Connect with us

Sách hay

Những lần Nobel Văn học gây tranh cãi

Được phát hành

,

Bốn năm sau khi nhận giải Nobel Văn học 1974, Harry Martinson tự tử để bảo vệ danh dự.

Nobel Văn học công bố vào ngày 8/10, được giới chuyên môn dự đoán có kết quả an toàn sau những bê bối gần đây. Trải qua hơn 100 năm, giải thưởng nhiều lần gây tranh cãi vì các nguyên nhân khác nhau.

Nhiều nhà văn bị phản đối vì quan điểm chính trị của họ. Gần nhất, chủ nhân giải thưởng năm ngoái – ông Peter Handke – bị tẩy chay vì từng công khai bảo vệ nhà chính trị quá cố – Slobodan Milosevic. Cựu Tổng thống Nam Tư Slobodan bị cáo buộc 66 tội danh liên quan đến diệt chủng, tội ác chống loài người và tội phạm chiến tranh trong các cuộc xung đột đẫm máu ở Bosnia, Croatia và Kosovo những năm 1990. Tổ chức nhân quyền PEN America nói họ “chết lặng” khi nghe tin Peter Handke được vinh danh, “thất vọng với quyết định của Ủy ban Nobel về giải thưởng này”.

Nhà văn Peter Handke. Ảnh: AFP.

Nhà văn Peter Handke. Ảnh: AFP.

Giải Nobel năm 2012 giành cho Mạc Ngôn bị Hertha Muller – người đoạt giải năm 2009 – gọi là “thảm họa”, thậm chí khiến bà bật khóc. Trên tờ agens Nyheter của Thụy Điển, Muller nói một tác giả luôn “dùng văn chương để phục vụ mục đích chính trị như Mạc Ngôn” không xứng đáng với giải thưởng cao quý.

Các tác phẩm của Mạc Ngôn thường chứa đựng những bình luận xã hội, phản biện các chính sách khắc nghiệt, được cho là chịu ảnh hưởng mạnh mẽ quan điểm chính trị của Lỗ Tấn và chủ nghĩa hiện thực huyền ảo của Gabriel Garcia Marquez. Những câu chuyện thường có bối cảnh gần quê hương ông, thành phố Cao Mật, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Một vài cuốn sách của Mạc Ngôn từng bị cấm tại quê nhà vì yếu tố “khêu gợi và thô tục”.

Tiểu thuyết Ếch của Mạc Ngôn phê bình trực tiếp hơn chính sách gia đình một con nhằm kiểm soát gia tăng dân số nhưng cũng mang đến không ít bị kịch cho người dân Trung Quốc hơn 30 năm trước. Ảnh: AFP.

Tiểu thuyết “Ếch” của Mạc Ngôn phê bình trực tiếp hơn chính sách “gia đình một con” nhằm kiểm soát gia tăng dân số nhưng cũng mang đến không ít bị kịch cho người dân Trung Quốc hơn 30 năm trước. Ảnh: AFP.

Nhiều cây bút khác không được ủng hộ vì tên tuổi chưa đủ sức nặng. Khi tác giả người Đức – Herta Mueller – giành giải năm 2009, nhiều nhà nghiên cứu bày tỏ thất vọng vì họ chưa từng nghe thấy tên bà. Cây bút Thom Geier viết trên tờ EW: “Một lần nữa, Viện Hàn lâm Thụy Điển chọn một người vô danh thắng Nobel Văn học. Herta là ai? Bạn sẽ hỏi như vậy và bạn không phải là người duy nhất thắc mắc về điều đó. Mueller ở đưới đáy của danh sách cá cược mà nhà cái Ladbrokes đưa ra. Chỉ vài cuốn của bà từng được dịch sang tiếng Anh…”.

Năm 2004, chiến thắng của nữ nhà văn Áo Elfriede Jelinek không thuyết phục bởi tên tuổi bà không vượt ra phạm vi cộng đồng nói tiếng Đức. Knut Ahnlund – một trong 18 thành viên bình chọn giải – đã rời Hội đồng để bày tỏ thái độ phản đối.

Sự kiện đau lòng nhất liên quan đến Nobel Văn học bắt nguồn từ giải thưởng năm 1974. Hai người đồng chiến thắng năm đó – Harry Martinson và Eyvind Johnson – nằm trong hội đồng 18 thành viên bình chọn giải. Độc giả, giới văn sĩ sau đó phản đối vì tác phẩm của hai ông không được phổ biến bằng cả tiếng Anh và tiếng Thụy Điển. Báo chí, các nhà văn Thụy Điển cho rằng Viện Hàn lâm đã thiên vị hai tác giả. Theo danh sách được tiết lộ hàng chục năm sau đó, Graham Greene, Saul Bellow, Vladimir Nabokov là những tên tuổi nổi tiếng hơn cùng được đề cử năm đó.

Năm 1978, Harry Martinson tự tử bằng cách mổ bụng giống các samurai Nhật. Bạn thân của ông – Lars Gyllensten, người từng giữ chức Thư ký Viện Hàn lâm – nói sự ích kỷ của giới văn sĩ Stockholm đã dẫn đến cái chết của Martinson. Tờ Independent nói Harry Martinson chết để giữ gìn danh dự.

Bob Dylan vắng mặt ở lễ trao giải Nobel Văn học năm 2016, ông gửi bài diễn từ đến ban tổ chức. Ảnh: AFP.

Bob Dylan vắng mặt ở lễ trao giải Nobel Văn học năm 2016, ông gửi bài diễn từ đến ban tổ chức. Ảnh: AFP.

Viện Hàn lâm từng chọn một số nhân vật hoạt động trong các lĩnh vực khác, khiến nhiều người trong giới văn chương không hài lòng. Năm 2016, họ vinh danh ca sĩ, nhạc sĩ Bob Dylan, khiến nhiều nhà văn, nhà thơ bất mãn. Tiểu thuyết gia Jodi Picoult nói: “Tôi mừng cho Bob Dylan, nhưng điều này đồng nghĩa tôi cũng có thể thắng giải Grammy?”.

Những nhân vật “ngoại đạo” khác cũng từng thắng Nobel Văn học là Winston Churchill và Bertrand Russell. Nhà văn A.N. Wilson thể hiện quan điểm trên Telegraph: “Họ đáng trọng ở một lĩnh vực nào đó nhưng khó lòng xứng đáng với một giải thưởng văn chương, bất luận là để cho ban giám khảo nào đánh giá”. Cố thủ tướng Anh Winston Churchill có hai cuốn hồi ký liên quan đến chiến tranh thế giới, từng đoạt Nobel Văn học năm 1953. Nhiều chuyên gia nhận định ông phù hợp thắng Nobel Hòa bình. Học giả Anh – Bertrand Russell – có nhiều tác phẩm liên quan triết, logic học, toán học nhưng giành giải Nobel Văn học năm 1950.

Nobel Văn học là một trong sáu hạng mục của giải Nobel, được trao hàng năm cho tác giả từ bất kỳ quốc gia nào, theo di chúc của nhà hóa học Alfred Nobel. Viện Hàn lâm Thụy Điển sẽ lựa chọn người thắng cuộc. Họ không bao giờ hé lộ dấu hiệu về nhân vật có khả năng đoạt giải cho tới khi công bố kết quả. Danh sách rút gọn của các ứng viên sẽ được tiết lộ 50 năm sau đó. Giải lần đầu được trao cho nhà thơ Pháp – Sully Prudhomme – năm 1901.

Hà Thu

Nguồn: https://vnexpress.net/nhung-lan-nobel-van-hoc-gay-tranh-cai-4172942.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tiểu sử Steve Jobs

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn tiểu sử do cựu thư ký tòa soạn của tạp chí Time, Walter Isaacson biên soạn, dựa trên 40 cuộc phỏng vấn với Steve Jobs trong 2 năm, cùng các cuộc phỏng vấn với hơn 100 người thân, bạn bè, đồng nghiệp và đối thủ của ông. Tác phẩm cung cấp cho người đọc một cái nhìn sâu sắc về nhân cách và cả những thành tựu của cuộc đời Steve Jobs. Cuốn sách cũng chứa đựng những điều Steve Jobs muốn nói với thế giới.

Raskin hình dung chiếc máy tính đó sẽ được bán với giá 1.000 đôla và là một cỗ máy đơn giản với màn hình, bàn phím và phần cứng gói gọn trong một thiết bị.

Jef Raskin là kiểu người có thể làm mê hoặc cũng như khiến Jobs cảm thấy khó chịu. Đôi lúc, ông biểu hiện cả hai. Ông thuộc kiểu người triết lý, vừa ham chơi lại vừa cần cù, chăm chỉ. Raskin từng theo học khoa học máy tính, tham gia dạy nhạc và nghệ thuật thị giác. Ông cũng từng thành lập một công ty nghệ thuật biểu diễn nhạc thính phòng và tổ chức những buổi biểu diễn bí mật.

Luận văn Tiến sĩ bảo vệ năm 1967 tại trường U.C. San Diego của ông đã đưa ra luận điểm: Những chiếc máy tính nên có giao diện hiển thị cả đồ họa thay vì chỉ có ký tự văn bản thông thường. Khi đã thấy chán ngán với công việc giảng dạy, ông thuê một chiếc khinh khí cầu, bay trên nóc nhà Hiệu trưởng và hét thật to rằng ông đã quyết định nghỉ việc.

Khi Jobs cần tìm một người có khả năng viết một cuốn sách hướng dẫn cho Apple II năm 1976, ông đã gọi cho Raskin, lúc đó cũng đang sở hữu một công ty tư vấn nhỏ. Raskin tới gara, cảnh tượng đầu tiên ông bắt gặp là Wozniak đang cặm cụi làm việc ở góc bàn. Và Jobs đã thuyết phục Raskin viết cuốn sách hướng dẫn với giá 50 đô-la. Sau này, ông trở thành Quản lý Bộ phận Xuất bản của Apple.

Macbook anh 1

Chiếc macbook gắn liền với tên tuổi Steve Jobs và thương hiệu Apple. Ảnh: The Washington Post.

Một trong những ước mơ của Raskin là chế tạo ra một dòng máy tính giá rẻ phân phối tới đa số người dùng. Vì vậy, năm 1979, ông thuyết phục Mike Markkula cho ông chủ trì một dự án phát triển sản phẩm nhỏ mang tên “Annie” để thực hiện ước mơ này. Raskin cho rằng có đôi chút thành kiến phân biệt giới khi đặt tên cho những chiếc máy tính theo tên của phụ nữ, vậy nên ông đã đổi lại tên của dự án đó theo loại táo yêu thích của mình: McIntosh. Sau đó, để tránh gây hiểu nhầm với một hãng sản xuất thiết bị âm thanh có tên McIntosh Laboratory, ông đã thay đổi cách ghép âm thành Macintosh.

Raskin hình dung chiếc máy tính đó sẽ được bán với giá 1.000 đô-la và là một cỗ máy đơn giản với màn hình, bàn phím và phần cứng gói gọn trong một thiết bị. Để giảm giá thành sản phẩm, ông đề xuất chiếc máy sẽ có màn hình 5 inch nhỏ nhắn và một bộ vi xử lý giá rẻ (và lì máy) có tên là Motorola 6809. Raskin thích thú tự coi mình là một triết gia.

Ông đã viết ra những suy nghĩ của mình trong một cuốn sách được nhiều người biết đến mang tên The Book of Macintosh (Câu chuyện về Macintosh). Ngoài ra, thỉnh thoảng ông cũng đưa ra những “bản tuyên ngôn” về công nghệ. Một trong số đó là “Máy tính của hàng triệu người” và nó bắt đầu với một khát vọng: “Nếu những chiếc máy tính cá nhân thật sự là của cá nhân, thì khi chọn ngẫu nhiên một gia đình, sẽ không thể có trường hợp một hộ chỉ sở hữu một chiếc máy.”

