũng là cảnh Bụt đã và đang vẫy gọi người đời. Đi lễ hội chùa Hương là thú vui, là niềm ước ao bấy lâu nay của nhiều người.

Vốn từ xưa, trong dân gian lưu truyền câu: “Dục đáo Hương Sơn bất khả ước”, nghĩa là muốn đến Hương Sơn không thể nói trước. Người đời tin rằng nếu nói trước sẽ gặp điều trở ngại không đi được. Câu thơ thứ hai của Chu Mạnh Trinh mang một ý mới mẻ: cảnh đẹp Hương Sơn và lễ hội chùa Hương là thú vui mà nhiều người từng ao ước bấy lâu nay. Kìa là đại từ để trỏ một vật từ xa; ở trong văn cảnh biểu lộ sự ngạc nhiên trước cảnh tri thiên nhiên hùng vĩ. Ba chữ non non, nước nước, mây mây được điệp lại hai lần chỉ số nhiều, gợi tả cảnh núi non, sông nước, mây trời tầng tầng lớp lớp, nhấp nhô trùng điệp như mở ra và dẫn dụ khách vào một thế giới thiên nhiên kì vĩ hấp dẫn. Khách trầm trồ, tự hỏi để rồi khẳng định: Hương Sơn là Nam thiên đệ nhất động. Cảm xúc mà vần thơ tạo nên vừa hư vừa thực, lâng lâng mộng ảo. Du khách như mở rộng tâm hồn chiếm lĩnh bầu trời cảnh Bụt kì quan tạo hoá xây đắp đã bao đời nay, đã tô điểm giang sơn gấm vóc.

Khổ thơ tiếp theo trong bài hát nói gọi là khổ giữa, nhà thơ nói về suối, rừng và tiếng chuông chùa. Ba chi tiết nghệ thuật này đều tô đậm nét đặc trưng của Hương Sơn. Rừng là rừng Mai với trái mơ đặc sản của chùa Hương. Tiếng chim hót thỏ thẻ – chậm rãi, nỉ non – gọi bầy tìm bạn, kết đôi. Bầy chim trời vừa hót vừa mổ trái mơ. Hình ảnh chim cúng trái là nét vẽ độc đáo, tài hoa. Bầy chim mổ trái mơ như khách hàng hương đứng dưới mái chùa cổ trong hang động đang khom lưng khấn vái trước mâm ngũ quả dâng trên bàn thờ Phật. Suối ở đây là suối Yến. Chơi chùa Hương ai cũng phải đi đò dọc bến Đục suối Yến? Đàn cá nơi suối Yến lững lờ bơi từ từ thong thả – như đang cùng du khách thưởng ngoạn cảnh trí. Cá nghe kinh cũng là một hình ảnh sáng tạo, đầy chất thơ. Đây là hai câu thơ hay nhất trong bài hát nói:

Thỏ thẻ rừng Mai, chim cúng trái

Lửng lơ khe Yến, cá nghe kinh.

Cảnh lâm tuyền hữu tình đăng đối hài hoà, có chim có cá, có khe Yến rừng Mai, tạo vật được nhân hoà đượm mùi Thiền; Chim cúng trái, cá nghe kinh. Có âm thanh thỏ thẻ, có đường nét lửng lơ. Nét vẽ vừa thanh vừa nhẹ thể hiện bút pháp điêu luyện của nghệ sĩ tài ba. Cũng tả cảnh rừng mơ Hưomg Tích, một thi sĩ khác cảm nhận:

Trong bụi rậm đàn chim thỏ thẻ
Dưới rừng xanh mấy chị tìm mơ

Lá vàng man mác ngẩn ngơ…

(Hương Sơn phong cảnh — Vũ Phạm Hàm)

Lội suôi trèo non… thăm thú chùa xưa, hang động nơi cảnh Bụt, bỗng một tiếng chuông chùa xa đưa tới thoảng bên tai êm ái mơ hồ. Khách hành hương như trút đi bao nỗi ưu phiền trong cuộc đời tang hải – bể dâu – đầy biến động, nhọc nhằn. Tiếng chuông như ru hồn khách tang hải, giật mình trong khoảnh khắc chìm sâu hơn vào giấc mộng diệu huyền:

Advertisement

Thoảng bên tai một tiếng chày kình

Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.

Câu thơ cho ta nhiều thú vị về nhạc diệu du dương. Hai thanh bằng có K âm vang ngân nga, ngọt ngào vần với nhau: kình – mình tạo nên nhạc điệu, âm hưởng trầm bổng của vần thơ. Chỉ một tiếng chày kình êm ái trầm bổng nơi chùa Hương cũng đủ rửa sạch bụi trần làm thanh thản, thảnh thơi tâm hồn khách tang hải. Chu Mạnh Trinh không chỉ tạo nên những vần thơ có nhạc có hoạ khi tả chim, tả cá, tả tiếng chuông chùa mà còn thế hiện sự kì diệu của hồn cảnh vật Hương Sơn Nam thiên đệ nhất động.

Hai khổ thơ 3 và 4 tiếp theo là hai khổ dôi của bài hát nói. Hương Sơn có biết bao cảnh đẹp nên thi sĩ phải sử dụng khổ dôi để diễn tả cảm xúc và miêu tả cảnh vật. Du khách như đi dần vào thế giới Hương Sơn, nơi bầu trời cảnh Bụt. Chu Mạnh Trinh dùng biện pháp tu từ liệt kê và điệp từ để tả, để vẽ, để tạo nên nhạc điệu trầm bổng của vần thơ. Hai cập song hành với bức tranh tứ bình nối tiếp hiện ra. Bốn chữ này vang lên như bốn nốt nhấn của khúc ca:

Này suôi Giải Oan, này chùa Cửa Võng,

Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh.

Sự phối thanh bằng, trắc ở hai tiếng chẵn (2, 4, 6, 8) trong hai câu thơ này cũng cho thấy bút pháp già dặn, tài hoa của tác giả đế làm nối bật tính nhạc của bài hát nói. Hương Sơn có rất nhiều di tích thắng cảnh nhung Chu Mạnh Trinh chỉ giới thiệu bốn cảnh điển hình, chỉ gợi ra mà không tả. Suối Giải Oan, chùa Cửa Võng, am Phật Tích, động Tuyết Quynh mỗi đi tích mỗi thắng cảnh đều đem đến cho ta nhiều liên tưởng và hướng thiện lòng người hành hương. Ai cũng cảm thấy mình đang cùng nhà thơ chan hoà vào cảnh Bụt, được sống lại giây phút mà chỉ có bầu trời, cảnh Bụt nơi Hương Sơn mới ban phát cho mình. Cảm hứng tín ngưỡng về đạo Phật được thể hiện qua những vần thơ nói về suối, chùa, am, động như mời gọi du khách, lắng nghe tiếng chuông chùa xa đưa lại mà ngạc nhiên, mà ngỡ ngàng…

Chu Mạnh Trinh có những vần thơ đầy màu sắc tả hang động. Cảnh sắc ấy được tạo dựng nên bởi hoá công và tài trí của con người:

Nhác trông lên ai khéo vẽ hình

Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt.

Những liên tưởng so sánh về nhũ đá trong các hang động biểu lộ niềm tự hào của nhà thơ về đất nước và con người Việt Nam: yêu đời, yêu tạo vật, biết đem bàn tay khéo léo tô điểm cảnh trí non sông.

Advertisement

Hương Sơn có đường lên trời có hang xuống âm ti địa ngục dẫn khách hành hương du nhập vào thế giới siêu thoát. Cảnh được tả từ xa tới gần, từ khái quát đến cụ thể, từ cao xuống thấp, từ thấp lên cao, huyền ảo. Các từ láy: thăm thẳm, gập ghềnh gợi tả độ sâu, nét lượn cheo leo, khúc khuỷu của sườn non, hang động mà du khách lần bước vượt qua để hoà nhập với thiên nhiên, để chiếm lĩnh cái hồn của cảnh bụt. Phép đảo ngữ đã làm nổi bật cái độ sâu thăm thẳm của hang động, cái nét gập ghềnh của những sườn non, những thang mây cao vút:

Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt.

Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây.

Có hang sâu thăm thẳm, lại có lối uốn gập ghềnh, có bóng nguyệt lồng hang, lại có thang mây uốn lối… Câu thơ mềm mại uyển chuyển, mỗi một chi tiết nghệ thuật là một nét vẽ, nét khắc tài hoa. Cảnh đẹp mang tình người và hồn người, đáng yêu và đáng nhớ. Hương Sơn là mảnh hồn thiêng liêng sông núi, là gấm hoa giang sơn. Mọi di tích cảnh đẹp chùa chiền hang động, suối Yến, rừng Mai, am Phật Tích… tuy hùng vĩ, đượm mùi Thiền nhưng không xa lạ cõi trần. Khách hành hương không hề cảm thấy rợn ngợp nhỏ bé, trái lại luôn luôn tìm thấy niềm vui hoà nhập chiêm ngưỡng. Con người đã tìm thấy niềm vui trong thiên nhiên. Tình yêu thiên nhiên cũng là tình yêu quê hương đất nước:

Chừng giang sơn còn đợi ai đây,

Hay tạo vật khéo ra tay xếp đặt.

Ở trên tác giả đã viết: ai khéo vẽ hình, ở dưới lại nói: hay tạo hoá khéo ra tay xếp đặt. Có biết Chu Mạnh Trinh là người từng đem tiền của, công sức, tài năng ra trùng tu chùa Thiên Trù, tạc tượng đúc chuông… mới cảm nhận được một chữ ai đáng tự hào kín đáo đã hai lần xuất hiện trong bài thơ này.

Ba câu cuối gọi là khổ xếp của bài hát nói. Câu cuối chỉ có sáu từ gọi là câu keo. Luật thơ đã qui định chặt chẽ như vậy. Không gian nghệ thuật được miêu tả theo bước chân xa dần của đoàn người hành hương. Họ vừa đi vừa ngắm cảnh, miệng tụng kinh, tay lần tràng hạt. Không khí thành kính trang nghiêm. Lòng hướng thiện của du khách đều hướng về cửa từ bi của đạo Phật, ai cũng cảm thấy tự hào đối với giang sơn đất nước:

Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật

Cửa từ bi công đức biết là bao!

Càng trông phong cảnh càng yêu.

Câu keo láy lại hai lần chữ càng – càng trông… càng yêu – nói lên thật hay cái thú vị đi hội chùa Hương của nhân dân ta. Chẳng có cách nào nói hay hơn, hồn nhiên hơn và đậm đà hơn cách nói của Chu Mạnh Trinh vậy.

Lễ hội nói chung, hội chùa Hương nói riêng thể hiện bản sắc vãn hoá dân gian Việt Nam vô cùng phong phú. Cảnh Hương Sơn vốn đã được chúa Trịnh Sâm ngợi ca là Nam thiên đệ nhất động. Đó là một niềm thiên nhiên kì thú hữu tình. Bài thơ của Chu Mạnh Trinh giúp chúng ta chiếm linh vẻ đẹp hồn thiêng núi sông. Thơ nên hoạ nên nhạc cho thấy chất tài hoa nghệ sĩ của Chu Mạnh Trinh. Bài thơ dã làm đẹp làm phong phú thể ca trù – hát nói của dân tộc. Có đi lễ hội chùa Hương mới thấy hết cái hay của bài thơ Hương Sơn phong cảnh ca. Có được nếm vị chua giòn mơ Hương Tích, có được ăn rau sắng chùa Hương ta mới yêu hơn nhiều lần Hương Sơn, mới thêm tự hào vẻ đẹp thiên nhiên đất nước. Tổ quốc ta không chi có Hương Sơn mà còn có trăm sông nghìn núi tráng lệ, bao thắng cảnh kì quan. Hãy làm cho đất nước mãi mãi thanh bình, nhân dân được sống yên vui trong những mùa xuân tung bừng lễ hội…

Advertisement
Tiếp tục đọc

Xu hướng