Connect with us

Du học

Nam sinh trường chuyên trúng tuyển 15 đại học Mỹ

Được phát hành

,

Không chỉ thành công thuyết phục ban tuyển sinh của 15 đại học, nam sinh trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa, TP.HCM còn được 9 trường trao học bổng.

Bước vào cấp 2, Vương Minh Quang (TP.HCM) bắt đầu nghĩ về du học. Lúc ấy, đó chỉ là suy nghĩ mơ hồ. Mãi đến năm 9, nghe một bạn đang du học rồi kể lại quá trình học tập ở nước ngoài, em mới hứng thú và xác định Mỹ là đích đến.

Dù vậy, phải đến hè lớp 11, Minh Quang mới thực sự quyết tâm du học. Khởi đầu này tương đối muộn.

Nam sinh truong chuyen trung tuyen 15 dai hoc anh 1

Vương Minh Quang bắt đầu chuẩn bị hồ sơ du học khá muộn. Ảnh: V.M.Q.

Trưởng thành từ quá trình tìm kiếm cơ hội du học

Tháng 7/2019, Vương Minh Quang bắt đầu ôn tập cho bài thi chuẩn hóa. Tháng 3/2020, nam sinh luyện thi IELTS. Thời điểm đó, dịch Covid-19 diễn biến phức tạp. Quang không thể đăng ký thi để lấy kinh nghiệm.

Em quyết định dừng hẳn việc ôn SAT để tập trung vào IELTS. Minh Quang luyện đề liên tục với tần suất trung bình một đề/ngày, chủ yếu để có thời gian đọc lại, nghiền ngẫm lỗi sai của mình.

Nhờ vậy, em tăng điểm ở kỹ năng nghe và đọc. Nhưng do ít có cơ hội tiếp xúc với giáo viên và việc giao tiếp qua mạng gặp nhiều cản trở, em chưa luyện tốt kỹ năng nói và viết. Dù vậy, ngay trong lần đầu tiên thi IELTS được mở lại sau dịch, Minh Quang đăng ký và đạt 7.5 – số điểm không cao nhưng nam sinh hài lòng vì nó xứng đáng với công sức em bỏ ra.

Tương tự, khi luyện thi SAT, Minh Quang cũng dành thời gian để suy ngẫm về lỗi sai. Việc luyện đề liên tục rất mệt mỏi, nhàm chán. Nhưng em may mắn khi có bạn bè bên cạnh, tranh thủ lúc trống tiết hoặc giờ ra chơi để hỗ trợ nhau về kiến thức, tinh thần. Nam sinh trường chuyên Trần Đại Nghĩa đạt SAT 1450 (Đọc 660, Toán 790).

Nhìn lại quá trình nỗ lực để thực hiện ước mơ du học, Vương Minh Quang tự nhận hồ sơ của em không mạnh về mặt học thuật, bảng điểm nằm ở tầm trung, điểm IELTS, SAT không cao. Bên cạnh đó, em có ít kinh nghiệm tham gia nghiên cứu.

Tuy nhiên, Minh Quang cũng có lợi thế nhất định. Nam sinh cho rằng bản thân may mắn hơn khi ở Việt Nam, tình hình dịch không quá căng thẳng như vậy. Nhờ đó, em dễ tham gia hoạt động ngoại khóa hơn so với các ứng viên ở nước khác.

Ngoài ra, Minh Quang cũng gặp nhiều người đi trước giỏi giang, giàu kinh nghiệm để học hỏi.

“Em cũng có mối quan hệ rất tốt với thầy cô trong trường. Điều này giúp em rất nhiều khi xin thư giới thiệu. Và cũng nhờ xin thư giới thiệu, em lại tăng thêm mối quan hệ với thầy cô”, Minh Quang nói thêm về thuận lợi của em khi làm hồ sơ du học.

Quá trình ứng tuyển vào các đại học ở Mỹ không chỉ là những nỗ lực hoàn thiện hồ sơ mà còn là dịp để Minh Quang trưởng thành hơn.

Em nhận sự giúp đỡ từ những người bạn tốt, giỏi giang, học hỏi từ câu chuyện của họ. Nam sinh cũng chủ động hơn trong liên hệ giáo viên, cập nhật thông tin, viết thư hỏi trường, làm hồ sơ kinh tế.

Thậm chí, để tiện việc liên lạc với trường khác múi giờ, Quang thay đổi thời gian biểu của mình – ngủ lúc 21h và dậy lúc 3h. Em cố gắng tham gia đầy đủ các buổi gặp mặt online do trường tổ chức dù tổ chức lúc 2h sáng.