Trong suốt năm 1979 và đầu năm 1980, dự án Macintosh duy trì sự tồn tại hời hợt. Cứ khoảng vài tháng, nó lại đứng trước nguy cơ bị “xóa sổ”. Mỗi lần như vậy, Raskin lại phỉnh phờ thành công, Markkula lại mở lòng nhân từ. Nhóm phát triển Macintosh lúc đó chỉ có bốn kỹ sư, hoạt động tại trụ sở ban đầu của Apple cạnh nhà hàng Good Earth, cách trụ sở mới của công ty vài dãy nhà.

Không gian làm việc ở đây được trang trí với rất nhiều đồ chơi và các máy bay mô hình hoạt động bằng sóng radio (một niềm đam mê của Raskin) để mang lại cảm giác như một trung tâm chăm sóc hàng ngày cho những “con mọt công nghệ”. Thỉnh thoảng, công việc sẽ được tạm gác lại để nhường chỗ cho những trận chơi ném bóng. Andy Hertzfeld nhớ lại: “Trò chơi này làm cho mọi người cảm thấy rất hứng thú với những tấm bìa cứng sử dụng để che chắn khi chơi. Văn phòng lúc đó giống như một đống hỗn độn.”

Ngôi sao của nhóm là một kỹ sư trẻ có mái tóc vàng, mắt to tròn, hiền hậu với khả năng tập trung tâm lý cao độ, tên là Burrell Smith. Anh là một người tôn sùng công việc viết mã lệnh của Wozniak và luôn khao khát, cố gắng hết mình để có thể tạo ra những thành công sáng chói như vậy. Atkinson đã nhận ra tài năng của Smith khi làm tại bộ phận dịch vụ của Apple.

Ông thật sự kinh ngạc khi chứng kiến khả năng ứng biến với các bản vá lỗi của Smith và đã giới thiệu anh cho Raskin. Smith sau này đã không chống đỡ được chứng bệnh tâm thần phân liệt, nhưng vào đầu thập niên 1980, anh đã thành công khi có thể chuyển sự bất thường trong tâm lý của mình sang niềm hăng say làm việc suốt cả tuần của một tài năng trong ngành công nghệ.

Tầm nhìn của Raskin đã mê hoặc Jobs, chứ không phải bởi sự sẵn sàng thỏa hiệp để giảm thiểu chi phí của ông. Một ngày mùa thu năm 1979, Jobs nói rằng ông muốn Raskin tập trung vào chế tạo sản phẩm mà ông nhắc đi nhắc lại là “vô cùng tuyệt vời.” Jobs nói: “Đừng quá lo lắng về giá cả, hãy tập trung vào khả năng đáp ứng người sử dụng của máy tính.”

Raskin đáp lại lệnh của Jobs bằng một bản ghi nhớ có đôi chút châm biếm. Nó đưa ra tất cả những thứ mà bạn sẽ muốn ở một chiếc máy tính lý tưởng: Màn hình màu có độ phân giải cao, một chiếc máy in không có băng mực với tốc độ in màu một trang một giây, truy cập không giới hạn vào hệ thống mạng ARPA cùng khả năng nhận dạng giọng nói và tổng hợp nhạc, “thậm chí mô phỏng lại giọng hát của Caruso cùng đội hợp xướng thánh ca với âm vang ở mọi cung độ.”

Bảng ghi nhớ đó kết luận: “Việc bắt đầu với những đặc tính mà chúng ta mong muốn là điều ngu xuẩn. Chúng ta phải bắt đầu dựa trên cả việc định hướng giá cả lẫn tập hợp những chức năng mong muốn, dựa trên xu hướng công nghệ tại thời điểm triển khai và tương lai gần.” Nói cách khác, Raskin hầu như không có đủ sự kiên nhẫn đối với niềm tin của Jobs, rằng bạn có thể thay đổi hiện thực nếu bạn có đủ niềm đam mê để phát triển sản phẩm của mình.

Vì vậy, giữa họ đã xảy ra xung đột, đặc biệt sau khi Jobs bị tách ra khỏi dự án Lisa vào tháng 9 năm 1980 và bắt đầu tìm cách để chứng minh quan điểm của mình nhằm tạo ra sự khác biệt. Rõ ràng mục tiêu nhắm đến của ông không gì khác ngoài dự án Macintosh.

Những tuyên bố của Raskin về một chiếc máy tính giá rẻ phục vụ số đông với giao diện đồ họa đơn giản, thiết kế tinh gọn đã làm ông trăn trở rất nhiều. Và một điều hiển nhiên là, một khi Jobs đã hạ quyết tâm thực hiện dự án Macintosh thành công, tương lai của Raskin chỉ còn được tính bằng ngày. Joanna Hoffman, một thành viên của nhóm Mac, nhớ lại: “Steve bắt đầu hành động theo những gì mà ông nghĩ chúng tôi cần phải làm, Jef cũng bắt đầu nghiền ngẫm và nhanh chóng tìm được lời giải cho vấn đề.”

Xung đột đầu tiên liên quan đến việc Raskin sùng bái bộ vi xử lý yếu kém Motorola 6809. Raskin muốn giữ giá của máy Mac dưới 1.000 đô-la trong khi quyết tâm của Jobs là chế tạo ra một dòng máy thật sự tuyệt vời, tuyệt vời đến kinh ngạc. Vì vậy, Jobs bắt đầu tập trung toàn lực chuyển đổi máy Mac sang dùng bộ vi xử lý cấu hình mạnh hơn với tên gọi Motorola 68000, cái mà dòng Lisa đang sử dụng. Ngay trước lễ Giáng sinh năm 1980, ông đã yêu cầu Burrell Smith thiết kế một bản mẫu sử dụng dòng chip mạnh hơn mà không nói với Raskin.

Giống như “người anh hùng” Wozniak từng làm, Smith làm việc thâu đêm suốt sáng, liên tục trong ba tuần liền và đã tìm ra những bước nhảy ngoạn mục trong lập trình. Khi Smith thành công, Jobs có cớ gây sức ép chuyển sang sử dụng bộ vi xử lý Motorola 68000, khiến Raskin phải cân nhắc và tính toán lại chi phí của Mac.

Nguồn: https://znews.vn/macbook-ra-doi-the-nao-post1533731.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Dám làm

Được phát hành

,

Bởi

“Dám làm: Những bài học về lãnh đạo của tôi tại GE” ghi lại những kinh nghiệm và bài học của Jeff Immelt, cựu CEO của General Electric (GE), từ thời gian lãnh đạo tập đoàn này.

Tôi là một gã chăm “cày cuốc” đích thực, một tín đồ chân chính, đã có hình xăm “thịt viên” của GE (cách người trong nhà gọi logo của công ty) bên eo trái để làm bằng chứng.

Năm 2001, tôi trở thành CEO của một công ty, nơi nhận thức không tương đương với hiện thực. Công ty tôi kế thừa từ Jack Welch có một văn hóa hùng mạnh và những con người tuyệt vời. Nhưng chúng tôi đã cạn kiệt ý tưởng. Một năm trước, khi đang điều hành GE Healthcare, tôi đã cố mua một công ty siêu âm tên Acuson, nhưng Jack gạt đi vì nó nằm ở Mountain View, California và “dân ở đấy điên lắm”.

Tôi không đồng tình; địa điểm của nó sẽ cho chúng tôi một bàn đạp (như nó đã mang lại cho đối thủ Siemens của chúng tôi, tập đoàn về sau đã mua lại nó) tại Thung lũng Silicon, thiên đường của đổi mới. Trong khi một số người trong nội bộ GE tin rằng công ty chắc chắn sẽ ăn nên làm ra mãi mãi, song tôi lại lo lắng rằng chúng tôi đã trở nên quá trì trệ và thiếu óc tò mò.

Than chu anh 1

Hình ảnh Jeff Immelt gắn liền với thương hiệu GE. Ảnh: CNBC.

Trong ít nhất một thập kỷ, chúng tôi đã sử dụng gã khổng lồ dịch vụ tài chính GE Capital để thúc đẩy tăng trưởng và hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp của mình. Nhưng khi tôi tiếp quản chức vụ, rất hiếm nhà quan sát hiểu được rằng chúng tôi đã đầu tư ít ỏi đến mức nào vào các doanh nghiệp công nghiệp đó.

Chúng tôi là một tập đoàn đa ngành cồng kềnh, ôm đồm đủ mọi thứ từ động cơ phản lực đến mạng truyền hình hay hợp đồng bảo hiểm cho chó mèo. Tuy nhiên, chúng tôi được định giá như một công ty công nghệ, về cơ bản là được giao dịch ở mức cao hơn đáng kể so với giá trị của các doanh nghiệp mà chúng tôi có.

Vì vậy, khi lên làm CEO, tôi đã nỗ lực cải tổ công ty, tái đầu tư vào danh mục đầu tư công nghiệp, cải thiện công nghệ và mở rộng dấu ấn toàn cầu của chúng tôi. Và tôi đã làm điều đó mà không hở một lời tiêu cực nào về Jack Welch.

Đó là một lựa chọn đầy rủi ro. Rất khó thúc đẩy thay đổi trong khi đội ngũ của bạn cảm thấy mọi thứ đều đã hoàn hảo. Nhưng vào thời điểm đó, cách tiếp cận này có vẻ đúng đắn. Người tiền nhiệm của tôi được xem là CEO tốt nhất trong lịch sử. Hy vọng của tôi là bảo tồn di sản của ông bằng cách khắc phục những chỗ mà tôi thấy là đã hỏng hóc trước khi chúng kịp hủy hoại chúng tôi.

Nhưng quá thường xuyên trong nhiệm kỳ của tôi, mong muốn bảo vệ GE bằng cách phát triển nó phải bị đặt xuống hàng thứ yếu khi các cuộc khủng hoảng đe dọa thành công của công ty – và nhiều khi là chính sự tồn vong của nó.

Đối với tôi, GE là một câu chuyện không thể đậm tính cá nhân hơn. Tôi là con trai của người đã làm đại diện thu mua của GE suốt 38 năm. Trước khi trở thành CEO, tôi đã bước lên từng nấc thang trong công ty, học hỏi tại ba mảng của GE. Tôi là một gã chăm “cày cuốc” đích thực – một tín đồ chân chính, đã có hình xăm “thịt viên” của GE (cách người trong nhà gọi logo của công ty) bên eo trái để làm bằng chứng. (Tôi sẽ nói thêm về vụ đó sau).

Tôi là gã cuối tuần nào cũng làm việc, là gã không bao giờ tiêu một xu để trang trí văn phòng của riêng hắn, là gã mang tem mình tự mua đến công ty để dán lên thư cá nhân. Nếu tôi có một câu thần chú, thì đó sẽ là: Tôi không phải trung tâm, GE mới là trung tâm.

Nguồn: https://znews.vn/than-chu-cua-ceo-tap-doan-da-quoc-gia-post1533409.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Bộ não đau buồn

Được phát hành

,

Bởi

Sách mang đến một góc nhìn mới nhưng không kém phần hấp dẫn về ảnh hưởng của nỗi đau đối với bộ não và phương pháp bộ não mã hóa tình yêu của con người đối với người thân, giúp chúng ta hiểu rõ nguồn gốc của nỗi đau khi không còn người thân bên cạnh và giải pháp vượt qua các cảm xúc khủng hoảng đó.

Bạn đang sử dụng bản đồ não để đi tới đi lui trong không gian quen thuộc này, thân thể bạn sẽ đến nơi mà não bạn đã gửi nó đi.

Khi giải thích mặt sinh học thần kinh của nỗi đau buồn, tôi thường bắt đầu bằng một phép ẩn dụ dựa trên một trải nghiệm quen thuộc. Tuy nhiên, để phép ẩn dụ này dễ hiểu, bạn phải chấp nhận một giả thiết. Giả thiết ấy là có kẻ nào đó đã trộm mất chiếc bàn ăn nhà bạn.

Tưởng tượng là bạn trở mình dậy khát khô lúc nửa đêm. Bạn bước khỏi giường và đi tới phía bếp lấy một ly nước. Xuống hành lang, bạn băng qua phòng ăn tối đen về phía nhà bếp. Đúng lúc hông bạn đáng ra sắp va vào góc cứng bàn ăn, bạn cảm thấy… hừm, bạn cảm thấy gì? Không gì hết. Bạn đột nhiên nhận ra là bạn không cảm thấy có bất cứ điều gì ở chỗ cao ngang hông bạn.

Đó là điều bạn nhận ra được, bạn không cảm thấy có điều gì đó, điều gì đó cụ thể. Chuyện vắng mặt thứ gì đó là điều đã thu hút bạn chú ý. Điều này thật lạ kỳ, ta thường nghĩ phải là điều gì đó mới thu hút ta chú ý, làm sao không gì cả có thể thu hút ta chú ý?

Ban do anh 1

Não bộ có một cơ chế vận hành đặc biệt. Ảnh: Science Magazinee.

Vâng, thực tế là bạn không chỉ bước đi trong mỗi thế giới này. Hay chính xác hơn, hầu hết thời gian là bạn đang cùng bước đi trong hai thế giới. Trong đó một thế giới là bản đồ thực tế ảo được tạo nên hoàn toàn trong đầu bạn. Não bạn đang dịch chuyển con người bạn xuyên qua bản đồ ảo mà nó đã tạo ra, đó là lý do tại sao bạn có thể đi lại quanh nhà khá dễ dàng trong bóng đêm; bạn hiện không sử dụng thế giới bên ngoài để định hướng. Bạn đang sử dụng bản đồ não để đi tới đi lui trong không gian quen thuộc này, thân thể bạn sẽ đến nơi mà não bạn đã gửi nó đi.

Bạn có thể coi bản đồ não ảo về thế giới này như bản đồ Google trong đầu bạn. Bạn đã từng bao giờ trải nghiệm làm theo chỉ dẫn di chuyển bằng giọng nói mà hoàn toàn không chú ý nơi mình đang lái xe tới chưa? Có lúc giọng nói yêu cầu bạn rẽ vào một con đường, song bạn phát hiện ra đó thực ra là đường cho xe đạp.

GPS và thế giới thực không phải lúc nào cũng khớp nhau. Giống bản đồ của Google, bản đồ não dựa trên thông tin trước đó nó có về khu vực. Tuy nhiên, để giữ an toàn cho bạn, não có những khu vực chuyên dành phát hiện lỗi, nhận biết bất kỳ tình huống nào bản đồ não và thế giới thực không khớp nhau. Nó chuyển sang thông tin thị giác nhận vào mỗi khi một lỗi được phát hiện (và nếu trời tối, thì ta sẽ quyết định bật đèn).

Ta dựa vào bản đồ não vì việc dẫn dắt cơ thể theo bản đồ tâm trí sẽ bớt tốn công tính toán lại rất nhiều so với xuyên qua ngôi nhà quen thuộc như thể đó là trải nghiệm đầu tiên, như thể mỗi lần lại phải khám phá lại vị trí của ô cửa, bức tường và đồ nội thất, rồi quyết định làm sao định vị và đi qua từng thứ.

Không ai mong đợi bàn ăn nhà họ bị trộm mất. Và càng không ai mong đợi người thân yêu mất. Ngay cả khi một người bị bệnh trong một thời gian rất dài, cũng không ai biết được để bước tiếp trên thế giới này mà không có họ thì sẽ ra sao.

Là một nhà khoa học, đóng góp của tôi là nghiên cứu nỗi đau buồn từ góc độ của não, từ góc độ mà não đang cố giải quyết một vấn đề khi đối diện việc người quan trọng nhất cuộc đời ta không còn.

Nỗi đau buồn là một vấn đề đau lòng thắt ruột mà não phải giải quyết và việc đau buồn đòi hỏi bạn phải học cách sống trong một thế giới vắng mặt người bạn yêu thương đậm sâu, người đã khắc ghi vào hiểu biết trong bạn về thế giới. Điều này có nghĩa là đối với não, người thân yêu của bạn mất đi nhưng đồng thời cũng còn mãi, và bạn đang bước xuyên qua hai thế giới cùng một lúc. Bạn đang phải lèo lái cuộc sống của mình dù thực tế là nó đã bị cướp mất khỏi bạn, một giả thiết vô nghĩa, vừa khó hiểu vừa khó chịu.

Nguồn: https://znews.vn/vi-sao-ban-di-chuyen-duoc-trong-bong-dem-post1533397.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng