Connect with us

Sách hay

Nghịch lý kẻ chiến thắng – nước Mỹ hậu Chiến tranh lạnh

Được phát hành

,

Gần 3 thập kỷ sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, nước Mỹ từ vị trí siêu cường duy nhất còn lại giờ đây liên tiếp gặp phải những bất ổn nội tại.

Nước Mỹ hậu chiến tranh lạnh, như cách Andrew Bacevich viết trong “The Age of Illusion” (Tạm dịch: Kỷ nguyên của ảo tưởng), như một người trúng số độc đắc của chương trình Mega Millions: Tài lộc trên trời rơi xuống, ngoài sức tưởng tượng, và ẩn chứa tiềm năng thảm họa. Mọi việc cũng không quá tệ.

Tuy nhiên, gần 3 thập kỷ sau 1991, chiến thắng ngày đó lại được tiếp nối bằng những nỗi thất vọng.

Nghich ly ke chien thang -  nuoc My hau Chien tranh lanh hinh anh 1 sieu_cuong_my_1.jpg

Nước Mỹ lao vào những cuộc chiến không hồi kết, liên tiếp gặp phải những kết quả thất vọng với hệ giá trị mình theo đuổi ngày một suy yếu ngay trong đất nước. Ảnh: AP.

Kỷ nguyên Chiến tranh lạnh kết thúc với nước Mỹ thiết lập vị thế quốc gia hùng mạnh nhất lịch sử. Lực lượng vũ trang không đâu sánh bằng, triết lý quản trị của họ dường như không đối thủ.

Advertisement

Thế nhưng, siêu cường này lại gặp khó khăn trong nỗ lực đánh bại từ những nhóm vũ trang bộ lạc, những nhà lãnh đạo bị cô lập mà họ xem là độc tài, đến việc tìm ra cách đối phó với một nước Nga ngày càng quyết liệt hay sự trỗi dậy của Trung Quốc trên trường quốc tế.

Giữa lúc đại dịch bùng phát, những đồng minh có thể đã kỳ vọng Mỹ đứng ra điều phối nỗ lực ứng phó toàn cầu. Thay vào đó, mọi việc đã diễn ra theo chiều ngược lại.

Nước Mỹ bất ngờ tự rơi vào vòng xoáy chia rẽ và cay độc, tích tụ dần dưới nhiệm kỳ của Tổng thống Donald Trump – người đã đắc cử bằng cách bác bỏ nhiều giá trị từng đưa nước Mỹ đến với chiến thắng trong cuộc đối đầu giữa hai siêu cường.

Trong quyển sách Do Morals Matter? (Tạm dịch: Liệu đạo đức có quan trọng), Joseph Nye, cựu hiệu trưởng Trường Chính trị Kennedy của Havard, chia sẻ nhìn nhận các đời tổng thống Mỹ đã gặp khó khăn như thế nào trong việc trở thành hiện thân chuẩn mực cho đạo đức lãnh đạo.

Còn quyển The Abandonment of the West (Tạm dịch: Xa rời phương Tây), Michael Kimmage, nhà nghiên cứu cho Quỹ German Marshall, mỉa mai những mâu thuẫn trong ý tưởng “phương Tây” do Mỹ dẫn dắt.

Advertisement

Với The Age of Illusion, Andrew Bacevich, cựu giáo sư của Đại học Boston, đã mô tả cụ thể học thuyết hậu chiến tranh lạnh của sức mạnh Mỹ hình thành như thế nào và theo ông nó đã tàn lụi ra sao.

Dù chưa phải là lời giải cuối cùng, mỗi quyển sách vẫn cung cấp cho người đọc những những góc nhìn sâu sắc và trăn trở cho cho câu hỏi bằng cách nào thắng lợi đã trở nên chua chát.

Nghich ly ke chien thang -  nuoc My hau Chien tranh lanh hinh anh 2 Chien_tranh_lanh_1.jpg

Tổng thống Mỹ George H. W. Bush (trái) và Tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev gặp nhau ở Moscow năm 1991. Ảnh: Reuters.

Phương Tây lo âu

Trước khi xét đến ứng xử luân lý của mỗi tổng thống, tính từ thời Franklin D. Roosevlet, Joseph Nye bắt đầu những lập luận xoay quanh tựa đề tác phẩm của mình: Liệu đạo đức có quan trọng.

Mục tiêu mà ông hướng đến là những nhà hiện thực trong chính sách đối ngoại, vốn lập luận mọi quốc gia dù khoát lên mình tấm áo nào đều là những chủ thể phi luân lý và đặc lợi ích của chính mình lên trước.

Joseph Nye phản biện việc phần lớn lãnh đạo Mỹ tự cho rằng họ khác biệt với những nhà lãnh đạo châu Âu đa nghi và chủ trương cân bằng quyền lực. Nye dẫn lời của Theodore Roosevelt: “Sự hữu ích của chúng ta với nhân loại tùy thuộc vào việc chúng ta kết hợp quyền lực với mục đích cao cả”.

Advertisement

Phần còn lại trong câu nói nổi tiếng của tổng thống thứ 26 trong lịch sử Mỹ là: “Quyền lực không được chỉ đường bởi mục đích cao cả sẽ đồng nghĩa với tai họa, và bản thân mục đích cao cả cũng hoàn toàn vô dụng nếu thiếu quyền lực để thực hiện nó”.

Joseph Nye, nhà tư tưởng đã xây dựng học thuyết về quyền lực mềm trong thập kỷ 1980, cũng nhấn mạnh bản thân “mục đích cao cả” cũng là một thành tố quan trọng trong sức ảnh hưởng của Mỹ.

Trật tự quốc tế mà Mỹ đã xây dựng được dựa trên tính chính danh, và theo cách giải thích của Nye, tính chính danh này này dựa trên một loạt các giá trị.

Dĩ nhiên mọi tổng thống đều có những khuyết điểm riêng. Nye đã quan sát thế giới đủ lâu để không ảo tưởng về điều này. Tuy nhiên, ông nhận định chưa từng có tổng thống nào từ bỏ những ngôn từ vĩ mô hay các phân định đúng – sai trong chính sách đối ngoại như Tổng thống Donald Trump.

Cũng chưa từng có tổng thống nào nhiệt thành thể hiện tình cảm với những nhà chuyên quyền và lý tưởng sức mạnh là chân lý của trường phái Thomas Hobbes đến như vậy.

Advertisement

Chỉ có ông Trump và những quan chức bổ nhiệm mới tìm cách phá vỡ trật tự quốc tế mà chính những người tiền nhiệm đã xây dựng và duy trì, với ý nghĩ của Nhà Trắng rằng trật tự đó đã khiến nước Mỹ trở thành “Gulliver” bị trói buộc ở xứ sở tí hon (“Gulliverising” America).

Khác với cách Joseph Nye nhìn nhận về những nền tảng của lãnh đạo luân lý, Michael Kimmage lại cho rằng “phương Tây” không phải là một nơi chốn, mà là một loạt tư tưởng được diễn giải tại Mỹ từ cuối thế kỷ XIX khi nước này sắp tự nhận lãnh trách nhiệm của một cường quốc.

“Phương Tây” ở đây là chủ nghĩa tư bản, khoa học, Thời kỳ Khai sáng, là nền pháp quyền và nhân quyền. Tất cả được mang đến từ châu Âu bởi Christopher Columbus, một nhân vật đã được huyền thoại hóa, và đặt nền móng cho một liên minh xuyên Đại Tây Dương sau này.

Trong The Abandonment of the West, Kimmage lập luận rằng, theo góc nhìn của cánh tả, “phương Tây” từ lâu đã bị nhìn nhận là nguồn cơn của đạo đức giả và phân biệt chủng tộc. Columbus được vẽ lại như một nhà chinh phạt và là một kẻ cướp.

Martin Luther King, mục sư và nhà hoạt động nhân quyền da màu nổi tiếng tại Mỹ, từng chỉ ra thực tế đầy trớ trêu rằng: Trong khi Nhà Trắng cổ vũ tự do bầu cử ở những nước Đông Âu, một bộ phận lớn người dân Mỹ cùng thời điểm lại không được hưởng quyền lợi này.

Advertisement

Edward Said, một giáo sư gốc Palestin tại Đại học Columbia, lên án “những xung đột tồi tệ mang tính tối giản đã lùa mọi người vào những khối rubic thống nhất nhưng sai bản chất như ‘người Mỹ’, ‘phương Tây’ hay ‘Hồi giáo’”.

Theo lập luận của Kimmage, một khi không còn được bảo vệ bởi sự thù địch với Liên Xô, khái niệm “phương Tây” lập tức bị thất sủng và không còn là ngọn cờ đoàn kết ý thức hệ. Cánh tả ngày càng nhìn nhận khái niệm này “có lịch sử quá da trắng và nặng nam tính, đậm chất của tầng lớp tinh hoa, và là sự đồng lõa với hành động xâm lược của Âu-Mỹ trong kỷ nguyên tiền Khai sáng”.

Cánh hữu tại Mỹ thích ý tưởng về di sản văn hóa của “phương Tây”, nhưng lại không thoải mái với thực tế rằng châu Âu là một phần thiết yếu của nó. Họ cho rằng khái niệm này “quá xa rời dân tộc tính, quá nặng về nhà nước phúc lợi, quá hòa bình và nặng tính thế tục”.

Giữa lúc Trung Quốc và Nga thách thức khái niệm dân chủ, còn những tác phẩm kinh điển từ Thời kỳ Khai sáng dần biến mất khỏi danh sách đọc ở các trường đại học, theo Kimmage, khái niệm “phương Tây” không những đang lung lay mà thậm chí có lẽ đã đến hồi kết.

Kẻ thù từ bên trong

Andrew Bacevich lại đưa ra một góc nhìn khác. Ông không quan tâm đến việc những tư tưởng về “phương Tây” dần biến mất khỏi giảng đường đại học và các tổ chức tư vấn chính sách, mà tập trung vào cách khái niệm này được cổ súy hết mực bởi giới tinh hoa chính trị.

Advertisement

Bacevich dẫn lời Tổng thống George W. Bush phát biểu trước các thiếu sinh quân học viện quân sự Westpoint năm 2002: “Thế kỷ XX kết thúc với chỉ duy nhất một mô hình tiến bộ của nhân loại sống sót. Nó dựa trên những nhu cầu không thể tranh cãi về nhân phẩm con người, nền pháp quyền, giới hạn quyền lực nhà nước, tôn trọng phụ nữ, tài sản tư nhân, tự do ngôn luận, công lý bình đẳng và khoan dung tôn giáo”.

Tuy nhiên, trong The Age of Illusions, Andrew Bacevich phê bình rằng giới tinh hoa quân sự, chính trị và thương mại Mỹ đã quá tự tin rằng những động cơ thúc đẩy hành động của nước Mỹ vượt lên trên mọi phán xét (bất khả trì), và thế giới quan của họ chắc chắn thắng lợi.

Họ tự nhận về mình trách nhiệm làm người hành pháp toàn cầu. Họ xây dựng một hệ thống vận hành mới, thiết kế để củng cố sự ưu việt của Mỹ, dựa trên toàn cầu hóa, sức mạnh quân sự vượt trội, mưu cầu hưởng thụ cá nhân chủ nghĩa và “tổng thống chế mang tính đế quốc” (Imperial presidency).

Tuy nhiên, theo Bacevich, hệ thống này đã kéo theo hàng loạt hệ quả ngoài ý muốn. Toàn cầu hóa đáng lẽ phải tạo nên thịnh vượng, nhưng nhiều người Mỹ lại than thở về bất bình đẳng.

Sự vượt trội về quân sự kéo nước Mỹ vào những cuộc chiến không hồi kết, trả giá bằng con cái của những gia đình có thu nhập thấp. Mưu cầu hưởng thụ dẫn đến sự xói mòn về trách nhiệm và một xã hội ích kỷ, cá nhân hóa. Quyền lực tối thượng của tổng thống lại trở thành công thức cho những thất vọng của cử tri.

Advertisement

Tất cả hệ quả đó lên đến đỉnh điểm khi Tổng thống Donald Trump đắc cử. Trong The Age of Illusions, Bacevich nhận định sự xuất hiện của ông Trump trong Phòng Bầu dục là thông điệp bác bỏ hệ thống vận hành hậu chiến tranh lạnh và tất cả những gì mà hệ thống này đại diện.

Cách giới tinh hoa chăm chăm vào các khuyết điểm của ông Trump giúp tầng lớp này né tránh nỗi đau khi phải thừa nhận dự án hậu chiến tranh lạnh đã thất bại.

Cả ba quyển sách đều cố lý giải điều gì đã xảy ra với Mỹ sau khi Liên Xô sụp đổ thông qua tự vấn về các vấn đề nội tại, trong bản chất của chính nước Mỹ, chứ không tìm kiếm một lý do ở bên ngoài biên giới.

Qua nhiều phương diện nhìn nhận, các tác giả đều ít nhiều chỉ trích Tổng thống Trump. Trong khi Joseph Nye nghi ngờ về giá trị luân lý của nhà lãnh đạo, Michael Kimmage xem ông Trump là tổng thống Mỹ “bài xích” phương Tây đầu tiên.

Trong khi đó, theo nhận định của Andrew Bacevich, dù không thể đi đến định nghĩa về nước Mỹ thời hậu Chiến tranh lạnh thông qua trường hợp của Tổng thống Trump, siêu cường này cũng không thể quay đầu được nữa.

Advertisement

Đó cũng là bài học cho cựu phó tổng thống Joe Biden, ứng viên tranh cử tổng thống năm nay của đảng Dân chủ, vốn đang khơi gợi những cảm giác rằng ông sẽ đưa nước Mỹ trở lại như xưa.

Thế giới ẩn sau ‘Tiger King’ – lý do ở Mỹ có nhiều hổ Hiện nay, có khoảng 5.000-15.000 hổ nuôi ở Mỹ. Các chuyên gia cho rằng việc lai giống hổ tràn lan khiến gen của chúng không còn giống với hổ hoang dã nữa.

Nguồn: Zing (https://news.zing.vn/nghich-ly-ke-chien-thang-nuoc-my-hau-chien-tranh-lanh-post1071194.html)

Sách hay

Lịch sử chưa kể về ramen

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một khảo cứu thú vị về lịch sử món mì ramen ở Nhật Bản thông qua lăng kính phân tích và mối liên hệ chặt chẽ của món ăn với địa lý, chính trị, quan hệ đối ngoại, khoa học dinh dưỡng, truyền thông và bản sắc dân tộc.

Một bản ghi chép còn bảo toàn được từ tháng 7 năm 1665 cho thấy Zhu Shun Shui đã chỉ cho Mitsukuni (cận vệ của Tokugawa Mitsukuni) cách chế biến một món mì nước kiểu người Hoa.

Mì ramen được giới thiệu lần đầu đến Nhật Bản vào năm 1665, năm 1884 hay năm 1910? Tiền thân của nó liệu có phải là món ăn được gọi với cái tên ūshin udon, Nankin soba hay Shina soba? Tùy thuộc vào câu trả lời mà chúng ta sẽ nghiệm suy về từng món ăn khác nhau với một giai thoại nguồn cội riêng, cùng một quỹ đạo lịch sử đặc thù mang đến các góc nhìn cụ thể về đất nước Nhật Bản. […]

Mi ra men anh 1

Bìa cuốn sách

Giai thoại đầu tiên, và cũng sống động nhất, đã xuất hiện ban đầu trong công trình nghiên cứu mang tính tiên phong về lịch sử của mì ramen (được xuất bản năm 1987) của nhà sử học về ẩm thực Kosuge Keiko, trong đó ấn định thời điểm món ăn này được trình làng là vào những năm 1660, đồng thời cho rằng Tokugawa Mitsukuni (tên khác là Mito Kōmon, 1628 − 1701) – vị lãnh chúa huyền thoại thời phong kiến (daimyō) nắm hàng thứ hai sau Mạc chủ (shōgun) (1) – là người đầu tiên thưởng thức món mì ramen ở Nhật Bản.

Là nhân vật lịch sử nổi tiếng ở Nhật và từng được một bộ phim truyền hình dài tập mô tả như một vị hảo hán, ở gần cuối mỗi tập phim, Tokugawa Mitsukuni thường tiết lộ danh tính của mình cho những kẻ xấu bằng cách để lộ ra hình ảnh chiếc inrō (hộp đựng trang trí sơn mài kích cỡ nhỏ) có khắc gia huy của dòng họ ông, cho thấy ông là vị daimyō trong vùng.

Advertisement

Câu thoại “Ngươi không nhận ra gia huy này sao?” (Kono mondokoro ga me ni hairanuka?) được Kaku-san (cận vệ của Mitsukuni) nhắc lại trong đoạn cao trào của mỗi tập phim nhằm khôi phục lại trật tự và cấp bậc, và khiến những kẻ bất lương ngang ngược phải lập tức cầu xin sự khoan hồng.

Một bản ghi chép còn bảo toàn được từ tháng 7 năm 1665 về các hoạt động của Mitsukuni cho thấy rằng Zhu Shun Shui – một người Trung Quốc tị nạn khỏi chính quyền nhà Minh sống ở Mito vào thời điểm đó (2) – đã chỉ cho Mitsukuni cách chế biến một món mì nước kiểu người Hoa nhiều khả năng chính là món mì ramen ngày nay (3).

Mặc dù Mitsukuni được biết đến nhiều nhất trong lịch sử Nhật Bản khi đã khởi xướng kế hoạch kỳ vĩ biên soạn nên Dai Nihon Shi – hay Lịch sử vĩ đại của Nhật Bản – một cuốn sách mất gần 250 năm và mười thế hệ để hoàn thành, ông cũng là một người ca tụng triết học Lý học (Neo- Confucianism) (4) và đã tìm đến Trung Quốc để được soi đường chỉ lối cách trị nước.

Ông do vậy đã tham vấn và kết giao với Zhu, người trước đó từng nắm chức thượng quan ở Trung Quốc dưới thời nhà Minh nhưng quyết định đến Nhật Bản vào năm 1665 do phải lưu vong khỏi chế độ cai trị của Mãn Châu.

Mi ra men anh 2

Lãnh chúa Tokugawa Mitsukuni. Nguồn: wikipedia.

Zhu trở thành một trong những cố vấn quan trọng nhất của Mitsukuni, và làm việc trong chính quyền cai trị của ông này trong 17 năm tiếp theo cho đến khi qua đời vào năm 1682. Vai trò quan trọng của Zhu trong đội ngũ cố vấn của vị daimyō đã giúp ông có được một cuộc sống thoải mái, cùng một bia mộ nổi bật còn tồn tại cho đến ngày nay trong khu nghĩa trang của gia tộc Tokugawa nhánh Mito (5).

Advertisement

Trong thời gian hầu cận daimyō, Zhu biết được rằng Mitsukuni là một người rất thích ăn udon – loại mì nước hiện vẫn phổ biến ở Nhật Bản – với sợi mì làm từ bột mì sử dụng với nước dùng dashi (làm từ cá ngừ khô và tảo bẹ).

Vào thế kỷ 17, người Nhật thường ăn mì udon với quả mơ ngâm (umeboshi) và vừng. Thấy vậy, Zhu đã gợi ý về năm thành phần thường được sử dụng trong món mì nước Trung Quốc để vị daimyō vùng Mito có thể thêm vào nhằm cải thiện hương vị của món ăn. Năm thành phần (ūshin) mà ông chủ ý đề xuất gồm: rễ kiệu (rakkyō), tỏi, hẹ tỏi (nira), hành lá và gừng (6).

Từ những dữ kiện này, nhà sử học về ẩm thực Kosuge phỏng đoán rằng Tokugawa Mitsukuni chính là cha đẻ của tập tục ăn mì nước Trung Quốc ở Nhật Bản. Sau này Bảo tàng Ramen ở Shin-Yokohama đã phổ biến rộng rãi câu chuyện trên, và kết quả là vào năm 2003, Tập đoàn Thực phẩm Nissin của Nhật Bản nhà sản xuất mì ramen ăn liền lớn nhất thế giới – trong một thời gian ngắn đã cho ra – mắt nhãn hiệu mì ăn liền U-shin có in hình gia huy của gia tộc Tokugawa, được điểm tô bằng giai thoại về Mitsukuni và Zhu.

Mặc dù khó xác định liệu món ăn từng được ưa chuộng bởi vị lãnh chúa nổi tiếng của vùng Mito kia tương thích ra sao với món ăn ngày nay được gọi với cái tên “mì ramen”, cần ghi nhớ rằng câu chuyện được lưu truyền rộng rãi ở trên về sự xuất hiện tại Nhật Bản của món mì nước kiểu người Hoa đã thiết lập nên một giai thoại nguồn cội trong giai đoạn đầu của kỷ nguyên hiện đại – một thời đại được đánh dấu bằng việc người Nhật có xu hướng học hỏi người Trung Quốc.

Mặc dù câu chuyện trên được coi như một phiên bản bao trùm đầy lôi cuốn về nguồn gốc của món ăn, với đầy đủ các nhân vật ngoài đời thực cùng những tương tác tưởng tượng dựa trên các cách diễn giải không thành kiến đối với những ghi chép lịch sử, nó có ý nghĩa quan trọng trong việc nhấn mạnh sự ngưỡng mộ của người Nhật đối với một nước Trung Quốc thời tiền Thanh.

Advertisement

—————-

1. Một tước hiệu đặc biệt dành cho những vị tướng quân có chức vụ cao nhất trong thời kỳ phong kiến của Nhật Bản. (ND)

2. Khi triều đại nhà Thanh củng cố quyền lực của mình lên miền nam Trung Quốc, một số học giả Nho giáo làm việc cho chính quyền nhà Minh đã trốn sang Đại Hàn và Nhật Bản để làm cố vấn.

3. Kosuge Keiko, Nippon Rāmen Monogatari: Chūka soba wa itsu doko de umareta ka (Tokyo: Shinshindō, 1987), tr.45-59.

4. Tư tưởng triết lý Trung Quốc chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Lý học có thể được xem là nỗ lực hợp lý hóa cũng như thế tục hóa Nho giáo bằng cách loại bỏ các yếu tố mê tín, huyền bí của Đạo giáo và Phật giáo, vốn từng được đưa vào Nho giáo trong và sau đời nhà Hán. (ND)

Advertisement

5. Sĩ quan hải quân người Mỹ. (ND)

6. Cho đến năm 1854, khi Hiệp ước Perry đầu tiên có hiệu lực, triều đại Tokugawa ở Nhật Bản đã duy trì chính sách tránh tiếp xúc với các cường quốc phương Tây (ngoài Hà Lan) trong hơn hai thế kỷ để hạn chế tình trạng hỗn loạn do những nỗ lực cải đạo của các nhà truyền giáo Cơ đốc ở Nhật Bản. Riêng Hà Lan đã đồng ý giới hạn mối quan hệ giữa hai nước chỉ trong lĩnh vực thương mại, kết quả là Hà Lan trở thành quốc gia châu Âu duy nhất duy trì quan hệ thương mại và ngoại giao với Nhật Bản từ năm 1639 đến năm 1854.

Nguồn: https://znews.vn/giai-thoai-ve-su-xuat-hien-cua-mi-ramen-mon-an-quoc-dan-nhat-ban-post1455469.html

Advertisement
Tiếp tục đọc

Sách hay

Nóng giận là bản năng tĩnh lặng là bản lĩnh

Được phát hành

,

Bởi

Trong cuốn sách, tác giả Tống Mặc đã trò chuyện với độc giả về cách kiềm chế cơn nóng giận, học cách bao dung, kiểm soát cảm xúc của mình trước những tác động của cuộc sống.

Ai chẳng có lúc giận dữ, nóng giận là hạt mầm được gieo vào tâm ta từ lúc mới chào đời. Nhưng kìm chế cơn giận là bản lĩnh cần rèn luyện mỗi ngày.

Kim che con gian anh 1

Thái độ điềm tĩnh sẽ giúp con người dễ dàng vượt qua nghịch cảnh, đón nhận thử thách. Ảnh: P.G.

Điềm đạm là sự điềm tĩnh xuất phát từ nội tâm. Cổ nhân cho rằng: “Điềm tĩnh dưỡng thần, phật dịch ô vật.” Ý muốn nói, điềm tĩnh có thể dưỡng tâm, giúp con người không phụ thuộc vào thứ bên ngoài. Điềm tĩnh nói đến một thái độ sống “lùi”, vạn sự thuận theo tự nhiên, người giữ được tinh thần như vậy, chắc chắn có thể làm tốt việc dưỡng tâm.

Hiện giờ, ngày càng có nhiều người theo đuổi việc “dưỡng sinh”. Dưỡng sinh gồm có dưỡng tâm, dưỡng tính và dưỡng thân. Nhưng rất nhiều người chỉ quan tâm đến việc dưỡng thân, cho rằng chỉ cần chăm sóc cơ thể cho thật đẹp đẽ, khỏe mạnh, thì có thể hưởng thụ cuộc sống lâu dài. Cho nên, số người có thể kiên trì hàng ngày tập luyện thể thao, ăn uống lành mạnh thì nhiều, nhưng số người có thể kiên trì dưỡng tâm hàng ngày lại rất ít.

Advertisement

Có một bà mẹ cực kỳ chú trọng việc dưỡng sinh. Gặp ai cô ấy cũng thao thao bất tuyệt về đạo lý dưỡng sinh, về việc mỗi ngày phải ăn cái gì, ăn bao nhiêu, ăn thế nào, vận động bao lâu… Cô ấy nói hết lần này đến lần khác: Chỉ có làm như vậy, mới không bị bệnh! Nhưng mỗi lần nghe những điều này, tôi đều thấy rất lạ. Một người ngày nào cũng bận rộn chuẩn bị đồ ăn lành mạnh cho bản thân từ sáng đến tối, sợ mình ăn phải đồ ăn không tốt sẽ sinh bệnh, không thể sống thọ, ngày nào cũng lo lắng như vậy, liệu có vui vẻ được không?

Nếu như chúng ta dư ỡng sinh mà không bắt đầu từ việc dưỡng tâm dưỡng tính, trong lòng sẽ có nhiều phiền não, có nhiều ham muốn. Như vậy, “hạnh phúc” mà chúng ta được hưởng chỉ dừng ở mức ăn ngon mặc đẹp và cơ thể khỏe mạnh, đó không phải cuộc sống thăng hoa chân chính.

Đại sư Hoằng Nhất cho rằng điềm đạm là “điều đầu tiên của việc dưỡng tâm”. Điềm đạm mà ngài nói tới suy cho cùng là cần con người phải tĩnh tâm. Thế gian này bao chuyện phiền não, dễ ảnh hưởng đến tâm lý của con người.

Kim che con gian anh 2

Cuốn sách Nóng giận là bản năng, tĩnh lặng là bản lĩnh mang đến cho người đọc nhiều lời khuyên hữu ích. Ảnh: Chi.

Cho nên, nhiều người nghĩ rằng tâm mình không tĩnh là vì đang bị quá nhiều chuyện quấy nhiễu. Thật ra, ta bị quấy rầy không phải vì những chuyện phiền nhiễu trên đời, mà vì tâm không tĩnh. Khi chúng ta có thể tách khỏi tất cả sự vật bên ngoài, cho dù ở trong hoàn cảnh nào, ta cũng có thể hưởng thụ cuộc sống an nhàn thực sự.

Trong xã hội hiện thực này, rất nhiều chuyện sẽ làm cho chúng ta “dao động”.

Advertisement

Khi một người mỗi ngày kiếm được 10 đồng, chỉ đủ để ăn no, anh ta cảm thấy rất thoải mái, nhưng lại mơ mỗi ngày kiếm được 100 đồng; khi kiếm được 100 đồng mỗi ngày, anh ta lại cảm thấy mệt hơn trước rất nhiều, và không thấy hài lòng lắm, bởi vì có người mỗi ngày kiếm được 1.000 đồng.

Anh ta làm việc chăm chỉ hơn, cuối cùng cũng có thể kiếm 1.000 đồng mỗi ngày, anh ta bắt đầu mua xe, mua nhà, sống cuộc sống tốt đẹp mà anh ta từng ao ước, nhưng anh ta lại bắt đầu hướng về cuộc sống mỗi ngày kiếm được 10.000 đồng…

Chúng ta luôn rơi vào một vòng tròn kỳ lạ như vậy. Chúng ta luôn cho rằng khi đạt được điều gì mình mong đợi đã lâu, trong lòng sẽ cảm thấy yên tâm, hài lòng, từ đó có thể hạnh phúc. Nhưng sau khi đạt được điều mình muốn, ta lại có cảm giác cũng chỉ thế mà thôi. Những ham muốn lớn hơn nối tiếp nhau, mục tiêu ngày càng cao, và chúng ta càng ngày càng mệt hơn.

Do đó, một người sau khi có biệt thự, xe hơi, anh ta càng không hạnh phúc, bởi anh ta lo sợ một ngày nào đó sẽ mất đi cuộc sống như vậy, do đó đành phải dốc sức làm việc nhiều hơn, ép bản thân phải kiếm được 100.000 mỗi ngày, nếu chỉ kiếm được 80.000 thì thở dài ngao ngán.

Ngày nào cũng sống trong nỗi sợ mất đi danh lợi, gánh áp lực khủng khiếp, làm sao mà không sinh bệnh cho được? Dĩ nhiên, không phải con người không thể sống như vậy, danh lợi vốn là sự theo đuổi lớn nhất cuộc đời đối với một người bình thường.

Advertisement

Nhưng ý ở đây muốn nói, nếu như cuộc sống như vậy làm cho chúng ta cảm thấy thêm áp lực, thêm phiền muộn, không hề có cảm giác hạnh phúc, thì bạn hoàn toàn có thể suy nghĩ theo hướng khác.

Không nhất thiết phải từ bỏ những thứ như biệt thự, xe hơi, chỉ cần từ bỏ việc cố chấp gắn bó với những thứ này, dù kiếm được 1.000.000 mỗi ngày cũng không ngạo mạn, mà mỗi ngày kiếm được 10 đồng cũng không chán chường, muốn ăn thì ăn, muốn ngủ thì ngủ, không cần gượng ép bản thân, bạn có thể cảm nhận được sự hạnh phúc ngay lập tức.

Người có nội tâm điềm đạm là người ngay cả khi mặc một chiếc áo vải, ăn một bữa cơm đạm bạc, vẫn có thể an nhàn thoải mái, không có chút cảm giác khó chịu hay không vui nào. Cho dù đối mặt với phiền não và sinh tử, họ cũng có thể thản nhiên đối diện, trong lòng không một chút gợn sóng đau khổ, không cần ăn ngon mặc đẹp vẫn cảm thấy yên bình và hạnh phúc.

[…]

Nguồn: https://znews.vn/kim-che-con-gian-la-ban-linh-can-co-cua-nguoi-truong-thanh-post1455101.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tuổi ấy mình yêu

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn tản văn “Tuổi ấy mình yêu” ghi lại nhiều ký ức về Hà Nội của thế hệ 6X, 7X. Khi ấy thành phố tuy còn nhiều gian khó nhưng đầy lãng mạn với những biệt thự cổ rêu phong, cùng những thanh niên tha thiết yêu đời!

Dòng thời gian miên man đưa ta về những kỷ niệm ấu thơ không thể nào quên. Mùa hè nóng như đổ lửa, chẳng có điều hòa lẫn quạt điện, chỉ đành phe phẩy quạt nan xua đi cái nóng.

Tuoi ay minh yeu anh 1

Cảnh mấy đứa trẻ ngồi ở bể nước công cộng để mẹ tắm rửa là hình ảnh quen thuộc thời bao cấp. Ảnh: Fclikr.

Ở miền ôn đới mà nhiệt độ lên tới 40 thì không thể không coi là sự kiện. Vì thế mà ai chưa kịp trẻ lại, gầy đi, chết vì nóng thì cứ, rất nhiều người thích, tranh thủ cởi gần hết cho da có màu suy nghĩ. Cái màu này, Tây và ngay cả ta chưa từng trải đời này dăm chục năm tha hồ suy nghĩ cũng chả biết là màu gì.

[…]

Advertisement

Thành phố uể oải trong hơi nóng làm người cứ lơ mơ, thương chả ra thương nhớ chẳng ra nhớ, cứ dằng dai lừng khừng. Chẳng biết có phải dân ở những xứ nóng động cái là sùng sục hừng hực lên là vì một năm mấy mùa đã tha hồ uể oải rồi không?

Chiều qua thứ bảy, chỉ còn mấy tiếng nữa cửa hàng cửa họ đóng, đóng cửa luôn ngày chủ nhật là ngày đến Chúa cũng không làm gì (mà còn làm làm gì, sửa sai thế nào được nữa sau khi đã tạo ra con người) nhưng nắng vẫn còn chấp chới trên bờ tường, ngọn cây, mái nhà. Say nắng trưa rồi, không dám đi xa, chỉ lếch thếch ra đầu phố xem có quả dưa hấu nào nhẹ hơn một yến để tha về ăn giải nhiệt chờ mưa.

Mưa thì chưa, dưa thì không nhẹ, chẳng mua bán gì nữa, đi về. Ngang qua cái quán nhỏ đầu phố thấy bàn nào cũng có người ngồi lơ mơ. Có ông lẩn mẩn lúc quờ cốc cà phê đưa lên môi lúc sờ cây bút bi chơi đố chữ.

Có mẹ nạ dòng cháu sớm phom dáng cực kì hùng tráng vẫn chẳng ngần ngại gọi cốc kem to cho xứng người, ăn thi với cháu. Có bà già lim dim mắt xếp tà váy rồi ngồi vắt chân đầy vẻ quý phái khiêu khích kiểu Marlene Dietrich, thay vì điếu thuốc trên tay lại thấy phảy một cái quạt giấy thật là xinh.

Kỷ vật của những ngày nắng hạ Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Tuynidi gì đó đây, không biết cụ mua hay cụ trai nào tặng, mùa hạ vừa đi qua hay từ đời thăm thẳm nỗi niềm nào.

Advertisement

Bất chợt thấy mình chậm bước. Bất chợt hình dung lại, ngày xưa, cũng quạt giấy như này. Bà tóc bạc vấn lẳn trong vành khăn trắng để “trở” ai trong họ chẳng biết. Bà đứng chờ tàu điện chỗ Ô Cầu Dền. Bà luôn luôn có cái quạt trong tay phe phảy cho cháu bám quẩn bên chân.

Bà ngồi chân co chân duỗi đầu tấm phản sau này hạ xuống che cái hầm trú ẩn đào ngay dưới gậm giường rồi cúi người vuốt ngay ngắn ống quần, mở âu giầu, tỉ mẩn tiện miếng vỏ quạch, xé mảnh lá giầu không, bổ nhỏ miếng cau đã bổ sáu từ trước, quết chút vôi trắng, nhúm chút thuốc lào rồi đưa lên miệng, rồi bận bịu dọi lại vành cái quạt nan, xếp lại cái quạt giấy, lầm thầm không biết là mắng đứa cháu nào dùng đồ xong buông quăng bỏ vãi, vô ý vô tứ chẳng biết của bền tại người.

Chao ôi những buổi chiều Hà Nội hết chiến tranh, đã khó nghèo càng thêm khó nghèo vì mẹ mất, nhưng bà còn đó cho chị em mình nương dựa, bà còn đó, giữ lại cho chị em mình những gì còn có thể giữ được, là sự ngây ngô quý giá nhất của tuổi ấu thơ.

Tuoi ay minh yeu anh 2

Cuốn tản văn Tuổi ấy mình yêu của nhà văn Lê Minh Hà. Ảnh: NXB Trẻ.

Cũng cái quạt giấy này, trong bàn tay con gái những ngày cuối cùng đến lớp, giấy trang kim màu tím, nan tre, thằng bạn ngồi bên giằng lấy hỏng luôn chỗ tay cầm, những cái nan rời nhau ra, thế mà nó ra sức khoát tay quạt cho cả mình với nó. Tức mà nghĩ tới những ngày sắp xa đi, gặp lại không biết có đủ tự tin như giờ vẫn hay gây sự với nhau, nghĩ tới cái compa dở hơi nó vẫn nhường mình trong giờ hình học, thôi im vậy.

Bà già váy hoa vẫn đang lơ mơ bên cốc kem phe phẩy cái quạt giấy rõ là xinh. Uể oải thì mình đang uể oải lắm rồi, nhưng có mơ đâu, mà cảm như từ đâu xưa hơi gió từ cái quạt giấy muôn đời. Chỉ phảy nhẹ phảng phất thôi đã đủ làm xao động hơi nóng ngày tháng hạ vì cái mùi hơi thum thủm của những nan quạt vót từ tre ngâm ao bùn.

Advertisement

Ở Hà Nội giờ hay gặp các bà đi tập dưỡng sinh. Khi biểu diễn dưỡng sinh, các bà mặc cả bộ sa tanh đỏ, cứ từng lúc lại khuỵu đầu gối trong tư thế cảm tử lao về phía trước, trong tay là cái quạt hình thù như cái quạt giấy mình quen pạch một cái đồng loạt xòe ra.

Chưa tới gần nên không biết nan quạt bằng tre bằng gỗ hay bằng nhựa, nhưng cái quạt cũng màu đỏ rực, lại có tua rua, xòe ra đều còn hơn các diễn viên hội đoàn tập múa, chỉ còn thiếu hai bím tóc ngắn vểnh ngang tai và trẻ đi dăm chục tuổi là gần bằng diễn viên kinh kịch Bắc Kinh nhảy một cái, xoạc chân một cái, cao giọng á a a trên sân khấu Hà Nội một thời.

Về với Hà Nội, cứ lần nào nhìn thấy những mảnh tam giác đỏ rực ấy chói lọi trong nắng sớm cũng giật mình.

[…]

Nguồn: https://znews.vn/mua-he-da-xa-post1455038.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Xu hướng