Connect with us

Sách hay

Những nghi án văn chương qua ‘Lược khảo văn học’

Được phát hành

,

“Lược khảo văn học” dẫn ra nhiều nghi án văn chương liên quan đến “Truyện Kiều”, “Lục Vân Tiên” cùng những tên tuổi văn học nổi tiếng như Nguyễn Du, Dương Quảng Hàm…

Tim hieu thu vi ve nhung nghi an van chuong qua 'Luoc khao van hoc' anh 1

Lược khảo văn học gồm 3 tập (lần lượt ra mắt thời gian 1963-1968), được GS Nguyễn Văn Trung viết hướng đến đối tượng trước nhất là “nhằm gửi tới những sinh viên bắt đầu bước vào ngưỡng cửa đại học” khi ông phụ trách phần Văn học tổng quát tại Đại học Văn khoa.

Giãi bày là thế, nhưng vượt thoát khỏi chủ đích thực sự của tác giả, tác phẩm nghiên cứu này là một công trình dày dặn và có giá trị học thuật cao, được đông đảo bạn đọc thời đó và bây giờ đón nhận. Những kiến giải trong sách vẫn thể hiện được sự mới mẻ, ý kiến gợi mở, góc nhìn riêng, khách quan của tác giả.

Tác phẩm được NXB Tổng hợp TP.HCM phát hành, mới được trao giải tại Giải thưởng Sách Quốc gia lần thứ ba.

Ngôn ngữ văn chương là “tiếng nói trong im lặng”

Trải qua ba tập sách, tác giả đưa độc giả tìm hiểu nhiều ngõ ngách của văn học mà ở đó, những quan niệm, trường phái, những đúc kết có thể làm sáng rõ nhiều vấn đề dẫu là khô khan như khái niệm, định nghĩa văn học, văn chương… trở nên mềm và sống động, thực sự trực quan trong cảm nhận của người đọc.

Bàn về văn chương Việt Nam, với tiêu chí “tiếng nói, chữ viết của một nước là cái hồn của nước đó”, tác giả chủ trương “có lẽ không thể coi thơ văn viết bằng tiếng nước ngoài là văn chương Việt Nam”.

Dẫn trường hợp văn chương do trí thức Tây học người Việt viết bằng Pháp ngữ trước 1945, tác giả cho rằng đó là trí thức vong bản, đã mất dân tộc tính, nên văn chương của họ cũng không phản ánh được hồn cốt của dân tộc.

Tim hieu thu vi ve nhung nghi an van chuong qua 'Luoc khao van hoc' anh 2

Bộ sách Lược khảo văn học của GS Nguyễn Văn Trung gồm 3 tập do NXB Tổng hợp TP.HCM ấn hành. Ảnh: Trần Đình Ba.

Văn chương chữ Hán lại là trường hợp đặc biệt, vì một thời kỳ lâu dài chữ Hán được coi là văn tự chính, được dùng trong giáo dục, khoa cử và sáng tác văn chương.

Dẫu là tác phẩm nghiên cứu văn chương, những dữ liệu lịch sử lại được đan cài, bổ túc cho luận chứng rất thực tế và sống động.

Cũng qua đó, ta biết được thời Hồ Quý Ly, thời Tây Sơn, chữ Nôm được dùng làm văn tự chính thức, tiếc rằng thời gian thực hiện ngắn ngủi cùng triều đại nên thứ chữ dân tộc ấy không có cơ hội khẳng định chỗ đứng vững chắc.

Tác giả dành dung lượng sách nói về vai trò, vị trí của nhà văn, với thiên chức của người cầm bút. Xem xét vị trí của nhà văn trong xã hội, GS Nguyễn Văn Trung nhận định người viết phải hòa mình vào thực tế đời sống của xã hội. Nhưng nếu tìm hiểu trong dặm dài sự phát triển của văn chương, không phải lúc nào nhà văn cũng “nhập thế”.

Từng có thời, nhà văn, cũng là ẩn sĩ, lập am, lập thất, lên núi cao, về thôn quê để sống ẩn dật, lánh đời trần tục như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm… Nhưng viễn cảnh đó không còn trong xã hội thực tại đối với người làm thiên chức văn học.

Nếu trong nhiều tác phẩm văn học sử trước kia như Việt Nam văn học sử yếu (Dương Quảng Hàm), Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam (Trương Tửu), Lịch sử văn chương Việt Nam (Hồ Hữu Tường)… bàn chuyện thuần về văn học, thì ở tác phẩm này, tác giả mở rộng địa hạt tìm hiểu hơn rất nhiều.

Chẳng hạn ở tập 3 có cả một chuyên luận về ngôn ngữ văn chương qua văn vần, văn xuôi, qua những biến đổi của thơ, tiểu thuyết. Xem ngôn ngữ văn chương là “tiếng nói trong im lặng” được thực hiện qua ngòi bút, nhưng vai trò, giá trị biểu đạt của nó thì vô biên.

Không dừng lại ở đó, tác giả mở rộng đường biên khi tìm hiểu cả ngôn ngữ kịch bởi lý do kịch là “bộ môn văn chương hay là bộ môn nghệ thuật tạo hình”. Ở đó là những phân định chuyên sâu về nhạc kịch, tuồng chèo… cùng những phạm trù liên quan được truyền tải ở chất bi, chất hài, chất phê phán…

Góc nhìn độc đáo về những nghi án văn chương

Tập 3 của sách được bao hàm với chủ đề khô khan “Nghiên cứu và phê bình văn học”, nhưng lại vô cùng hấp dẫn khi gạn lọc “những nghi án văn chương chưa được giải quyết”.

Một phần lớn nội dung của tập này đã được tác giả thực hiện làm bài giảng cho sinh viên Văn khoa niên khóa 1966-1967 với tên gọi Ngôn ngữ văn chương và phê bình văn học.

Tim hieu thu vi ve nhung nghi an van chuong qua 'Luoc khao van hoc' anh 3

Lược khảo văn học tập 3 của GS Nguyễn Văn Trung. Ảnh: Trần Đình Ba.

Với những nghi án văn chương Việt Nam, nguyên nhân được tác giả phân tích thể hiện ở việc thiếu sử liệu về tác giả, tác phẩm. Có trường hợp chắc chắn về tác giả nhưng lại không thể xác định được tác phẩm nguyên bản. Chẳng hạn như Lục Vân Tiên.

Chỉ riêng bản Lục Vân Tiên của Abel des Michels in tại Paris năm 1883 và bản của Trương Vĩnh Ký in tại Sài Gòn cùng năm đó đã sai khác nhau đến mấy trăm chữ.

Bản Trương Vĩnh Ký có 2.076 câu, bản Abel des Michels lại có 2.088 câu.

Trường hợp Truyện Kiều được xem là tuyệt tác, là niềm tự hào dân tộc thì thống kê đến năm 1960 có ít nhất 7 bản Nôm, 21 bản quốc ngữ nhưng… không biết bản nào là gốc, là chuẩn vì đã bị “sửa sang” qua thời gian.

Bên cạnh nghi án văn chương khuyết bản đầu tiên của tác phẩm, còn có trường hợp có tác phẩm, nhưng khuyết tác giả (vô danh, khuyết danh). Biểu hiện rõ nhất là những tác phẩm văn chương nổi tiếng thời trung đại như Phan Trần, Nhị độ mai, Thạch Sanh… dẫu hay, những bị xếp vào loại khuyết danh.

Lại có trường hợp tác phẩm như Chinh phụ ngâm dẫu có tác giả gốc bản chữ Hán là Đặng Trần Côn, nhưng việc xác định tác giả dịch ra chữ Nôm gặp nhiều tranh luận.

Tim hieu thu vi ve nhung nghi an van chuong qua 'Luoc khao van hoc' anh 4

Tác phẩm Cuộc phỏng vấn các nhà văn do NXB Đời Mới in năm 1945. Ảnh: Trần Đình Ba chụp màn hình.

Có ý kiến cho rằng bản dịch của Đoàn Thị Điểm, ý kiến khác lại cho là Phan Huy Ích… Cuộc tranh luận thu hút đủ mặt những nhà nghiên cứu nổi tiếng như Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm, La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn… nhưng không dễ có kết luận chắc chắn.

Ngoài việc bàn luận những nghi án văn chương trung đại, tác giả cũng hướng tới buổi giao thời đầu thế kỷ 20 với trường hợp Nam Phong Đông Dương tạp chí. Trong đó tập trung vào trường hợp Nam Phong.

Với những chứng lý thuyết phục trên cơ sở khoa học từ nội dung, ban biên tập, kinh phí hoạt động, Nam Phong được nhận định là một tờ báo không chỉ đơn thuần mang tính văn chương, mà nó được lập ra và hoạt động, là một phương tiện ngôn luận từ động cơ chính trị của thực dân đối với văn hóa nước Việt.

Rời khỏi chủ đề nghi án văn chương, tác giả đưa chúng ta đến với những chủ đề tưởng khô khan nhưng lại có nội hàm hấp dẫn không kém.

Nhìn vào chủ đề “phê bình văn học”, ta được biết hoạt động này được khởi đầu từ lớp trí thức Tây hóa đầu tiên. Nhưng để phê bình trở nên thực chất và chỉn chu, phải đến những năm 1938-1939 mới có.

Trong nhận diện của tác giả, mỗi một nhà phê bình lại có một dấu ấn, nhân diện phê bình khác nhau. Nếu Đào Duy Anh phê bình theo quan niệm ấn tượng, chủ trương “thái độ thưởng ngoạn” thì Thiếu Sơn xem phê bình là “đọc giùm cho người khác”; Hoài Thanh lại được biết là người chủ trương phê bình mang tính vị nghệ thuật qua Thi nhân Việt Nam…

Lối phê bình văn học khách quan ghi nhận trường hợp Trần Thanh Mại với biên khảo Trông dòng sông Vị viết về Trần Tế Xương và cuốn Hàn Mặc Tử (viết Mặc chứ không phải Mạc). Trong khi ấy Lê Thanh với tác phẩm Cuộc phỏng vấn các nhà văn năm 1945 lại được xem là “người đầu tiên dùng lối phỏng vấn để giúp người tìm hiểu nhà văn một cách vừa sâu xa, vừa linh động, vừa xác thực”…

Giải thưởng Sách Quốc gia do Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Xuất bản Việt Nam phối hợp tổ chức. Giải thưởng tôn vinh 27 sách, bộ sách giá trị được xuất bản trong năm qua. Đơn vị đồng hành: Tập đoàn Sungroup, Công ty Phú Long và HDBank.

Nguồn: https://zingnews.vn/nhung-nghi-an-van-chuong-qua-luoc-khao-van-hoc-post1133824.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Nghệ thuật tranh kiếng trong ‘Nhà gia tiên’

Được phát hành

,

Bởi

Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, nghệ thuật tranh kiếng gắn liền với văn hóa thờ tự và nhiều khía cạnh khác trong đời sống và sinh hoạt của nhiều gia đình Nam bộ.

Phim điện ảnh Nhà gia tiên do Huỳnh Lập đạo diễn gần cán mốc 200 tỷ, gây sốt phòng vé thời gian qua tuy nội dung còn gây tranh cãi song được đánh giá cao ở phần tái dựng bối cảnh. Trong đó, chi tiết nhân vật chính Mỹ Tiên (Phương Mỹ Chi) được ông mình, một người coi sóc đền miếu (nghệ sĩ Trung Dân đóng) kể về nghệ thuật làm tranh kiếng để lại ấn tượng.

Để tái hiện nghệ thuật dân gian này trên màn ảnh rộng, đoàn phim đã mời một nghệ nhân từ Long An thực hiện các tác phẩm tranh kiếng, cũng như đến làng nghề Bà Vệ (An Giang) tìm kiếm, phục chế những bức tranh cũ mục nát, bị vứt bỏ.

Chia sẻ với Tri Thức – Znews, Thạc sĩ Văn hóa học, nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tác giả cuốn sách Tranh dân gian Nam Bộ cho rằng việc tranh kiếng xuất hiện trong phim là một yếu tố không quá bất ngờ. “Bộ phim kể về câu chuyện diễn ra trong một không gian truyền thống với những nội dung phong hóa xưa… mà tranh kiếng là loại công nghệ phẩm ‘trang trí’ không chỉ ở những không gian thờ tự mà cả các không gian sinh hoạt trong nhiều gia đình Nam Bộ”, bà nói.

Sự ra đời và phát triển của tranh kiếng Nam Bộ

Theo nhà nghiên cứu, tranh kiếng có mặt ở cung đình Huế từ thời Minh Mạng – Thiệu Trị, song đó là các sản phẩm mỹ nghệ nhập khẩu. Mãi đầu thế kỷ XX, các di dân Quảng Đông đến lập nghiệp ở vùng Chợ Lớn, mới bắt đầu mở các tiệm kiếng, buôn bán các loại kiếng tráng thủy để soi mặt, lộng khuôn hình, tủ, khung cửa chớp, cửa gió… và các loại tranh kiếng: các bức đại tự và các bức thư họa dùng trong việc khánh chúc tân gia, khai trương, mừng thọ… Tranh kiếng Nam bộ ra đời từ đây.

Đến những năm 1920, nghề vẽ tranh kiếng chuyển địa bàn về Lái Thiêu (Thủ Dầu Một). Sau đó, khoảng những năm 1940-1950, nghề làm tranh kiếng lan tỏa khắp lục tỉnh Nam Kỳ, trụ lại ở Mỹ Tho, Cai Lậy, Gò Công (Tiền Giang ngày nay), Chợ Mới (An Giang), Chợ Trạm (Long An), Tây Ninh… và thâm nhập vào cộng đồng Khmer tạo nên dòng tranh kiếng Khmer Nam bộ ở Trà Vinh và Sóc Trăng…

Tranh kiếng Nam bộ chiếm tỷ lệ lớn là tranh thờ: Trước nhất là tranh thờ Tổ tiên với loại tranh Đại tự, Cửu huyền thất tổ, Sơn thủy (biểu đạt ý nghĩa hiếu đạo của câu ca dao nổi tiếng: Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra), Lão mai (nhằm biểu ý “Cây có cội”), Tre tàn măng mọc (động viên nỗ lực vươn lên của thế hệ hậu bối). Đặc biệt là tranh chân dung của tổ tiên quá vãng.

Thứ hai là tranh thờ các đối tượng thuộc tín ngưỡng dân gian như tranh Ông Địa, Ông Táo, các thần độ mạng… Thứ ba là tranh thờ của các tôn giáo: tranh thờ của Phật giáo như Phật, Bồ Tát, Tổ sư…; tranh thờ của Đạo giáo như Lão Tử cưỡi trâu, Bát Tiên…, tranh thờ của tín đồ Công giáo; tranh “Thiên nhãn” của đạo Cao Đài… Riêng tranh thờ của cộng đồng Khmer Nam bộ cũng như của cộng đồng người Hoa tạo thành một dòng độc đáo có đặc trưng về đề tài cũng như kỹ pháp tạo hình.

Ngoài ra, tranh kiếng trang trí nội ngoại thất, tranh khánh chúc và đặc biệt là loại tranh trang trí xe bán mì, hủ tíu.

“Tranh kiếng là loại tranh vẽ ngược và tô vẽ ở phía sau mặt kiếng, nên tinh hoa nhất trong nghệ thuật này là tài năng vẽ tranh, vờn màu, sắp xếp bố cục chính phụ sao cho có được một bức tranh đúng với mục đích sử dụng của nó và đẹp mắt về mặt mỹ thuật”, tác giả Huỳnh Thanh Bình chia sẻ. Thách thức lớn nhất của người nghệ nhân tranh kiếng là phải tạo nên những mẫu tranh đáp ứng được đa dạng yêu cầu về đề tài, về chủng loại; và cần sở đắc một vốn liếng chữ Hán để thể hiện thành những câu đối, những đại tự, những tấm hoành, tấm biển tương thích cho từng nội dung tranh.

Ở Nam bộ, hầu như tranh kiếng có mặt ở mọi gia đình, thậm chí nơi đình, đền, chùa, miếu. Việc sử dụng tranh kiếng cho nhu cầu thờ tự, trang trí hoặc chúc tụng… đã trở thành tập quán. Chính vì vậy, tranh kiếng chiếm một vị trí quan trọng trong văn hóa vùng đất này.

Nghệ thuật gắn liền với văn hóa thờ tự

Thờ tự tổ tiên là tập tục quan trọng trong đời sống văn hóa của xứ ta. Nơi thờ tự tổ tiên theo truyền thống là không gian tâm linh chiếm vị trí trung tâm trong mỗi ngôi nhà. Theo đó, việc trang nghiêm nơi thờ tự tổ tiên luôn được coi trọng. Theo tác giả sách Tranh dân gian Nam Bộ, từ cuối thế kỷ 19 đến nay, theo sự phát triển của tranh kiếng, các bộ tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng ra đời và dần dần thay thế loại tranh thờ tổ tiên ở dạng bích họa hoặc tranh thờ cẩn ốc xà cừ hay các bức chạm gỗ sơn son thiếp vàng hay sơn then thiếp vàng.

“Từ bấy đến nay, tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng đã không ngừng canh cải, tạo tác nên nhiều loại khác nhau”, bà Huỳnh Thanh Bình cho hay. Có loại chỉ là những bức đại tự, có loại chỉ là “bài vị” với dòng chữ Cửu Huyền thất tổ, đặc biệt là những bộ tranh vẽ cảnh sơn thủy hoặc có loại phát triển từ bộ tranh Tứ thời Mai-Lan-Cúc-Trúc

nha gia tien anh 4

Nhà nghiên cứu, tác giả Huỳnh Thanh Bình với tác phẩm Tranh dân gian Nam Bộ. Ảnh: Quỳnh My.

Cửu huyền thất tổ – bức tranh kiếng đầu tiên xuất hiện trong Nhà gia tiên – là một kiểu loại của bộ tranh thờ tổ tiên thuộc loại tranh đại tự, với dòng chữ “Cửu Huyền thất tổ”. Loại tranh này phổ biến ở miền Tây Nam Bộ, đặc biệt là các cộng đồng theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo và cả cộng đồng tín đồ đạo Cao Đài Tây Ninh.

Ở loại tranh này thì mỗi bộ gồm năm tấm ghép lại: Tấm biển nằm trên cùng, ghi tên tộc họ: “Nguyễn phủ đường”, “Lê phủ đường”…, hay “Đức lưu phương” hoặc “Phước Lộc Thọ”. Bức chính nằm giữa tranh, ghi bốn chữ Cửu huyền thất tổ và được trang trí bằng đồ hình tứ linh.

Bao quanh tấm tranh chính là bốn tấm tranh khác: bức thượng thổ ở phía trên (vẽ hình cuốn thư, hay năm sản xuất); bức hạ thổ ghép dưới đáy (thường trang trí hoa-điểu hay mâm ngũ quả) và đôi liễn, đặt dọc hai bên tấm chính, nội dung tôn vinh công đức của cha mẹ, tổ tiên.

Ngoài ra còn có bộ tranh thờ tổ tiên ba bức hay giản tiện hơn, loại tranh kiếng thờ tổ tiên này được thu gọn thành một bức duy nhất, đơn giản với chữ “Cửu Huyền Thất Tổ” ở chính giữa; hai bên là hai câu đối:

“Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,

Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu”.

Hay “Kính cửu huyền thiên niên bất tận

Trọng thất tổ nội ngoại tương đồng”.

Loại tranh thờ Cửu huyền thất tổ còn thấy trong bộ ba bức chín tròng với bức chính ở giữa từng chữ Cửu huyền thất tổ được thể hiện trong những ô tròn ở cả dạng thức Hán tự lẫn quốc ngữ trên nền sơn thủy hay dọc theo cội lão mai…

Ngày nay, tranh kiếng bị các loại tranh công nghiệp cạnh tranh. Song theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tranh kiếng vẽ thủ công vẫn được công chúng hâm mộ. Đây đó, nghề vẽ tranh kiếng vẫn còn tồn tại; thậm chí có nơi phát triển có quy mô hơn trước, và tiếp thu các kỹ thuật in lụa, in 3D…

Tác giả Huỳnh Thanh Bình sinh năm 1985, hiện công tác tại Bảo tàng TP.HCM. Bà từng xuất bản một số tác phẩm như Tranh kiếng Nam Bộ (2013); Biểu tượng thần thoại về chư thiên và linh vật Phật giáo (2018, Tái bản 2024); Tranh tường Khmer Nam Bộ (2020); Quy pháp đồ tượng Hindu và Phật giáo Ấn Độ (2021); Tranh dân gian Nam Bộ (2024).

Nguồn: https://znews.vn/nghe-thuat-tranh-kieng-trong-nha-gia-tien-post1535551.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzeimer

Được phát hành

,

Bởi

“Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzheimer” của Tiến sĩ Y khoa Richard Restak là một tác phẩm toàn diện, khám phá cách trí nhớ hoạt động và cách tối ưu hóa khả năng ghi nhớ.

Phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ.

Những lo lắng về trí nhớ phổ biến đến mức nào?

Có nhiều lý do để quan tâm đến trí nhớ của bạn. Hãy xem xét những điều này: phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ. Nói ngắn gọn, trí nhớ chính là chìa khóa cho việc tăng cường trí não.

Ở Mỹ ngày nay, tất cả những người trên 50 tuổi đều đang sống trong nỗi sợ hãi mang tên Big A – bệnh Alzheimer. Các cuộc gặp gỡ nho nhỏ (bữa tối, tiệc cocktail, v.v.) mang bầu không khí như một phân đoạn từ chương trình đố vui hằng tuần “Chờ đã… Đừng nói là” của đài NPR. Đó là chương trình mà các khách mời sẽ ganh đua với nhau trong những cuộc thi căng thẳng để trở thành người đầu tiên nghĩ ra tên của những thứ như diễn viên đóng một vai nào đó trong loạt phim truyền hình ngắn mới nhất mà mọi người đang say mê theo dõi.

Gần như chắc chắn là ai đó sẽ lấy điện thoại di động ra để kiểm tra độ chính xác của người trả lời đầu tiên. Nhanh, nhanh hơn nữa, nhanh nhất kẻo người khác nghi ngờ bạn đang có những triệu chứng ban đầu của Big A.

Tri nho anh 1

Trí nhớ là một phần vô cùng quan trọng của con người. Ảnh: Nativespeaker.

Mặc dù bệnh Alzheimer không phổ biến như nhiều người vẫn lo sợ, nhưng người ta đang ngày càng bày tỏ lo lắng về chứng mất trí nhớ mà họ cảm nhận được với bạn bè của mình. Chúng cũng là những lời than thở phổ biến nhất mà những người trên 55 tuổi chia sẻ với bác sĩ của họ.

Những lo lắng về trí nhớ như vậy thường phi lý và khơi dậy sự lo lắng không cần thiết. Sự lo lắng phổ biến này đã góp phần tạo ra một mối quan ngại rộng rãi về trí nhớ và các dấu hiệu suy giảm trí nhớ. Một trong những lý do của sự hoảng loạn này là sự nhầm lẫn trong tư duy của nhiều người về cách chúng ta hình thành ký ức.

Hãy cố gắng nhớ lại một chuyện gì đó đã xảy ra với bạn vào đầu ngày hôm nay. Nó không nhất thiết phải là một chuyện đặc biệt – bất kỳ sự kiện thông thường nào cũng được. Giờ hãy xem ký ức đó đã hình thành như thế nào.

Theo yêu cầu của tôi, bạn đã truy xuất ký ức về một chuyện gì đó mà có lẽ bạn sẽ không nghĩ tới nếu tôi không thúc giục bạn nhớ lại nó và bạn không nỗ lực để truy xuất nó.

Về bản chất, trí nhớ là trải nghiệm lại một chuyện gì đó trong quá khứ dưới dạng một hồi ức. Về mặt hoạt động, ký ức là sản phẩm cuối cùng của những nỗ lực của chúng ta trong hiện tại nhằm truy xuất những thông tin được lưu trữ trong não mình.

Ký ức – tương tự những giấc mơ và hành động tưởng tượng – khác nhau tùy theo mỗi người. Ký ức của tôi khác biệt rõ rệt với ký ức của bạn vì chúng dựa trên trải nghiệm sống cá nhân của chúng ta.

Ký ức cũng khác với hình ảnh hoặc video về các sự kiện trong quá khứ. Mặc dù các phiên bản dựa trên công nghệ này của quá khứ có thể đóng vai trò là công cụ kích thích trí nhớ, nhưng bản thân chúng không phải là ký ức.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-ban-nen-quan-tam-den-tri-nho-cua-minh-post1535566.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Vương miện xanh

Được phát hành

,

Bởi

Tập sách là hành trình từ hậu trường sân khấu các cuộc thi người đẹp, nơi người thắng cuộc được yêu quý nhưng cũng hứng chịu các phán xét khắt khe của công chúng, đến các dự án xanh của Hoa hậu Môi trường Thế giới Nguyễn Thanh Hà.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất.

Năm 2022, tôi bước lên bục cao sân khấu Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh đăng quang Hoa hậu Môi trường Việt Nam.

Năm 2023, tôi tiếp tục trở thành người Việt Nam đầu tiên chinh phục vương miện Miss Eco International 2023 (Hoa hậu Môi trường Thế giới) tại Cairo, Ai Cập giữa những phấn khích và xúc động.

Chiếc vương miện đã thay đổi tôi. Từ một cô bé vô tư trong chiếc “tổ kén” gia đình nuôi dưỡng gần 20 năm qua, nay tôi bước ra thế giới rộng lớn và choáng ngợp với những điều không thể ngờ đến. Thế giới đã “dạy” tôi lớn lên, trước những vô lo, niềm vui, nỗi buồn, cảm xúc của tuổi vừa rời ghế nhà trường.

Nhiệm kỳ hoa hậu của tôi đã kết thúc, nhưng tôi vẫn tiếp tục sứ mệnh trên con đường đã chọn, đó là tình yêu, là trái tim, là thanh xuân, là giá trị sống.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất. Thế giới đó, có gì ở lại cùng tôi? Có gì đã khiến tôi dũng cảm đi tiếp trong khoảng thời gian đầy khó khăn đó?

Hoa hau anh 1

Hoa hậu môi trường thế giới 2023 Nguyễn Thanh Hà. Ảnh: Vietnam.vn.

Một mình trên sân khấu

Ngay khi vừa đạt cột mốc “đủ tuổi”, tôi lập tức đăng ký cuộc thi Hoa hậu Môi trường Việt Nam. Lúc ấy, tôi chỉ nghĩ rằng, phải thực hiện ước mơ của mình ngay khi có cơ hội. Ước mơ làm hoa hậu? Không hẳn! Đó là ước mơ được làm gì đó, thật cụ thể, thật thiết thực cho môi trường sống này, cho hành tinh này.

Nếu trở thành hoa hậu, tôi sẽ có ưu thế hơn, có thể xuất hiện trước nhiều người để bày tỏ những vấn đề về môi trường, đánh động sự quan tâm của nhiều người hơn. Nghĩ là làm, thật may mắn, tôi đã thành công và đăng quang khi lần đầu thử sức ở một đấu trường sắc đẹp mà mục tiêu không phải để trở thành người đẹp được ca ngợi hay được công nhận về nhan sắc. Tôi chỉ muốn nhắm tới sứ mệnh vì môi trường như chính danh hiệu mà cuộc thi đã trao.

Tôi bỗng nhớ đến câu nói trong Nhà Giả Kim: “Khi bạn thực sự mong muốn một điều gì, cả vũ trụ sẽ hợp lại giúp bạn đạt được nó”. Phải chăng, tôi thành công vì tôi khao khát điều đó mãnh liệt?

Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã nhiều lần tự đặt câu hỏi cho bản thân: Là một người trẻ lớn lên trong điều kiện sống đầy đủ, được ăn ngon mặc đẹp và có nhiều cơ hội học tập hơn thế hệ ông bà, ba mẹ ngày xưa, liệu tôi có thể làm ngơ trước những mối đe dọa đang rình rập môi trường sống của chúng ta như rác thải, ô nhiễm, hạn mặn, lũ lụt, phá rừng hay hiệu ứng nhà kính không? Chính vì vậy, tôi đã quyết định tham gia cuộc thi Hoa hậu Môi trường. Hai chữ “môi trường” trong danh hiệu chính là nguồn sức mạnh và động lực để tôi hành động.

Ban đầu, tôi cũng mang trong mình rất nhiều lo ngại: Liệu mình có đủ khả năng không? Liệu có thể vượt qua những thí sinh tài năng khác? Tuy nhiên, tôi nhận ra, niềm khao khát mạnh mẽ muốn thử thách bản thân và tìm kiếm những cơ hội mới để trưởng thành còn lớn hơn. Điều thôi thúc tôi tham gia không chỉ là mong muốn thể hiện bản thân, mà còn ở khát khao được lan tỏa những giá trị tích cực về bảo vệ môi trường đến cộng đồng.

Nguồn: https://znews.vn/chiec-vuong-mien-thay-doi-cuoc-doi-hoa-hau-moi-truong-the-gioi-post1535563.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng