Viết lại truyện cổ là một cảm hứng sáng tạo của nhà văn Tô Hoài (1920-2014). Ngay từ khi mới vào nghề, ông đã có một số truyện cổ viết lại được đăng trên tuần báo Nước Non của ông Trần Trung Viên, tờ Truyền bá của Nhà xuất bản (NXB) Tân Dân.
Sau năm 1945, ông chuyên tâm hơn với thể loại này khi lần lượt xuất bản bộ ba tiểu thuyết Đảo hoang, Nỏ thần và Nhà Chử, tập 101 truyện ngày xưa và Chèo Bẻo đánh Quạ.
Những tác phẩm kể trên là một bộ phận đặc sắc của văn nghiệp Tô Hoài, đồng thời cũng là thành tựu quan trọng của văn học thiếu nhi Việt Nam thế kỷ 20.
Viết để bày tỏ tâm tình với ơn huệ ông bà
Trong lời tựa sách 101 truyện ngày xưa, Tô Hoài viết: “Bấy lâu, tôi vẫn ham thích viết cổ tích”. Theo chia sẻ, hứng thú viết lại truyện cổ của nhà văn được hình thành từ nhiều lý do khác nhau.
Trước hết, đó là nỗi ám ảnh dai dẳng của ông về “những câu chuyện lạ lùng” được nghe bà ngoại kể trong thời thơ ấu. Đó là chuyện con người quan hệ cộng sinh với loài vật, với lực lượng thần tiên ma quỷ, là con chó có nghĩa, cái cây biết che chở người lành…
Theo ông, truyện kể dân gian dù hoang đường đến đâu vẫn đều thấm đượm ý nghĩa nhân sinh, rất có ích cho trẻ em ở bất cứ thời đại nào.
Mặt khác, Tô Hoài cũng hàm ơn những nhà sưu tầm, biên soạn truyện cổ đi trước như Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Phạm Đình Hổ, Nguyễn Trọng Thuật, Trương Vĩnh Ký…
Chính nhờ công trình của họ, ông biết được nguồn truyện kể dân gian rất phong phú. Cũng từ họ, ông được khơi dậy ước mơ, muốn như Đồ Nam Tử Nguyễn Trọng Thuật “làm được bài thơ về cái đảo hoang ấy một lần nữa” (Tựa sách Đảo hoang).
Như vậy, truyện cổ dân gian đã thấm vào tâm hồn Tô Hoài bằng nhiều con đường khác nhau, làm thành vốn sống giúp ông ngay khi biết cầm bút. “Những chuyện ngày đêm ám ảnh vẩn vơ này cứ tự nhiên là những chuyện trước nhất tôi viết ra” (Tựa 101 truyện ngày xưa).
Tô Hoài có nhiều lý do khi viết lại truyện cổ, nhưng dù để “đọc chơi” hay “gửi toà báo”, sâu xa cũng là để bày tỏ “tâm tình của tôi với ơn huệ ông bà”. Ông sẽ kể tiếp những câu chuyện lạ lùng xưa, gắn nối truyện kể dân gian với trẻ em thời hiện đại.
Nhà văn Tô Hoài. Ảnh: Trần Đăng Khoa. |
Lấp khoảng trống của cốt truyện dân gian
Viết lại truyện cổ là sáng tạo ra một giá trị mới, độc lập với giá trị dân gian. Vì thế, nhà văn bắt buộc phải làm mới câu chuyện cổ xưa theo những nguyên tắc nghệ thuật tự sự hiện đại.
Truyện cổ viết lại của Tô Hoài chủ yếu dành cho độc giả thiếu nhi. Căn cứ đặc điểm của lứa tuổi này, nhà văn có những sáng tác riêng cho từng độ tuổi.
Cụ thể, tập 101 truyện ngày xưa là món quà đậm chất kỳ ảo dành riêng cho lứa tuổi nhi đồng, còn bộ ba tiểu thuyết lại hướng đến độc giả ở độ tuổi mới lớn.
Với đối tượng tiếp nhận như vậy, Tô Hoài sẽ không chọn phương án “giải huyền thoại” mà trước sau vẫn trung thành với cốt truyện dân gian. Trong quá trình kể, ông có một số điều chỉnh song cũng không ngoài mục đích tô điểm thêm những gì vốn có, nên có của nhân vật.
Chẳng hạn, với trường hợp Tấm Cám, ông chọn cách để Cám tự mình đun nước sôi rồi “nhờ người” dội giúp. Hay ở truyện Lấy vợ Cóc, ông để nhân vật người học trò và cô Cóc có quá trình tiếp xúc, đến khi “phải lòng” nhau mới nhờ bà mối giúp kết nối lương duyên. Những điều chỉnh như thế phù hợp hơn với cách cảm, cách nghĩ của trẻ em thời hiện đại.
Sáng tạo trong truyện cổ viết lại của nhà văn Tô Hoài rất đa dạng, thể hiện ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Ông là nhà văn có hiểu biết sâu sắc về thể loại, biết cách thu hút người đọc vào với câu chuyện của mình.
Ông tạo ra sự khác biệt với dân gian khi không nhất nhất mở đầu bằng “Ngày xửa, ngày xưa” quen thuộc. Ông chọn cách dẫn dắt linh hoạt, khi thì “Câu chuyện của thiên trả địa không biết xảy ra từ bao giờ mà đến hôm nay người ta vẫn kể lại, vẫn được nhiều người nghe” (Của thiên trả địa); khi lại: “Kể ra thì cũng là hiếm, nhưng trên đời, việc rắc rối đến thế nào mà chẳng có” (Sự tích lá trầu quả cau)…
Ông cũng thường hay “trữ tình ngoại đề”, vừa để giãn nở cốt truyện, vừa nêu lên quan điểm, sự cảm nhận của mình về nhân vật hay sự việc đang được đề cập.
Chẳng hạn, đây là đoạn văn ông phản biện một phong tục Tết xưa: “Ông bổ củi và bà đầu bếp phải đầy ải suốt đời. Mà chổi lúa, chổi xể không phải quét ba ngày Tết cũng chẳng vì người đời tử tế gì, chỉ bởi chúng họ hám của nên nghĩ ra cái hèm thành phong tục không quét nhà quét sân ba ngày Tết để cho tiền bạc của cải – ví như rác rưởi – trong nhà không chảy ra rãnh trôi xuống sông xuống ao mất” – (Cái chổi)…
Những đoạn văn như trên xuất hiện khá nhiều trong 101 truyện ngày xưa, nếu khai thác tốt sẽ có tác dụng giáo dục cho các em về nhận thức và tình cảm.
Bìa sách 101 truyện ngày xưa của nhà văn Tô Hoài. |
Truyện kể dân gian vận hành bằng phương thức truyền miệng, do đó, nội dung miêu tả thường bị bỏ qua, tất cả chỉ được trần thuật một cách khái quát.
Khi viết lại truyện cổ, nhà văn sẽ tìm cách lấp đầy các khoảng trống nghệ thuật nói trên.
Nói theo lý thuyết văn học, mọi sáng tạo trong truyện cổ viết lại sẽ được dồn vào các yếu tố ngoài cốt truyện, gồm miêu tả nhân vật, miêu tả thiên nhiên và ngôn ngữ phong cách hóa.
Có thể nói, truyện cổ viết lại là một thể văn phù hợp phong cách sáng tác của Tô Hoài. Ông có đất dụng văn, phô diễn biệt tài miêu tả của mình qua từng nhân vật, từng cảnh sắc thiên nhiên cụ thể.
Trong 101 truyện ngày xưa, Tô Hoài chọn cách miêu tả chấm phá, giới hạn trong vài ba câu song phải toát lên được nét riêng của từng đối tượng. Tả Cám, ông dùng từ láy “quềnh quàng”, lạ mà chính xác với tính cách của kẻ ham chơi, không biết làm việc: “Cám quềnh quàng trên mặt nước, cả buổi chưa được lưng giỏ” (Tấm Cám).
Cốt truyện trong 101 truyện ngày xưa được Tô Hoài lựa chọn từ nhiều nguồn truyện kể khác nhau: Tày, Nùng, Mạ, Khơ me, Xê đăng… Qua ngòi bút Tô Hoài, các truyện kể nói trên đã tựa vào nhau làm thành một hệ thống phản chiếu vẻ đẹp “diện mạo và tâm hồn” dân tộc.
Mặt khác, tập sách cũng đem lại những ấn tượng ban đầu về sắc thái văn hóa vùng miền qua từng câu chuyện cổ.
Như vậy, bên cạnh thể văn đồng thoại, Tô Hoài cũng rất tài năng qua những tác phẩm truyện cổ viết lại. Trong tương quan chung, 101 truyện ngày xưa nổi bật lên nhờ hệ thống cốt truyện đa dạng, giàu yếu tố kỳ ảo, hài hước và thông minh tài trí…
Nói như Tô Hoài, đó là những “câu chuyện lạ lùng mà như có thực” (Chèo Bẻo đánh Quạ), rất phù hợp tâm lý – thị hiếu của trẻ em.
Thành công kể trên của Tô Hoài là tham khảo tốt đối với nhà trường trong việc rèn dạy cho học sinh kỹ năng kể chuyện sáng tạo.
Đối với người cầm bút, có thể vận dụng kinh nghiệm của Tô Hoài vào quá trình sáng tác, nhất là trong bối cảnh hiện nay, không ít nghệ sĩ đang tìm về với văn hóa dân gian để xây dựng nên những tác phẩm mới.