Quang học cách tiết chế tính lơ là. Em tiếp tục hoạt động ngoại khóa, nỗ lực hoàn thiện hồ sơ kể cả khi đã nộp đơn ứng tuyển. Minh Quang ghi danh vào đội tuyển Anh của trường, giành thêm giải ba Tiếng Anh không chuyên cấp thành phố.

Em chủ động viết thư bày tỏ mong muốn theo học khi hồ sơ tuyển sinh sớm của em bị đẩy về đợt xét tuyển thường, thư xin thêm hỗ trợ tài chính cho những trường cấp học bổng thấp.

Nhờ sự chủ động đó, nam sinh trường chuyên Trần Đại Nghĩa xin thêm được 2.500 USD/năm từ trường Stevens và “chuyển bại thành thắng” ở trường Fordham và Worcester.

Ngoài ra, quá trình thực hiện giấc mơ du học cũng là cơ hội để Vương Minh Quang suy ngẫm nhiều hơn. Nam sinh ấn tượng nhất với câu hỏi ngắn 100 ký tự của Rochester – “How do you hope to ‘do good’ in the world?”.

“100 ký tự là quá ngắn để nói kế hoạch tương lai hay triết lý nào đó. Bài luận thực sự khiến em nhìn nhận nhân sinh quan và thế giới một cách kỹ càng. Cuối cùng, em quyết định viết em sẽ giúp mọi người làm chính mình. Dù em không trúng tuyển Rochester, câu hỏi của trường làm em suy ngẫm không dứt”, Quang tâm sự.

Nam sinh truong chuyen trung tuyen 15 dai hoc anh 2

Trúng tuyển 15 trong số 25 trường nộp hồ sơ, Minh Quang được 9 trường trao học bổng. Ảnh: V.M.Q.

9/15 trường trao học bổng

Rochester là một trong số 6 trường mà Vương Minh Quang không thể thành công thuyết phục ban tuyển sinh.

Minh Quang nộp hồ sơ vào 25 trường. Trong đó, em đặt ĐH Michigan là thứ hạng cao nhất dù không có khả năng chi trả chi phí quá cao của trường. Em không hy vọng nhiều, chỉ muốn thử xem mình có thể đi xa tới đâu.

Thế nhưng, kết quả thực sự bất ngờ – Minh Quang trúng tuyển. Em nhận thư từ ĐH Michigan – Ann Arbor khi đa số trường đã có kết quả tuyển sinh sớm và Quang nhận khá nhiều thư từ chối từ những trường mình mơ ước.

Ở thời điểm nam sinh không còn nhiều hy vọng, lá thư chấp nhận này giúp em khẳng định lại giá trị của bản thân, đỡ mặc cảm, tự tin hơn.

Ngoài ra, Vương Minh Quang còn trúng tuyển vào các trường ĐH Florida, ĐH Boston, ĐH Depauw (học bổng 42.500 USD/năm), ĐH Rutgers – New Brunswick 10.000 USD/năm), ĐH Massachusetts tại Amherst (16.000 USD/năm), Viện Bách khoa Worcester (29.930 USD/năm), ĐH Fordham (20.000 USD/năm), ĐH Minnesota – Twin Cities (15.000 USD/năm), ĐH Texas A&M, Viện Công nghệ Stevens (22.500 USD/năm), ĐH Utah, ĐH bang Arizona (15.500 USD/năm), ĐH Illinois, ĐH Houston (24.00 USD/năm).

Nhận thư trúng tuyển từ 15 trường, Vương Minh Quang cho biết chọn trường là công đoạn tốn nhiều thời gian nhất. Trường tốt thì học phí đắt đỏ, trường đồng ý hỗ trợ tài chính nhiều lại nằm ở tầm thấp. Nam sinh phải “cân đong đo đếm” giữa đồng tiền và giá trị của trường.

Cuối cùng, Minh Quang quyết định chọn theo học ngành Hóa học tại ĐH Massachusetts ở Amherst.

Nam sinh lý giải ở trường này, em được tham dự chương trình vinh dự (honor college), tức trường sẽ cho em ưu tiên nhất định, trong đó có việc thực tập, tư vấn chọn ngành.

Hơn nữa, ĐH Massachusetts có chương trình hợp tác với các trường trong bang như ĐH Harvard, ĐH Boston, MIT. Đây là cơ hội rất tốt cho em.

Ngoài ra, quy mô trường khá nhỏ. Người học có thể làm quen với giáo sư dễ hơn. Học phí cũng ở mức ổn, khoảng 38.000 USD/năm sau khi trừ học bổng.

Quang quyết định chọn ngành Hóa vì đây là môn tự nhiên em thích và học tốt nhất thời THPT. Nam sinh cũng hứng thú với việc tìm hiểu cội nguồn các hóa chất, đặc biệt lĩnh vực hóa kim loại, hóa công nghiệp và hóa môi trường.

Trước ngưỡng cửa đại học, Vương Minh Quang hy vọng dịch bệnh sớm được kiểm soát để em thuận lợi sang Mỹ học, bắt đầu chặng đường dài hơi hơn.

Nam sinh mong đợi ở môi trường mới, em có thể tạo mối quan hệ tốt với nhiều giáo sư, mở rộng network của bản thân.

“Từ quá trình làm hồ sơ, xin giới thiệu từ giáo viên, em nhận thấy thầy cô là nguồn kiến thức, đồng thời là cơ hội vô tận mà học sinh có thể góp góp nhặt để phát triển trong tương lai”, chàng trai 18 tuổi chia sẻ.

Nguồn: https://zingnews.vn/nam-sinh-truong-chuyen-trung-tuyen-15-dai-hoc-my-post1219477.html

Tiếp tục đọc

Du học

Lý do nhóm ngành khoa học sức khỏe hút sinh viên ở New Zealand

Được phát hành

,

Bởi

Trải qua đại dịch Covid-19, hệ thống y tế và công tác đào tạo y khoa ở các nước được chú trọng hơn, mở ra nhiều cơ hội cho nguồn nhân lực nhóm ngành khoa học sức khỏe.

Trong danh sách nghề thiếu hụt nguồn nhân lực (Skills Shortages) của New Zealand, hơn 20 việc làm thuộc lĩnh vực khoa học sức khỏe nằm trong tốp đầu. Không chỉ có cơ hội việc làm rộng mở, đây là nhóm ngành được chú trọng công tác đào tạo tại xứ sở kiwi.

Nền tảng đào tạo khoa học sức khỏe của New Zealand

Khoa học sức khỏe là một trong những ngành mũi nhọn và quan trọng tại New Zealand. Trong đó, ĐH Otago và ĐH Auckland là các trường nổi tiếng về đào tạo nhóm ngành khoa học sức khỏe toàn cầu.

Nổi bật là ĐH Otago – ngôi trường có tuổi đời 150 năm – với thế mạnh đào tạo y khoa chuyên sâu. Ngành Nha khoa của trường giữ vị trí 33 trên bảng xếp hạng QS Rankings, trong khi ngành Giải phẫu học và Vật lý trị liệu xếp thứ 49. Các ngành khác như Y tá, Tâm lý học cũng vào danh sách 100 trường hàng đầu trên toàn thế giới.

nganh khoa hoc suc khoe,  du hoc New Zealand anh 1

New Zealand là điểm đến cho du học sinh muốn phát triển sự nghiệp trong lĩnh vực y khoa.

Nhiều năm qua, New Zealand từng bước triển khai các mô hình học tập bắt nhịp xu hướng tương lai, đáp ứng làn sóng chuyển đổi số, trong đó có lĩnh vực y khoa. ĐH Auckland, ĐH Otago… đã đưa mô hình telehealth (khám, chữa bệnh từ xa) vào điều trị và giảng dạy, trong khi ĐH Canterbury bắt tay thực hiện dự án xây dựng nền tảng trực tuyến phục vụ chẩn đoán bệnh từ xa.

Nhiều sáng kiến trong lĩnh vực y khoa của sinh viên, chuyên gia New Zealand được ứng dụng rộng rãi toàn cầu như máy làm ẩm/ấm khí thở (respiratory humidifier – công cụ hỗ trợ khí thở vào cho bệnh nhân nguy kịch), 3D colour X-ray, robot hỗ trợ hồi sức…

Việc triển khai thành công hồ sơ sức khỏe điện tử (HER) đã đưa New Zealand vào nhóm quốc gia hàng đầu thế giới về y khoa, tạo nền tảng giảng dạy trong nhóm ngành khoa học sức khỏe.

Đa dạng chương trình đào tạo nhóm ngành khoa học sức khỏe

Khoa học sức khỏe là nhóm ngành có chuyên môn điều trị và chăm sóc sức khỏe, bao gồm thể chất và tinh thần. Khi cân nhắc nhóm ngành này, nhiều người thường liên tưởng đến các chuyên ngành thuộc tuyến đầu y tế, với yêu cầu đầu vào cao (như bác sĩ, y sĩ, dược sĩ).

Tuy nhiên, các ngành nghề trong lĩnh vực khoa học sức khỏe rất đa dạng. Người học có thể lựa chọn ngành nghề thuộc vị trí hậu cần (nghiên cứu y khoa, thử nghiệm lâm sàng, sức khỏe cộng đồng, thể thao hay dinh dưỡng …), ngành gián tiếp (hỗ trợ cho tuyến điều trị), tiêu biểu như Y tế cộng đồng, Xét nghiệm, Dược… với tiêu chuẩn đầu vào dễ dàng hơn.

Tại New Zealand, hệ thống giáo dục thể hiện sự nhạy bén với thị trường việc làm tương lai khi triển khai nhiều ngành học mới phù hợp xu hướng và đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực. Trong đó, 3 liên ngành mới nổi bật là Khoa học thể thao (Sport science), Y tế cộng đồng (Community health) và Chính sách y tế và an sinh (Population health).

Khoa học thể thao là liên ngành phổ biến tại nhiều quốc gia tiên tiến. Lựa chọn liên ngành này của ĐH Công nghệ Auckland, người học có thể nghiên cứu chuyên sâu về thể thao, vật lý trị liệu, dinh dưỡng… Trong hai năm đầu tiên, sinh viên được học các môn nền tảng như giải phẫu học, luật và đạo đức trong thể thao… Ở học kỳ cuối, sinh viên sẽ học môn chuyên ngành như ứng dụng kiến thức để đo lường – đánh giá điều kiện thể chất của vận động viên, thực hành vật lý trị liệu – tại phòng khám.

Nếu người học có định hướng tham gia cải thiện hệ thống y tế thông qua các chính sách, đạo luật, thực hành y tế trong cộng đồng, phân bố quỹ y tế, chương trình cử nhân Population health (Chính sách về y tế và an sinh) của ĐH Waikato là lựa chọn đáng cân nhắc.

Trong 3 năm đào tạo, sinh viên tiếp xúc các môn học về chính sách, số liệu, hệ thống và tài chính trong y tế, được trang bị đầy đủ kiến thức cũng như kỹ năng để làm việc trong lĩnh vực hoạch định chiến lược.

Với chương trình cử nhân Sức khỏe cộng đồng (Community health) tại ĐH Otago hoặc ĐH Waikato, sinh viên có thể trở thành chuyên gia tư vấn sức khỏe, giáo viên sức khỏe – thể chất, người điều phối sự kiện về sức khỏe – thể thao…

Ngoài ra, nhiều trường đại học và học viện kỹ nghệ ở New Zealand có đa dạng chương trình đào tạo liên quan nhóm ngành khoa học sức khỏe. Đơn cử là ngành Kỹ thuật Y sinh (Biomedical science) của ĐH Công nghệ Auckland (AUT) hay Dinh dưỡng học (Human nutrition) của ĐH Massey.

Điểm chung của chương trình giáo dục New Zealand là đề cao kỹ năng thực hành. ĐH Otago và ĐH Auckland có phòng khám dịch vụ cho người dân, do giảng viên và sinh viên đảm trách điều trị.

Cụ thể, sinh viên ĐH Otago có thể tham gia phòng khám vật lý trị liệu để thực hành chăm sóc bệnh nhân. Sinh viên ĐH Auckland có nhiều lựa chọn thực hành khám chữa bệnh trong mảng phục hồi chức năng (rehab), dinh dưỡng (nutriotion and dietetic), nhãn khoa, thính giác, tâm lý, chữa trị bệnh lý về rối loạn ngôn ngữ…

Ngoài kiến thức chuyên môn, chương trình giáo dục xứ kiwi khuyến khích sinh viên phát triển kỹ năng giao tiếp chuyên ngành. Tuần lễ sự kiện “Population health intensive week” của ĐH Auckland mở ra cơ hội để các bạn theo học ngành khoa học sức khỏe, dược… thực hành tình huống thực tế, trao đổi theo nhóm.

Bên cạnh yếu tố đa dạng ngành và môi trường học chất lượng, Chính phủ New Zealand luôn tạo điều kiện để sinh viên tìm được việc làm sau tốt nghiệp. Nếu không muốn phát triển sự nghiệp ở xứ sở kiwi, các bạn trẻ có thể tận dụng tấm bằng quốc tế nhóm ngành sức khỏe để tìm công việc tại các quốc gia phát triển.

Trong khuôn khổ chuỗi sự kiện “Chìa khóa du học New Zealand 2021”, Viện ISB – ĐH Kinh tế TP.HCM hợp tác Cơ quan Giáo dục New Zealand (Education New Zealand – ENZ) tổ chức lớp học trải nghiệm (Taster class).

Tại lớp học, học sinh, sinh viên Việt Nam được tương tác trực tiếp với giảng viên từ các trường đại học hàng đầu New Zealand (ĐH Otago, ĐH Massey, ĐH Lincoln, ĐH Công nghệ Auckland, ĐH Auckland) và cập nhật xu hướng nghề nghiệp của ngành học.

10 lớp học giúp học sinh, sinh viên có thêm kiến thức về ngành học chủ lực tại New Zealand, từ đó đưa ra lựa chọn cho tương lai. Độc giả cập nhật thông tin và đăng ký học tại đây.

Hình thức: Học trực tuyến trên Zoom | Thời gian: 7/11-28/11.

Nguồn: https://zingnews.vn/ly-do-nhom-nganh-khoa-hoc-suc-khoe-hut-sinh-vien-o-new-zealand-post1277578.html

Tiếp tục đọc

Du học

Vì sao ngành giáo dục New Zealand được người trẻ quan tâm?

Được phát hành

,

Bởi

Có nhiều hơn một lý do để người trẻ theo đuổi công việc trong lĩnh vực giáo dục. Họ đã lựa chọn học và phát triển sự nghiệp tại New Zealand.

Nganh giao duc New Zealand anh 1

Không chỉ có những cơ sở đào tạo ngành sư phạm lâu đời với bằng cấp được công nhận quốc tế, nền giáo dục New Zealand ghi điểm bởi triết lý giáo dục tiến bộ, đề cao sự đa dạng trong tư duy – văn hóa và hướng người học đến việc rèn luyện sự phản biện.

Tôn trọng sự đa dạng

Không định hướng tất cả người học đạt kết quả đồng nhất, môi trường giáo dục New Zealand chú trọng phương pháp “strength based” – tôn trọng thế mạnh của mỗi cá nhân.

Theo đó, chương trình giáo dục hướng đến việc trang bị tư duy cởi mở cho người học nói chung và sinh viên sư phạm nói riêng, cũng như kỹ năng áp dụng nền tảng vốn có để giải quyết những vấn đề mới, phức tạp.

Điển hình là môn học về khía cạnh văn hóa của giáo dục (Te Hononga Tangata Cultural Dimensions of Education) trong chương trình Bachelor of Teaching (cử nhân giáo dục) của ĐH Waikato.

Thông qua môn học này, sinh viên sư phạm được tìm hiểu văn hóa Maori (văn hóa bản địa của New Zealand), mở rộng hiểu biết về giao tiếp ứng xử trong môi trường giáo dục đa văn hóa và tăng nhận thức về “danh tính văn hóa” (cultural identities).

Nganh giao duc New Zealand anh 2
Nguyễn Như Quỳnh đánh giá cao chương trình giáo dục ở New Zealand và quyết định gắn bó với vùng đất này.

Sau khi hoàn thành chương trình Sư phạm Tiểu học tại ĐH Canterbury, Nguyễn Như Quỳnh hiện là giáo viên của trường Beckenham Te Kura ō Pūroto (Christchurch, New Zealand). Quá trình học tập và giảng dạy tại xứ kiwi giúp Quỳnh nhận ra mục tiêu của giáo dục là hướng đến việc cá nhân hóa, thay vì tạo ra những “sản phẩm sao chép”.

“Tôi rất ấn tượng với nền giáo dục New Zealand, không gò ép theo quy chuẩn cứng nhắc, rập khuôn mà linh hoạt điều chỉnh giáo trình và phương thức. Sự khác biệt, đa dạng luôn được chào đón tại xứ sở kiwi. Điều này đảm bảo cơ hội tiếp cận tri thức công bằng cho người học”, Như Quỳnh chia sẻ.

Triết lý giáo dục “thắp lửa thay vì đổ đầy”

Một khía cạnh ưu việt của nền giáo dục New Zealand là chương trình đào tạo chú trọng “thắp lửa” để người học khao khát tìm kiếm tri thức. Trong hành trình đó, người học được trao quyền để tự do sáng tạo.

Đây cũng là triết lý mà TS Bùi Thị Bích Thủy (Senior Tutor – giảng viên chương trình tiếng Anh học thuật tại ĐH Lincoln) thấm nhuần từ khi còn là nghiên cứu sinh. Suốt quá trình giảng dạy, nữ giảng viên cũng xây dựng triết lý giáo dục dựa trên nền tảng này: Giúp người học trau dồi tư duy phản biện để tự tin phá vỡ định kiến, từ đó thúc đẩy khả năng sáng tạo.

“Tôi tin rằng đích đến của giáo dục là trang bị kỹ năng tự học cho sinh viên, vì thời lượng và kiến thức cơ bản trong mỗi khóa học rất giới hạn. Giảng viên phải lựa chọn cách dạy phù hợp với lối học tập cũng như trình độ người học, tạo điều kiện để sinh viên có cơ hội đào sâu suy nghĩ”, chị Thủy phân tích.

Đó là lý do trong quá trình giảng dạy, chị Thủy yêu cầu sinh viên thường xuyên tự soi chiếu để biết bản thân đã học được gì, mong muốn điều gì và định hướng con đường tiếp theo ra sao.

Nganh giao duc New Zealand anh 3
Tiến sĩ Bùi Thị Bích Thủy – Senior Tutor – giảng viên chương trình tiếng Anh học thuật tại ĐH Lincoln.

Lộ trình học đa dạng để phát triển trong lĩnh vực giáo dục

Một trong những ưu thế của nền giáo dục New Zealand là tính linh hoạt và cá nhân hóa lộ trình học. Chính phủ New Zealand thường xuyên cập nhật các chương trình đào tạo trong lĩnh vực giáo dục để đáp ứng nhu cầu thị trường, giúp người học phát huy năng lực.

Chẳng hạn sinh viên lựa chọn chương trình Bachelor of Teaching của ĐH Waikato có thể trở thành giáo viên mầm non, giáo viên tiểu học với lộ trình 3 năm. Sinh viên quốc tế đang có bằng cử nhân thuộc ngành khác và muốn chuyển hướng sang giáo dục có thể trau dồi thêm với một năm chuyên ngành Sư phạm tiểu học của ĐH Canterbury.

Để trở thành giáo viên trung học (secondary education), sinh viên có nhiều lựa chọn về lộ trình học: Cử nhân Giáo dục đi kèm một chuyên ngành giảng dạy; hoàn thành chương trình cử nhân chuyên ngành và theo học chương trình Graduate Diploma of Teaching (nhận chứng chỉ đào tạo trung học) tại ĐH Auckland; thạc sĩ giáo dục trung học tại ĐH Otago.

Nganh giao duc New Zealand anh 4
Sinh viên có nhiều lựa chọn lộ trình học khi theo đuổi ngành sư phạm tại New Zealand.

Nếu yêu thích giảng dạy Anh ngữ, chương trình Bachelor of Arts majoring in Tesol hay Bachelor of Education Tesol – cử nhân Sư phạm giảng dạy tiếng Anh – là lựa chọn nên cân nhắc. Những người không đặt mục tiêu làm giáo viên nhưng có thiên hướng tìm hiểu chuyên sâu mảng tâm lý – hành vi, xã hội học trong lĩnh vực giáo dục có thể theo học chương trình Bachelor of Arts majoring in Education – cử nhân Giáo dục tại ĐH Auckland.

Bằng cấp được công nhận quốc tế, lộ trình học tập linh hoạt giúp sinh viên không chỉ tiếp nhận kiến thức mà còn được rèn luyện tư duy giáo dục cởi mở… là những ưu thế nổi bật của chương trình đào tạo ngành giáo dục tại New Zealand. Điều này giúp người học đón nhận nhiều cơ hội phát triển trong ngành giáo dục, không chỉ tại New Zealand – thị trường lao động có nhu cầu nhân lực lớn trong mảng sư phạm ở nhiều bậc học – mà còn ở thị trường tiềm năng như Việt Nam, cùng nhiều quốc gia có nền giáo dục tiên tiến khác.

Trong khuôn khổ chuỗi sự kiện “Chìa khóa du học New Zealand 2021”, Viện ISB – ĐH Kinh tế TP.HCM hợp tác Cơ quan Giáo dục New Zealand (Education New Zealand – ENZ) tổ chức lớp học trải nghiệm (Taster class). Tại lớp học, học sinh, sinh viên Việt Nam được tương tác trực tiếp với giảng viên từ các trường đại học hàng đầu New Zealand (ĐH Otago, ĐH Massey, ĐH Lincoln, ĐH Công nghệ Auckland, ĐH Auckland) và cập nhật xu hướng nghề nghiệp của ngành học.

10 lớp học giúp học sinh, sinh viên có thêm kiến thức về ngành học chủ lực tại New Zealand, từ đó đưa ra lựa chọn cho tương lai. Độc giả cập nhật thông tin và đăng ký học tại đây.

Hình thức: Học trực tuyến trên Zoom. Thời gian: 7/11-28/11.

Nguồn: https://zingnews.vn/vi-sao-nganh-giao-duc-new-zealand-duoc-nguoi-tre-quan-tam-post1276706.html

Tiếp tục đọc

Du học

Cựu du học sinh nói về hệ thống Colleges tại ĐH Oxford

Được phát hành

,

Bởi

College tại ĐH Oxford (Anh) giống một trường đại học thu nhỏ với sinh viên từ nhiều ngành học khác nhau nhưng không có chức năng đào tạo đối với chương trình thạc sĩ, tiến sĩ.

PGS.TS Phan Phi Anh, công tác tại ĐH Oxford, nghiên cứu về ngành Thiết bị y tế, TS Chu Công Sơn (hoàn thành chương trình tiến sĩ về Siêu vật liệu từ trường) cùng chị Trần Mỹ Ngọc (cựu sinh viên chương trình thạc sĩ về Giáo dục ngôn ngữ của ĐH Oxford) đều khẳng định tất cả College (bao gồm Linacre College) đều không có chức năng đào tạo, giám sát học tập của sinh viên từ bậc thạc sĩ trở lên. Việc này do các khoa (department) quản lý.

DH Oxford anh 1

Thạc sĩ Trần Mỹ Ngọc (thứ hai từ trái sang) tại St Cross College. Ảnh: NVCC.

College không có chức năng đào tạo bậc thạc sĩ trở lên

PGS.TS Nguyễn Phi Anh, TS Chu Công Sơn, thạc sĩ Trần Mỹ Ngọc cho biết Oxford là viện đại học với cấu trúc liên bang. Các trường đại học thành viên cũng giống từng bang với hệ thống quản lý, tài chính độc lập (trừ 3 trường St Cross, Reuben và Kellogg). Vai trò của colleges với sinh viên phụ thuộc vào bậc học.

Đối với bậc cử nhân, college có chức năng chính là đào tạo và cung cấp chỗ sinh hoạt, tạo môi trường học thuật tốt nhất cho sinh viên. Tại đây, cả sinh viên theo học hệ thống tutorials (gia sư) và giáo sư, người phụ trách giảng dạy, thường là thành viên của college, cùng hoạt động và sinh hoạt chung tại trường.

Mặc dù có chức năng đào tạo, các college không có quyền đánh giá chấm điểm và phải thông qua hội đồng ĐH Oxford khi muốn cấp bằng cho sinh viên.

Sinh viên của tất cả college phải tham gia một kỳ thi cuối kỳ (đề chung) tại Examination Schools. Các college chấm bài chéo. Thành tích của từng college sẽ được đánh giá thông qua điểm thi của sinh viên hàng năm trên bảng Norrington.

Ngược lại với bậc học cử nhân, college không có nghĩa vụ đào tạo, giảng dạy cho sinh viên ở bậc học thạc sĩ trở lên. Việc này sẽ do từng khoa phụ trách. Linacre College là college cho sinh viên hệ sau đại học. Do đó, trường không có chức năng đào tạo. College chỉ tập trung cung cấp chỗ sinh hoạt, giao lưu, chia sẻ học thuật cho sinh viên. Tương tự bậc đại học, việc đánh giá điểm môn học/bài luận tốt nghiệp sẽ do khoa thực hiện, kết quả về cho từng college để cấp bằng (vẫn phải thông qua hội đồng ĐH Oxford).

Tên của college được ghi trên bằng tốt nghiệp nhưng không tạo ra nhiều sự khác biệt. Nó chỉ mang tính chất thông tin giống như ghi quê quán trong chứng minh nhân dân.

PGS.TS Nguyễn Phi Anh, TS Chu Công Sơn, thạc sĩ Trần Mỹ Ngọc thông tin thêm mỗi college có hệ thống quản lý, tài chính độc lập nhưng việc tuyển sinh vẫn phải thông qua hội đồng ĐH Oxford.

Trong hồ sơ, thí sinh được đặt danh sách ưu tiên 3 trường mà mình muốn vào nhất. Song điều này không bắt buộc. Họ có thể không lựa chọn.

Các colleges không đóng vai trò gì trong việc tuyển sinh. Sau khi nhận tin đỗ từ hội đồng trường, thí sinh sẽ được một college (mà có ngành thí sinh theo học) lựa chọn. Ba trường thí sinh ưu tiên sẽ đưa ra lựa chọn trước.

Nếu cả 3 trường không chấp nhận thí sinh, hồ sơ của người này sẽ được gửi sang các trường đại học thành viên khác. Sinh viên không chấp nhận lựa chọn của college đồng nghĩa việc từ chối theo học tại ĐH Oxford.

Mỗi college đều có hệ thống thư viện, nhà ăn (hall), ký túc xá, lớp học, và giảng đường riêng. Tuy nhiên, thông thường, mỗi college có số lượng phòng nhất định, chỉ những sinh viên may mắn mới đăng ký được chỗ trong trường mới ở tại college.

Những người khác có thể ở tại các khu dân cư trực thuộc quản lý của college hoặc tự thuê nhà, miễn là trong bán kính 15-20 km từ trường.

DH Oxford anh 2

Hội Sinh viên Việt Nam ở Oxford ăn tối tại Harris Manchester College năm 2016. Ảnh: NVCC.

Nơi gặp gỡ, trao đổi giữa sinh viên các ngành khác nhau

PGS.TS Phan Phi Anh, TS Chu Công Sơn và thạc sĩ Trần Mỹ Ngọc đánh giá khi theo học tại ĐH Oxford, mỗi college giống như một trường đại học thu nhỏ, bao gồm sinh viên từ nhiều các ngành học khác nhau.

Điều này cho phép sinh viên gặp gỡ, học hỏi, trao đổi với bạn bè từ các lĩnh vực khác, tiếp xúc với nhiều nhân sinh quan khác nhau từ đó tạo ra môi trường học tập đa ngành nghề.

TS Chu Công Sơn cho biết anh theo học ngành kỹ thuật nhưng tại Harris Manchester College, anh tiếp xúc sinh viên theo học các lĩnh vực xã hội như Triết học, Thần học. Anh cảm thấy nhờ đó, mình được mở mang tầm mắt, học hỏi từ bạn bè cùng trang lứa.

Tương tự, thạc sĩ Mỹ Ngọc chia sẻ nhờ hệ thống college ở Oxford, chị làm quen với các bạn bên khoa Quản trị kinh doanh (MBA), Khoa học phân tử và các ngành khoa học đa dạng khác, mở rộng hiểu biết về các ngành nghề mà mình chưa từng được biết tới.

“Tôi cũng may mắn có cơ hội xây dựng mối quan hệ tốt với giáo sư qua các buổi tiệc tối tại college”, chị Ngọc tâm sự.

Các college cũng có những đặc sắc đáng nhớ với cựu sinh viên. Theo TS Công Sơn, Harris Manchester College là trường dành cho học sinh trưởng thành (từ 21 tuổi trở lên) ở mọi bậc học.

Anh đánh giá Harris Manchester là một trong những college có đồ ăn ngon với chi phí hợp lý nhất so với các college khác. Trường chuyên về các ngành xã hội, kinh tế, triết học, đặc biệt là thần học.

Trong khi đó, St Cross College của em thạc sĩ Trần Mỹ Ngọc là trường cho sinh viên hệ sau đại học, mỗi năm có khoảng 250 người học.

Chị Mỹ Ngọc kể đồ ăn tại đây rất ngon. Bên cạnh đó, 40% người học là sinh viên quốc tế. Không khí rất thân thiện và đa dạng văn hóa. Trường hay tổ chức hội chợ để sinh viên học hỏi về các nền văn hóa khác nhau.

Ngoài ra, mỗi sinh viên có 3 cố vấn, một người tư vấn về các vấn đề học thuật, một người về các vấn đề cuộc sống, tâm lý và người còn lại về vấn đề liên quan công việc, cơ hội việc làm. Trong một kỳ, sinh viên phải sắp xếp ít nhất 1-2 buổi với mỗi cố vấn để trường nắm được tình hình học sinh.

Nói về mô hình college tại ĐH Oxford, TS Chu Công Sơn lưu ý thêm mọi người hay đánh giá các trường theo số tiền trường có nhưng điều này không đúng.

Theo anh, người học không được quyền lựa chọn college. Các trường thành lập vào năm khác nhau. Với những trường lâu đời, cựu sinh viên đều là những quý tộc hồi xưa, thường từ thiện cho trường cũ. Vì thế, các college này thường rất giàu.

Trong khi đó, những college mới thành lập như Linacre, St cross hay Harris Manchester nghèo hơn.

“Hệ thống tuyển sinh, đánh giá, cấp bằng không phụ thuộc vào college nên có thể nói là chất lượng từng college không phụ thuộc vào sự giàu nghèo của từng college”, TS Chu Công Sơn nói thêm.

Nguồn: https://zingnews.vn/cuu-du-hoc-sinh-noi-ve-he-thong-colleges-tai-dh-oxford-post1275655.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng