Connect with us

Sách hay

Những nghi án văn chương qua ‘Lược khảo văn học’

Được phát hành

,

“Lược khảo văn học” dẫn ra nhiều nghi án văn chương liên quan đến “Truyện Kiều”, “Lục Vân Tiên” cùng những tên tuổi văn học nổi tiếng như Nguyễn Du, Dương Quảng Hàm…

Tim hieu thu vi ve nhung nghi an van chuong qua 'Luoc khao van hoc' anh 1

Lược khảo văn học gồm 3 tập (lần lượt ra mắt thời gian 1963-1968), được GS Nguyễn Văn Trung viết hướng đến đối tượng trước nhất là “nhằm gửi tới những sinh viên bắt đầu bước vào ngưỡng cửa đại học” khi ông phụ trách phần Văn học tổng quát tại Đại học Văn khoa.

Giãi bày là thế, nhưng vượt thoát khỏi chủ đích thực sự của tác giả, tác phẩm nghiên cứu này là một công trình dày dặn và có giá trị học thuật cao, được đông đảo bạn đọc thời đó và bây giờ đón nhận. Những kiến giải trong sách vẫn thể hiện được sự mới mẻ, ý kiến gợi mở, góc nhìn riêng, khách quan của tác giả.

Tác phẩm được NXB Tổng hợp TP.HCM phát hành, mới được trao giải tại Giải thưởng Sách Quốc gia lần thứ ba.

Ngôn ngữ văn chương là “tiếng nói trong im lặng”

Trải qua ba tập sách, tác giả đưa độc giả tìm hiểu nhiều ngõ ngách của văn học mà ở đó, những quan niệm, trường phái, những đúc kết có thể làm sáng rõ nhiều vấn đề dẫu là khô khan như khái niệm, định nghĩa văn học, văn chương… trở nên mềm và sống động, thực sự trực quan trong cảm nhận của người đọc.

Advertisement

Bàn về văn chương Việt Nam, với tiêu chí “tiếng nói, chữ viết của một nước là cái hồn của nước đó”, tác giả chủ trương “có lẽ không thể coi thơ văn viết bằng tiếng nước ngoài là văn chương Việt Nam”.

Dẫn trường hợp văn chương do trí thức Tây học người Việt viết bằng Pháp ngữ trước 1945, tác giả cho rằng đó là trí thức vong bản, đã mất dân tộc tính, nên văn chương của họ cũng không phản ánh được hồn cốt của dân tộc.

Tim hieu thu vi ve nhung nghi an van chuong qua 'Luoc khao van hoc' anh 2

Bộ sách Lược khảo văn học của GS Nguyễn Văn Trung gồm 3 tập do NXB Tổng hợp TP.HCM ấn hành. Ảnh: Trần Đình Ba.

Văn chương chữ Hán lại là trường hợp đặc biệt, vì một thời kỳ lâu dài chữ Hán được coi là văn tự chính, được dùng trong giáo dục, khoa cử và sáng tác văn chương.

Dẫu là tác phẩm nghiên cứu văn chương, những dữ liệu lịch sử lại được đan cài, bổ túc cho luận chứng rất thực tế và sống động.

Cũng qua đó, ta biết được thời Hồ Quý Ly, thời Tây Sơn, chữ Nôm được dùng làm văn tự chính thức, tiếc rằng thời gian thực hiện ngắn ngủi cùng triều đại nên thứ chữ dân tộc ấy không có cơ hội khẳng định chỗ đứng vững chắc.

Advertisement

Tác giả dành dung lượng sách nói về vai trò, vị trí của nhà văn, với thiên chức của người cầm bút. Xem xét vị trí của nhà văn trong xã hội, GS Nguyễn Văn Trung nhận định người viết phải hòa mình vào thực tế đời sống của xã hội. Nhưng nếu tìm hiểu trong dặm dài sự phát triển của văn chương, không phải lúc nào nhà văn cũng “nhập thế”.

Từng có thời, nhà văn, cũng là ẩn sĩ, lập am, lập thất, lên núi cao, về thôn quê để sống ẩn dật, lánh đời trần tục như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm… Nhưng viễn cảnh đó không còn trong xã hội thực tại đối với người làm thiên chức văn học.

Nếu trong nhiều tác phẩm văn học sử trước kia như Việt Nam văn học sử yếu (Dương Quảng Hàm), Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam (Trương Tửu), Lịch sử văn chương Việt Nam (Hồ Hữu Tường)… bàn chuyện thuần về văn học, thì ở tác phẩm này, tác giả mở rộng địa hạt tìm hiểu hơn rất nhiều.

Chẳng hạn ở tập 3 có cả một chuyên luận về ngôn ngữ văn chương qua văn vần, văn xuôi, qua những biến đổi của thơ, tiểu thuyết. Xem ngôn ngữ văn chương là “tiếng nói trong im lặng” được thực hiện qua ngòi bút, nhưng vai trò, giá trị biểu đạt của nó thì vô biên.

Không dừng lại ở đó, tác giả mở rộng đường biên khi tìm hiểu cả ngôn ngữ kịch bởi lý do kịch là “bộ môn văn chương hay là bộ môn nghệ thuật tạo hình”. Ở đó là những phân định chuyên sâu về nhạc kịch, tuồng chèo… cùng những phạm trù liên quan được truyền tải ở chất bi, chất hài, chất phê phán…

Advertisement

Góc nhìn độc đáo về những nghi án văn chương

Tập 3 của sách được bao hàm với chủ đề khô khan “Nghiên cứu và phê bình văn học”, nhưng lại vô cùng hấp dẫn khi gạn lọc “những nghi án văn chương chưa được giải quyết”.

Một phần lớn nội dung của tập này đã được tác giả thực hiện làm bài giảng cho sinh viên Văn khoa niên khóa 1966-1967 với tên gọi Ngôn ngữ văn chương và phê bình văn học.

Tim hieu thu vi ve nhung nghi an van chuong qua 'Luoc khao van hoc' anh 3

Lược khảo văn học tập 3 của GS Nguyễn Văn Trung. Ảnh: Trần Đình Ba.

Với những nghi án văn chương Việt Nam, nguyên nhân được tác giả phân tích thể hiện ở việc thiếu sử liệu về tác giả, tác phẩm. Có trường hợp chắc chắn về tác giả nhưng lại không thể xác định được tác phẩm nguyên bản. Chẳng hạn như Lục Vân Tiên.

Chỉ riêng bản Lục Vân Tiên của Abel des Michels in tại Paris năm 1883 và bản của Trương Vĩnh Ký in tại Sài Gòn cùng năm đó đã sai khác nhau đến mấy trăm chữ.

Bản Trương Vĩnh Ký có 2.076 câu, bản Abel des Michels lại có 2.088 câu.

Advertisement

Trường hợp Truyện Kiều được xem là tuyệt tác, là niềm tự hào dân tộc thì thống kê đến năm 1960 có ít nhất 7 bản Nôm, 21 bản quốc ngữ nhưng… không biết bản nào là gốc, là chuẩn vì đã bị “sửa sang” qua thời gian.

Bên cạnh nghi án văn chương khuyết bản đầu tiên của tác phẩm, còn có trường hợp có tác phẩm, nhưng khuyết tác giả (vô danh, khuyết danh). Biểu hiện rõ nhất là những tác phẩm văn chương nổi tiếng thời trung đại như Phan Trần, Nhị độ mai, Thạch Sanh… dẫu hay, những bị xếp vào loại khuyết danh.

Lại có trường hợp tác phẩm như Chinh phụ ngâm dẫu có tác giả gốc bản chữ Hán là Đặng Trần Côn, nhưng việc xác định tác giả dịch ra chữ Nôm gặp nhiều tranh luận.

Tim hieu thu vi ve nhung nghi an van chuong qua 'Luoc khao van hoc' anh 4

Tác phẩm Cuộc phỏng vấn các nhà văn do NXB Đời Mới in năm 1945. Ảnh: Trần Đình Ba chụp màn hình.

Có ý kiến cho rằng bản dịch của Đoàn Thị Điểm, ý kiến khác lại cho là Phan Huy Ích… Cuộc tranh luận thu hút đủ mặt những nhà nghiên cứu nổi tiếng như Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm, La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn… nhưng không dễ có kết luận chắc chắn.

Ngoài việc bàn luận những nghi án văn chương trung đại, tác giả cũng hướng tới buổi giao thời đầu thế kỷ 20 với trường hợp Nam Phong Đông Dương tạp chí. Trong đó tập trung vào trường hợp Nam Phong.

Advertisement

Với những chứng lý thuyết phục trên cơ sở khoa học từ nội dung, ban biên tập, kinh phí hoạt động, Nam Phong được nhận định là một tờ báo không chỉ đơn thuần mang tính văn chương, mà nó được lập ra và hoạt động, là một phương tiện ngôn luận từ động cơ chính trị của thực dân đối với văn hóa nước Việt.

Rời khỏi chủ đề nghi án văn chương, tác giả đưa chúng ta đến với những chủ đề tưởng khô khan nhưng lại có nội hàm hấp dẫn không kém.

Nhìn vào chủ đề “phê bình văn học”, ta được biết hoạt động này được khởi đầu từ lớp trí thức Tây hóa đầu tiên. Nhưng để phê bình trở nên thực chất và chỉn chu, phải đến những năm 1938-1939 mới có.

Trong nhận diện của tác giả, mỗi một nhà phê bình lại có một dấu ấn, nhân diện phê bình khác nhau. Nếu Đào Duy Anh phê bình theo quan niệm ấn tượng, chủ trương “thái độ thưởng ngoạn” thì Thiếu Sơn xem phê bình là “đọc giùm cho người khác”; Hoài Thanh lại được biết là người chủ trương phê bình mang tính vị nghệ thuật qua Thi nhân Việt Nam…

Lối phê bình văn học khách quan ghi nhận trường hợp Trần Thanh Mại với biên khảo Trông dòng sông Vị viết về Trần Tế Xương và cuốn Hàn Mặc Tử (viết Mặc chứ không phải Mạc). Trong khi ấy Lê Thanh với tác phẩm Cuộc phỏng vấn các nhà văn năm 1945 lại được xem là “người đầu tiên dùng lối phỏng vấn để giúp người tìm hiểu nhà văn một cách vừa sâu xa, vừa linh động, vừa xác thực”…

Advertisement

Giải thưởng Sách Quốc gia do Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Xuất bản Việt Nam phối hợp tổ chức. Giải thưởng tôn vinh 27 sách, bộ sách giá trị được xuất bản trong năm qua. Đơn vị đồng hành: Tập đoàn Sungroup, Công ty Phú Long và HDBank.

Nguồn: https://zingnews.vn/nhung-nghi-an-van-chuong-qua-luoc-khao-van-hoc-post1133824.html

Tiếp tục đọc
Quảng cáo

Sách hay

Lịch sử chưa kể về ramen

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một khảo cứu thú vị về lịch sử món mì ramen ở Nhật Bản thông qua lăng kính phân tích và mối liên hệ chặt chẽ của món ăn với địa lý, chính trị, quan hệ đối ngoại, khoa học dinh dưỡng, truyền thông và bản sắc dân tộc.

Một bản ghi chép còn bảo toàn được từ tháng 7 năm 1665 cho thấy Zhu Shun Shui đã chỉ cho Mitsukuni (cận vệ của Tokugawa Mitsukuni) cách chế biến một món mì nước kiểu người Hoa.

Mì ramen được giới thiệu lần đầu đến Nhật Bản vào năm 1665, năm 1884 hay năm 1910? Tiền thân của nó liệu có phải là món ăn được gọi với cái tên ūshin udon, Nankin soba hay Shina soba? Tùy thuộc vào câu trả lời mà chúng ta sẽ nghiệm suy về từng món ăn khác nhau với một giai thoại nguồn cội riêng, cùng một quỹ đạo lịch sử đặc thù mang đến các góc nhìn cụ thể về đất nước Nhật Bản. […]

Mi ra men anh 1

Bìa cuốn sách

Giai thoại đầu tiên, và cũng sống động nhất, đã xuất hiện ban đầu trong công trình nghiên cứu mang tính tiên phong về lịch sử của mì ramen (được xuất bản năm 1987) của nhà sử học về ẩm thực Kosuge Keiko, trong đó ấn định thời điểm món ăn này được trình làng là vào những năm 1660, đồng thời cho rằng Tokugawa Mitsukuni (tên khác là Mito Kōmon, 1628 − 1701) – vị lãnh chúa huyền thoại thời phong kiến (daimyō) nắm hàng thứ hai sau Mạc chủ (shōgun) (1) – là người đầu tiên thưởng thức món mì ramen ở Nhật Bản.

Là nhân vật lịch sử nổi tiếng ở Nhật và từng được một bộ phim truyền hình dài tập mô tả như một vị hảo hán, ở gần cuối mỗi tập phim, Tokugawa Mitsukuni thường tiết lộ danh tính của mình cho những kẻ xấu bằng cách để lộ ra hình ảnh chiếc inrō (hộp đựng trang trí sơn mài kích cỡ nhỏ) có khắc gia huy của dòng họ ông, cho thấy ông là vị daimyō trong vùng.

Advertisement

Câu thoại “Ngươi không nhận ra gia huy này sao?” (Kono mondokoro ga me ni hairanuka?) được Kaku-san (cận vệ của Mitsukuni) nhắc lại trong đoạn cao trào của mỗi tập phim nhằm khôi phục lại trật tự và cấp bậc, và khiến những kẻ bất lương ngang ngược phải lập tức cầu xin sự khoan hồng.

Một bản ghi chép còn bảo toàn được từ tháng 7 năm 1665 về các hoạt động của Mitsukuni cho thấy rằng Zhu Shun Shui – một người Trung Quốc tị nạn khỏi chính quyền nhà Minh sống ở Mito vào thời điểm đó (2) – đã chỉ cho Mitsukuni cách chế biến một món mì nước kiểu người Hoa nhiều khả năng chính là món mì ramen ngày nay (3).

Mặc dù Mitsukuni được biết đến nhiều nhất trong lịch sử Nhật Bản khi đã khởi xướng kế hoạch kỳ vĩ biên soạn nên Dai Nihon Shi – hay Lịch sử vĩ đại của Nhật Bản – một cuốn sách mất gần 250 năm và mười thế hệ để hoàn thành, ông cũng là một người ca tụng triết học Lý học (Neo- Confucianism) (4) và đã tìm đến Trung Quốc để được soi đường chỉ lối cách trị nước.

Ông do vậy đã tham vấn và kết giao với Zhu, người trước đó từng nắm chức thượng quan ở Trung Quốc dưới thời nhà Minh nhưng quyết định đến Nhật Bản vào năm 1665 do phải lưu vong khỏi chế độ cai trị của Mãn Châu.

Mi ra men anh 2

Lãnh chúa Tokugawa Mitsukuni. Nguồn: wikipedia.

Zhu trở thành một trong những cố vấn quan trọng nhất của Mitsukuni, và làm việc trong chính quyền cai trị của ông này trong 17 năm tiếp theo cho đến khi qua đời vào năm 1682. Vai trò quan trọng của Zhu trong đội ngũ cố vấn của vị daimyō đã giúp ông có được một cuộc sống thoải mái, cùng một bia mộ nổi bật còn tồn tại cho đến ngày nay trong khu nghĩa trang của gia tộc Tokugawa nhánh Mito (5).

Advertisement

Trong thời gian hầu cận daimyō, Zhu biết được rằng Mitsukuni là một người rất thích ăn udon – loại mì nước hiện vẫn phổ biến ở Nhật Bản – với sợi mì làm từ bột mì sử dụng với nước dùng dashi (làm từ cá ngừ khô và tảo bẹ).

Vào thế kỷ 17, người Nhật thường ăn mì udon với quả mơ ngâm (umeboshi) và vừng. Thấy vậy, Zhu đã gợi ý về năm thành phần thường được sử dụng trong món mì nước Trung Quốc để vị daimyō vùng Mito có thể thêm vào nhằm cải thiện hương vị của món ăn. Năm thành phần (ūshin) mà ông chủ ý đề xuất gồm: rễ kiệu (rakkyō), tỏi, hẹ tỏi (nira), hành lá và gừng (6).

Từ những dữ kiện này, nhà sử học về ẩm thực Kosuge phỏng đoán rằng Tokugawa Mitsukuni chính là cha đẻ của tập tục ăn mì nước Trung Quốc ở Nhật Bản. Sau này Bảo tàng Ramen ở Shin-Yokohama đã phổ biến rộng rãi câu chuyện trên, và kết quả là vào năm 2003, Tập đoàn Thực phẩm Nissin của Nhật Bản nhà sản xuất mì ramen ăn liền lớn nhất thế giới – trong một thời gian ngắn đã cho ra – mắt nhãn hiệu mì ăn liền U-shin có in hình gia huy của gia tộc Tokugawa, được điểm tô bằng giai thoại về Mitsukuni và Zhu.

Mặc dù khó xác định liệu món ăn từng được ưa chuộng bởi vị lãnh chúa nổi tiếng của vùng Mito kia tương thích ra sao với món ăn ngày nay được gọi với cái tên “mì ramen”, cần ghi nhớ rằng câu chuyện được lưu truyền rộng rãi ở trên về sự xuất hiện tại Nhật Bản của món mì nước kiểu người Hoa đã thiết lập nên một giai thoại nguồn cội trong giai đoạn đầu của kỷ nguyên hiện đại – một thời đại được đánh dấu bằng việc người Nhật có xu hướng học hỏi người Trung Quốc.

Mặc dù câu chuyện trên được coi như một phiên bản bao trùm đầy lôi cuốn về nguồn gốc của món ăn, với đầy đủ các nhân vật ngoài đời thực cùng những tương tác tưởng tượng dựa trên các cách diễn giải không thành kiến đối với những ghi chép lịch sử, nó có ý nghĩa quan trọng trong việc nhấn mạnh sự ngưỡng mộ của người Nhật đối với một nước Trung Quốc thời tiền Thanh.

Advertisement

—————-

1. Một tước hiệu đặc biệt dành cho những vị tướng quân có chức vụ cao nhất trong thời kỳ phong kiến của Nhật Bản. (ND)

2. Khi triều đại nhà Thanh củng cố quyền lực của mình lên miền nam Trung Quốc, một số học giả Nho giáo làm việc cho chính quyền nhà Minh đã trốn sang Đại Hàn và Nhật Bản để làm cố vấn.

3. Kosuge Keiko, Nippon Rāmen Monogatari: Chūka soba wa itsu doko de umareta ka (Tokyo: Shinshindō, 1987), tr.45-59.

4. Tư tưởng triết lý Trung Quốc chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Lý học có thể được xem là nỗ lực hợp lý hóa cũng như thế tục hóa Nho giáo bằng cách loại bỏ các yếu tố mê tín, huyền bí của Đạo giáo và Phật giáo, vốn từng được đưa vào Nho giáo trong và sau đời nhà Hán. (ND)

Advertisement

5. Sĩ quan hải quân người Mỹ. (ND)

6. Cho đến năm 1854, khi Hiệp ước Perry đầu tiên có hiệu lực, triều đại Tokugawa ở Nhật Bản đã duy trì chính sách tránh tiếp xúc với các cường quốc phương Tây (ngoài Hà Lan) trong hơn hai thế kỷ để hạn chế tình trạng hỗn loạn do những nỗ lực cải đạo của các nhà truyền giáo Cơ đốc ở Nhật Bản. Riêng Hà Lan đã đồng ý giới hạn mối quan hệ giữa hai nước chỉ trong lĩnh vực thương mại, kết quả là Hà Lan trở thành quốc gia châu Âu duy nhất duy trì quan hệ thương mại và ngoại giao với Nhật Bản từ năm 1639 đến năm 1854.

Nguồn: https://znews.vn/giai-thoai-ve-su-xuat-hien-cua-mi-ramen-mon-an-quoc-dan-nhat-ban-post1455469.html

Advertisement
Tiếp tục đọc

Sách hay

Nóng giận là bản năng tĩnh lặng là bản lĩnh

Được phát hành

,

Bởi

Trong cuốn sách, tác giả Tống Mặc đã trò chuyện với độc giả về cách kiềm chế cơn nóng giận, học cách bao dung, kiểm soát cảm xúc của mình trước những tác động của cuộc sống.

Ai chẳng có lúc giận dữ, nóng giận là hạt mầm được gieo vào tâm ta từ lúc mới chào đời. Nhưng kìm chế cơn giận là bản lĩnh cần rèn luyện mỗi ngày.

Kim che con gian anh 1

Thái độ điềm tĩnh sẽ giúp con người dễ dàng vượt qua nghịch cảnh, đón nhận thử thách. Ảnh: P.G.

Điềm đạm là sự điềm tĩnh xuất phát từ nội tâm. Cổ nhân cho rằng: “Điềm tĩnh dưỡng thần, phật dịch ô vật.” Ý muốn nói, điềm tĩnh có thể dưỡng tâm, giúp con người không phụ thuộc vào thứ bên ngoài. Điềm tĩnh nói đến một thái độ sống “lùi”, vạn sự thuận theo tự nhiên, người giữ được tinh thần như vậy, chắc chắn có thể làm tốt việc dưỡng tâm.

Hiện giờ, ngày càng có nhiều người theo đuổi việc “dưỡng sinh”. Dưỡng sinh gồm có dưỡng tâm, dưỡng tính và dưỡng thân. Nhưng rất nhiều người chỉ quan tâm đến việc dưỡng thân, cho rằng chỉ cần chăm sóc cơ thể cho thật đẹp đẽ, khỏe mạnh, thì có thể hưởng thụ cuộc sống lâu dài. Cho nên, số người có thể kiên trì hàng ngày tập luyện thể thao, ăn uống lành mạnh thì nhiều, nhưng số người có thể kiên trì dưỡng tâm hàng ngày lại rất ít.

Advertisement

Có một bà mẹ cực kỳ chú trọng việc dưỡng sinh. Gặp ai cô ấy cũng thao thao bất tuyệt về đạo lý dưỡng sinh, về việc mỗi ngày phải ăn cái gì, ăn bao nhiêu, ăn thế nào, vận động bao lâu… Cô ấy nói hết lần này đến lần khác: Chỉ có làm như vậy, mới không bị bệnh! Nhưng mỗi lần nghe những điều này, tôi đều thấy rất lạ. Một người ngày nào cũng bận rộn chuẩn bị đồ ăn lành mạnh cho bản thân từ sáng đến tối, sợ mình ăn phải đồ ăn không tốt sẽ sinh bệnh, không thể sống thọ, ngày nào cũng lo lắng như vậy, liệu có vui vẻ được không?

Nếu như chúng ta dư ỡng sinh mà không bắt đầu từ việc dưỡng tâm dưỡng tính, trong lòng sẽ có nhiều phiền não, có nhiều ham muốn. Như vậy, “hạnh phúc” mà chúng ta được hưởng chỉ dừng ở mức ăn ngon mặc đẹp và cơ thể khỏe mạnh, đó không phải cuộc sống thăng hoa chân chính.

Đại sư Hoằng Nhất cho rằng điềm đạm là “điều đầu tiên của việc dưỡng tâm”. Điềm đạm mà ngài nói tới suy cho cùng là cần con người phải tĩnh tâm. Thế gian này bao chuyện phiền não, dễ ảnh hưởng đến tâm lý của con người.

Kim che con gian anh 2

Cuốn sách Nóng giận là bản năng, tĩnh lặng là bản lĩnh mang đến cho người đọc nhiều lời khuyên hữu ích. Ảnh: Chi.

Cho nên, nhiều người nghĩ rằng tâm mình không tĩnh là vì đang bị quá nhiều chuyện quấy nhiễu. Thật ra, ta bị quấy rầy không phải vì những chuyện phiền nhiễu trên đời, mà vì tâm không tĩnh. Khi chúng ta có thể tách khỏi tất cả sự vật bên ngoài, cho dù ở trong hoàn cảnh nào, ta cũng có thể hưởng thụ cuộc sống an nhàn thực sự.

Trong xã hội hiện thực này, rất nhiều chuyện sẽ làm cho chúng ta “dao động”.

Advertisement

Khi một người mỗi ngày kiếm được 10 đồng, chỉ đủ để ăn no, anh ta cảm thấy rất thoải mái, nhưng lại mơ mỗi ngày kiếm được 100 đồng; khi kiếm được 100 đồng mỗi ngày, anh ta lại cảm thấy mệt hơn trước rất nhiều, và không thấy hài lòng lắm, bởi vì có người mỗi ngày kiếm được 1.000 đồng.

Anh ta làm việc chăm chỉ hơn, cuối cùng cũng có thể kiếm 1.000 đồng mỗi ngày, anh ta bắt đầu mua xe, mua nhà, sống cuộc sống tốt đẹp mà anh ta từng ao ước, nhưng anh ta lại bắt đầu hướng về cuộc sống mỗi ngày kiếm được 10.000 đồng…

Chúng ta luôn rơi vào một vòng tròn kỳ lạ như vậy. Chúng ta luôn cho rằng khi đạt được điều gì mình mong đợi đã lâu, trong lòng sẽ cảm thấy yên tâm, hài lòng, từ đó có thể hạnh phúc. Nhưng sau khi đạt được điều mình muốn, ta lại có cảm giác cũng chỉ thế mà thôi. Những ham muốn lớn hơn nối tiếp nhau, mục tiêu ngày càng cao, và chúng ta càng ngày càng mệt hơn.

Do đó, một người sau khi có biệt thự, xe hơi, anh ta càng không hạnh phúc, bởi anh ta lo sợ một ngày nào đó sẽ mất đi cuộc sống như vậy, do đó đành phải dốc sức làm việc nhiều hơn, ép bản thân phải kiếm được 100.000 mỗi ngày, nếu chỉ kiếm được 80.000 thì thở dài ngao ngán.

Ngày nào cũng sống trong nỗi sợ mất đi danh lợi, gánh áp lực khủng khiếp, làm sao mà không sinh bệnh cho được? Dĩ nhiên, không phải con người không thể sống như vậy, danh lợi vốn là sự theo đuổi lớn nhất cuộc đời đối với một người bình thường.

Advertisement

Nhưng ý ở đây muốn nói, nếu như cuộc sống như vậy làm cho chúng ta cảm thấy thêm áp lực, thêm phiền muộn, không hề có cảm giác hạnh phúc, thì bạn hoàn toàn có thể suy nghĩ theo hướng khác.

Không nhất thiết phải từ bỏ những thứ như biệt thự, xe hơi, chỉ cần từ bỏ việc cố chấp gắn bó với những thứ này, dù kiếm được 1.000.000 mỗi ngày cũng không ngạo mạn, mà mỗi ngày kiếm được 10 đồng cũng không chán chường, muốn ăn thì ăn, muốn ngủ thì ngủ, không cần gượng ép bản thân, bạn có thể cảm nhận được sự hạnh phúc ngay lập tức.

Người có nội tâm điềm đạm là người ngay cả khi mặc một chiếc áo vải, ăn một bữa cơm đạm bạc, vẫn có thể an nhàn thoải mái, không có chút cảm giác khó chịu hay không vui nào. Cho dù đối mặt với phiền não và sinh tử, họ cũng có thể thản nhiên đối diện, trong lòng không một chút gợn sóng đau khổ, không cần ăn ngon mặc đẹp vẫn cảm thấy yên bình và hạnh phúc.

[…]

Nguồn: https://znews.vn/kim-che-con-gian-la-ban-linh-can-co-cua-nguoi-truong-thanh-post1455101.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tuổi ấy mình yêu

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn tản văn “Tuổi ấy mình yêu” ghi lại nhiều ký ức về Hà Nội của thế hệ 6X, 7X. Khi ấy thành phố tuy còn nhiều gian khó nhưng đầy lãng mạn với những biệt thự cổ rêu phong, cùng những thanh niên tha thiết yêu đời!

Dòng thời gian miên man đưa ta về những kỷ niệm ấu thơ không thể nào quên. Mùa hè nóng như đổ lửa, chẳng có điều hòa lẫn quạt điện, chỉ đành phe phẩy quạt nan xua đi cái nóng.

Tuoi ay minh yeu anh 1

Cảnh mấy đứa trẻ ngồi ở bể nước công cộng để mẹ tắm rửa là hình ảnh quen thuộc thời bao cấp. Ảnh: Fclikr.

Ở miền ôn đới mà nhiệt độ lên tới 40 thì không thể không coi là sự kiện. Vì thế mà ai chưa kịp trẻ lại, gầy đi, chết vì nóng thì cứ, rất nhiều người thích, tranh thủ cởi gần hết cho da có màu suy nghĩ. Cái màu này, Tây và ngay cả ta chưa từng trải đời này dăm chục năm tha hồ suy nghĩ cũng chả biết là màu gì.

[…]

Advertisement

Thành phố uể oải trong hơi nóng làm người cứ lơ mơ, thương chả ra thương nhớ chẳng ra nhớ, cứ dằng dai lừng khừng. Chẳng biết có phải dân ở những xứ nóng động cái là sùng sục hừng hực lên là vì một năm mấy mùa đã tha hồ uể oải rồi không?

Chiều qua thứ bảy, chỉ còn mấy tiếng nữa cửa hàng cửa họ đóng, đóng cửa luôn ngày chủ nhật là ngày đến Chúa cũng không làm gì (mà còn làm làm gì, sửa sai thế nào được nữa sau khi đã tạo ra con người) nhưng nắng vẫn còn chấp chới trên bờ tường, ngọn cây, mái nhà. Say nắng trưa rồi, không dám đi xa, chỉ lếch thếch ra đầu phố xem có quả dưa hấu nào nhẹ hơn một yến để tha về ăn giải nhiệt chờ mưa.

Mưa thì chưa, dưa thì không nhẹ, chẳng mua bán gì nữa, đi về. Ngang qua cái quán nhỏ đầu phố thấy bàn nào cũng có người ngồi lơ mơ. Có ông lẩn mẩn lúc quờ cốc cà phê đưa lên môi lúc sờ cây bút bi chơi đố chữ.

Có mẹ nạ dòng cháu sớm phom dáng cực kì hùng tráng vẫn chẳng ngần ngại gọi cốc kem to cho xứng người, ăn thi với cháu. Có bà già lim dim mắt xếp tà váy rồi ngồi vắt chân đầy vẻ quý phái khiêu khích kiểu Marlene Dietrich, thay vì điếu thuốc trên tay lại thấy phảy một cái quạt giấy thật là xinh.

Kỷ vật của những ngày nắng hạ Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Tuynidi gì đó đây, không biết cụ mua hay cụ trai nào tặng, mùa hạ vừa đi qua hay từ đời thăm thẳm nỗi niềm nào.

Advertisement

Bất chợt thấy mình chậm bước. Bất chợt hình dung lại, ngày xưa, cũng quạt giấy như này. Bà tóc bạc vấn lẳn trong vành khăn trắng để “trở” ai trong họ chẳng biết. Bà đứng chờ tàu điện chỗ Ô Cầu Dền. Bà luôn luôn có cái quạt trong tay phe phảy cho cháu bám quẩn bên chân.

Bà ngồi chân co chân duỗi đầu tấm phản sau này hạ xuống che cái hầm trú ẩn đào ngay dưới gậm giường rồi cúi người vuốt ngay ngắn ống quần, mở âu giầu, tỉ mẩn tiện miếng vỏ quạch, xé mảnh lá giầu không, bổ nhỏ miếng cau đã bổ sáu từ trước, quết chút vôi trắng, nhúm chút thuốc lào rồi đưa lên miệng, rồi bận bịu dọi lại vành cái quạt nan, xếp lại cái quạt giấy, lầm thầm không biết là mắng đứa cháu nào dùng đồ xong buông quăng bỏ vãi, vô ý vô tứ chẳng biết của bền tại người.

Chao ôi những buổi chiều Hà Nội hết chiến tranh, đã khó nghèo càng thêm khó nghèo vì mẹ mất, nhưng bà còn đó cho chị em mình nương dựa, bà còn đó, giữ lại cho chị em mình những gì còn có thể giữ được, là sự ngây ngô quý giá nhất của tuổi ấu thơ.

Tuoi ay minh yeu anh 2

Cuốn tản văn Tuổi ấy mình yêu của nhà văn Lê Minh Hà. Ảnh: NXB Trẻ.

Cũng cái quạt giấy này, trong bàn tay con gái những ngày cuối cùng đến lớp, giấy trang kim màu tím, nan tre, thằng bạn ngồi bên giằng lấy hỏng luôn chỗ tay cầm, những cái nan rời nhau ra, thế mà nó ra sức khoát tay quạt cho cả mình với nó. Tức mà nghĩ tới những ngày sắp xa đi, gặp lại không biết có đủ tự tin như giờ vẫn hay gây sự với nhau, nghĩ tới cái compa dở hơi nó vẫn nhường mình trong giờ hình học, thôi im vậy.

Bà già váy hoa vẫn đang lơ mơ bên cốc kem phe phẩy cái quạt giấy rõ là xinh. Uể oải thì mình đang uể oải lắm rồi, nhưng có mơ đâu, mà cảm như từ đâu xưa hơi gió từ cái quạt giấy muôn đời. Chỉ phảy nhẹ phảng phất thôi đã đủ làm xao động hơi nóng ngày tháng hạ vì cái mùi hơi thum thủm của những nan quạt vót từ tre ngâm ao bùn.

Advertisement

Ở Hà Nội giờ hay gặp các bà đi tập dưỡng sinh. Khi biểu diễn dưỡng sinh, các bà mặc cả bộ sa tanh đỏ, cứ từng lúc lại khuỵu đầu gối trong tư thế cảm tử lao về phía trước, trong tay là cái quạt hình thù như cái quạt giấy mình quen pạch một cái đồng loạt xòe ra.

Chưa tới gần nên không biết nan quạt bằng tre bằng gỗ hay bằng nhựa, nhưng cái quạt cũng màu đỏ rực, lại có tua rua, xòe ra đều còn hơn các diễn viên hội đoàn tập múa, chỉ còn thiếu hai bím tóc ngắn vểnh ngang tai và trẻ đi dăm chục tuổi là gần bằng diễn viên kinh kịch Bắc Kinh nhảy một cái, xoạc chân một cái, cao giọng á a a trên sân khấu Hà Nội một thời.

Về với Hà Nội, cứ lần nào nhìn thấy những mảnh tam giác đỏ rực ấy chói lọi trong nắng sớm cũng giật mình.

[…]

Nguồn: https://znews.vn/mua-he-da-xa-post1455038.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Xu hướng