Connect with us

Sách hay

Luật thời trang và những phong cách nổi tiếng từng bị cấm

Được phát hành

,

Lịch sử thời trang và đặc sắc của nhiều phong cách đã được tái hiện qua cuốn “Dress Codes: How the Laws of Fashion Made History”.

Cuốn sách mới Dress Codes: How the Laws of Fashion Made History của Richard Thompson Ford đã khám phá lịch sử của các quy định và đạo luật thời trang trong suốt những năm qua. Trong số có bốn mặt hàng thời trang từng gây nhiều tranh cãi trong suốt lịch sử.

Giày cao gót

Khi những kỵ sĩ Ba Tư lần đầu tiên cưỡi ngựa vào châu Âu vào năm 1599, đôi giày cao gót của họ đã khiến mọi người kinh ngạc. Ford cho biết: “Phần gót được thiết kế để vừa với bộ yên ngựa. Và bởi vì những người cưỡi ngựa này rất nam tính, mạnh mẽ và ấn tượng nên nhiều nam giới châu Âu muốn sử dụng giày cao gót để có được vẻ đẹp tương tự”. Tầng lớp quý tộc sau đó đã làm cho cho gót giày của họ ngày càng cao hơn và ngày càng so kè về điều đó. Vào những năm 1670, vua Louis XIV thậm chí đã ban hành một sắc lệnh nói rằng không ai được đi giày cao gót hơn nhà vua.

Lich su thoi trang the gioi anh 1

Giày cao gót từng được nam giới ưa chuộng trong suốt nhiều thế kỷ trước. Ảnh: Getty Images/ WireImage.

Phụ nữ, ngoại trừ một số tín đồ thời trang, đã tránh đi giày cao gót nam tính cho đến thế kỷ 18. Vào lúc này, nam giới dần chuyển sang vào những đôi giày trang nhã hơn còn giày của phụ nữ trở nên mỏng hơn, cao hơn và đa dạng về thiết kế hơn.

Từng là biểu tượng của quyền lực, trong thời gian gần đây, giày cao gót đã trở thành dấu hiệu đàn áp đối với một số phụ nữ vì ức chế vận động hay thay đổi cấu trúc bàn chân. Phụ nữ đã kiện các công ty yêu cầu họ mang giày cao gót tại văn phòng và các nữ diễn viên cũng tổ chức các cuộc phản đối các sự kiện bắt buộc phải đi giày cao gót trên thảm đỏ.

Hoa tai vòng vàng

Vào mùa hè năm 1416, cảnh sát bắt giữ một phụ nữ được xác định là “Allegra, vợ của Joseph” tại thành phố Ferrara của Italy. Hành động này là do cô xuất hiện trước công chúng mà không đeo hoa tai vòng vàng, được coi là vật xác định cô là người Do Thái.

Lich su thoi trang the gioi anh 2

Hoa tai đã trở thành đồ trang sức ưa thích của tất cả phụ nữ. Ảnh: Shutterstock.

Khi các gia đình Do Thái bắt đầu di cư đến miền bắc nước Italy, khoảng những năm 1200, phụ nữ đều đeo bông tai. Khi thấy phụ nữ trong vùng đều tránh xa đồ trang sức, nhiều người Do Thái đã làm theo. Điều đó khiến các giáo sĩ lo ngại.

Ford nói: “Các nhà chức trách lo lắng về sự dễ dàng đồng hóa của người Do Thái và người ngoại đạo vào xã hội Cơ đốc giáo. Họ muốn có sự khác biệt rõ ràng để mọi người có thể biết một người Do Thái xuất hiện trên đường phố. Và vì vậy có luật bắt buộc [phụ nữ Do Thái] phải đeo hoa tai, cụ thể là hoa tai vòng vàng”.

Trớ trêu thay, những quy định xung quanh bông tai vàng này khiến chúng trở nên hấp dẫn hơn đối với những phụ nữ không được phép đeo. Ford nói: “Đây là một trong những điều hấp dẫn về thời trang. Thời trang khuyến khích mọi người thể hiện cá tính độc đáo của riêng họ”. Cuối cùng, thời trang hoa tai cũng đã chiến thắng.

Váy xếp nếp

Năm 1746, sau nhiều năm chiến đấu, người Anh cuối cùng đã đánh bại lực lượng Jacobite chiến đấu cho độc lập của Scotland. Để củng cố quyền lực và dập tắt cuộc nổi dậy, Quốc hội Anh đã thông qua một loạt các đạo luật giải tán quân đội Scotland, tước bỏ vũ khí và cấm một số loại trang phục, thậm chí cả váy xếp nếp.

Lich su thoi trang the gioi anh 3

Nữ hoàng Anh cũng thích và có những chiếc váy xếp nếp của riêng mình. Ảnh: Getty Images.

Những người bị bắt gặp mặc quần áo, hoặc thậm chí chỉ mặc đồ kẻ sọc, sẽ bị tống vào tù sáu tháng mà không được tại ngoại. Lần vi phạm thứ hai có thể bị chuyển đến một trong những đồn điền ở nước ngoài của Vương quốc Anh trong bảy năm.

Nhưng thay vì ngăn cản người Scotland mặc trang phục thể hiện tinh thần dân tộc, đạo luật này khiến váy xếp nếp trở nên phổ biến hơn. Đạo luật này sau đó đã bị bãi bỏ vào năm 1782.

Áo hoodie

Lich su thoi trang the gioi anh 4

Cuốn sách thú vị về thời trang ra mắt ngày 9/2. Ảnh: Amazon.

Chiếc áo hoodie, áo có mũ trùm đầu tiện dụng lần đầu tiên được những người lao động ngoài trời mặc ở ngoại ô New York lạnh giá, đã trở thành một biểu tượng ở Thung lũng Silicon (khi các CEO công nghệ như Mark Zuckerberg mặc nó).

Ford cho biết: “Trong thế giới công nghệ, một chiếc áo hoodie phù hợp tương đương với bộ vest hiện đại. Nó thể hiện tính cần cù, nghiêm túc, chỉn chu. Nhưng khác với vest, nó được coi là chỉ phù hợp với nam giới da trắng. Một người đàn ông da màu mặc áo hoodie có thể sẽ rơi vào trường hợp như Trayvon Martin, người đã bị bắn vì mọi người cho rằng anh ta nguy hiểm”.

Kể từ khi Martin chết, nhiều trường học tại Mỹ đã cấm áo hoodie vì nhiều lý do khác nhau, một số nói rằng chiếc mũ trùm che khuất khuôn mặt của người mặc, số khác thì vì bạo lực băng đảng hoặc để ngăn trẻ em nghe AirPods trong giờ học.

Bất chấp những nỗ lực đó, áo hoodie vẫn được ưa chuộng hơn bao giờ hết. Theo nền tảng thời trang toàn cầu Lyst, từ cuối năm 2019 đến cuối năm 2020, lượt tìm kiếm áo hoodie đã tăng 71%.

Nguồn: https://zingnews.vn/luat-thoi-trang-va-nhung-phong-cach-noi-tieng-tung-bi-cam-post1182725.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tiểu sử Steve Jobs

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn tiểu sử do cựu thư ký tòa soạn của tạp chí Time, Walter Isaacson biên soạn, dựa trên 40 cuộc phỏng vấn với Steve Jobs trong 2 năm, cùng các cuộc phỏng vấn với hơn 100 người thân, bạn bè, đồng nghiệp và đối thủ của ông. Tác phẩm cung cấp cho người đọc một cái nhìn sâu sắc về nhân cách và cả những thành tựu của cuộc đời Steve Jobs. Cuốn sách cũng chứa đựng những điều Steve Jobs muốn nói với thế giới.

Raskin hình dung chiếc máy tính đó sẽ được bán với giá 1.000 đôla và là một cỗ máy đơn giản với màn hình, bàn phím và phần cứng gói gọn trong một thiết bị.

Jef Raskin là kiểu người có thể làm mê hoặc cũng như khiến Jobs cảm thấy khó chịu. Đôi lúc, ông biểu hiện cả hai. Ông thuộc kiểu người triết lý, vừa ham chơi lại vừa cần cù, chăm chỉ. Raskin từng theo học khoa học máy tính, tham gia dạy nhạc và nghệ thuật thị giác. Ông cũng từng thành lập một công ty nghệ thuật biểu diễn nhạc thính phòng và tổ chức những buổi biểu diễn bí mật.

Luận văn Tiến sĩ bảo vệ năm 1967 tại trường U.C. San Diego của ông đã đưa ra luận điểm: Những chiếc máy tính nên có giao diện hiển thị cả đồ họa thay vì chỉ có ký tự văn bản thông thường. Khi đã thấy chán ngán với công việc giảng dạy, ông thuê một chiếc khinh khí cầu, bay trên nóc nhà Hiệu trưởng và hét thật to rằng ông đã quyết định nghỉ việc.

Khi Jobs cần tìm một người có khả năng viết một cuốn sách hướng dẫn cho Apple II năm 1976, ông đã gọi cho Raskin, lúc đó cũng đang sở hữu một công ty tư vấn nhỏ. Raskin tới gara, cảnh tượng đầu tiên ông bắt gặp là Wozniak đang cặm cụi làm việc ở góc bàn. Và Jobs đã thuyết phục Raskin viết cuốn sách hướng dẫn với giá 50 đô-la. Sau này, ông trở thành Quản lý Bộ phận Xuất bản của Apple.

Macbook anh 1

Chiếc macbook gắn liền với tên tuổi Steve Jobs và thương hiệu Apple. Ảnh: The Washington Post.

Một trong những ước mơ của Raskin là chế tạo ra một dòng máy tính giá rẻ phân phối tới đa số người dùng. Vì vậy, năm 1979, ông thuyết phục Mike Markkula cho ông chủ trì một dự án phát triển sản phẩm nhỏ mang tên “Annie” để thực hiện ước mơ này. Raskin cho rằng có đôi chút thành kiến phân biệt giới khi đặt tên cho những chiếc máy tính theo tên của phụ nữ, vậy nên ông đã đổi lại tên của dự án đó theo loại táo yêu thích của mình: McIntosh. Sau đó, để tránh gây hiểu nhầm với một hãng sản xuất thiết bị âm thanh có tên McIntosh Laboratory, ông đã thay đổi cách ghép âm thành Macintosh.

Raskin hình dung chiếc máy tính đó sẽ được bán với giá 1.000 đô-la và là một cỗ máy đơn giản với màn hình, bàn phím và phần cứng gói gọn trong một thiết bị. Để giảm giá thành sản phẩm, ông đề xuất chiếc máy sẽ có màn hình 5 inch nhỏ nhắn và một bộ vi xử lý giá rẻ (và lì máy) có tên là Motorola 6809. Raskin thích thú tự coi mình là một triết gia.

Ông đã viết ra những suy nghĩ của mình trong một cuốn sách được nhiều người biết đến mang tên The Book of Macintosh (Câu chuyện về Macintosh). Ngoài ra, thỉnh thoảng ông cũng đưa ra những “bản tuyên ngôn” về công nghệ. Một trong số đó là “Máy tính của hàng triệu người” và nó bắt đầu với một khát vọng: “Nếu những chiếc máy tính cá nhân thật sự là của cá nhân, thì khi chọn ngẫu nhiên một gia đình, sẽ không thể có trường hợp một hộ chỉ sở hữu một chiếc máy.”

Trong suốt năm 1979 và đầu năm 1980, dự án Macintosh duy trì sự tồn tại hời hợt. Cứ khoảng vài tháng, nó lại đứng trước nguy cơ bị “xóa sổ”. Mỗi lần như vậy, Raskin lại phỉnh phờ thành công, Markkula lại mở lòng nhân từ. Nhóm phát triển Macintosh lúc đó chỉ có bốn kỹ sư, hoạt động tại trụ sở ban đầu của Apple cạnh nhà hàng Good Earth, cách trụ sở mới của công ty vài dãy nhà.

Không gian làm việc ở đây được trang trí với rất nhiều đồ chơi và các máy bay mô hình hoạt động bằng sóng radio (một niềm đam mê của Raskin) để mang lại cảm giác như một trung tâm chăm sóc hàng ngày cho những “con mọt công nghệ”. Thỉnh thoảng, công việc sẽ được tạm gác lại để nhường chỗ cho những trận chơi ném bóng. Andy Hertzfeld nhớ lại: “Trò chơi này làm cho mọi người cảm thấy rất hứng thú với những tấm bìa cứng sử dụng để che chắn khi chơi. Văn phòng lúc đó giống như một đống hỗn độn.”

Ngôi sao của nhóm là một kỹ sư trẻ có mái tóc vàng, mắt to tròn, hiền hậu với khả năng tập trung tâm lý cao độ, tên là Burrell Smith. Anh là một người tôn sùng công việc viết mã lệnh của Wozniak và luôn khao khát, cố gắng hết mình để có thể tạo ra những thành công sáng chói như vậy. Atkinson đã nhận ra tài năng của Smith khi làm tại bộ phận dịch vụ của Apple.

Ông thật sự kinh ngạc khi chứng kiến khả năng ứng biến với các bản vá lỗi của Smith và đã giới thiệu anh cho Raskin. Smith sau này đã không chống đỡ được chứng bệnh tâm thần phân liệt, nhưng vào đầu thập niên 1980, anh đã thành công khi có thể chuyển sự bất thường trong tâm lý của mình sang niềm hăng say làm việc suốt cả tuần của một tài năng trong ngành công nghệ.

Tầm nhìn của Raskin đã mê hoặc Jobs, chứ không phải bởi sự sẵn sàng thỏa hiệp để giảm thiểu chi phí của ông. Một ngày mùa thu năm 1979, Jobs nói rằng ông muốn Raskin tập trung vào chế tạo sản phẩm mà ông nhắc đi nhắc lại là “vô cùng tuyệt vời.” Jobs nói: “Đừng quá lo lắng về giá cả, hãy tập trung vào khả năng đáp ứng người sử dụng của máy tính.”

Raskin đáp lại lệnh của Jobs bằng một bản ghi nhớ có đôi chút châm biếm. Nó đưa ra tất cả những thứ mà bạn sẽ muốn ở một chiếc máy tính lý tưởng: Màn hình màu có độ phân giải cao, một chiếc máy in không có băng mực với tốc độ in màu một trang một giây, truy cập không giới hạn vào hệ thống mạng ARPA cùng khả năng nhận dạng giọng nói và tổng hợp nhạc, “thậm chí mô phỏng lại giọng hát của Caruso cùng đội hợp xướng thánh ca với âm vang ở mọi cung độ.”

Bảng ghi nhớ đó kết luận: “Việc bắt đầu với những đặc tính mà chúng ta mong muốn là điều ngu xuẩn. Chúng ta phải bắt đầu dựa trên cả việc định hướng giá cả lẫn tập hợp những chức năng mong muốn, dựa trên xu hướng công nghệ tại thời điểm triển khai và tương lai gần.” Nói cách khác, Raskin hầu như không có đủ sự kiên nhẫn đối với niềm tin của Jobs, rằng bạn có thể thay đổi hiện thực nếu bạn có đủ niềm đam mê để phát triển sản phẩm của mình.

Vì vậy, giữa họ đã xảy ra xung đột, đặc biệt sau khi Jobs bị tách ra khỏi dự án Lisa vào tháng 9 năm 1980 và bắt đầu tìm cách để chứng minh quan điểm của mình nhằm tạo ra sự khác biệt. Rõ ràng mục tiêu nhắm đến của ông không gì khác ngoài dự án Macintosh.

Những tuyên bố của Raskin về một chiếc máy tính giá rẻ phục vụ số đông với giao diện đồ họa đơn giản, thiết kế tinh gọn đã làm ông trăn trở rất nhiều. Và một điều hiển nhiên là, một khi Jobs đã hạ quyết tâm thực hiện dự án Macintosh thành công, tương lai của Raskin chỉ còn được tính bằng ngày. Joanna Hoffman, một thành viên của nhóm Mac, nhớ lại: “Steve bắt đầu hành động theo những gì mà ông nghĩ chúng tôi cần phải làm, Jef cũng bắt đầu nghiền ngẫm và nhanh chóng tìm được lời giải cho vấn đề.”

Xung đột đầu tiên liên quan đến việc Raskin sùng bái bộ vi xử lý yếu kém Motorola 6809. Raskin muốn giữ giá của máy Mac dưới 1.000 đô-la trong khi quyết tâm của Jobs là chế tạo ra một dòng máy thật sự tuyệt vời, tuyệt vời đến kinh ngạc. Vì vậy, Jobs bắt đầu tập trung toàn lực chuyển đổi máy Mac sang dùng bộ vi xử lý cấu hình mạnh hơn với tên gọi Motorola 68000, cái mà dòng Lisa đang sử dụng. Ngay trước lễ Giáng sinh năm 1980, ông đã yêu cầu Burrell Smith thiết kế một bản mẫu sử dụng dòng chip mạnh hơn mà không nói với Raskin.

Giống như “người anh hùng” Wozniak từng làm, Smith làm việc thâu đêm suốt sáng, liên tục trong ba tuần liền và đã tìm ra những bước nhảy ngoạn mục trong lập trình. Khi Smith thành công, Jobs có cớ gây sức ép chuyển sang sử dụng bộ vi xử lý Motorola 68000, khiến Raskin phải cân nhắc và tính toán lại chi phí của Mac.

Nguồn: https://znews.vn/macbook-ra-doi-the-nao-post1533731.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Dám làm

Được phát hành

,

Bởi

“Dám làm: Những bài học về lãnh đạo của tôi tại GE” ghi lại những kinh nghiệm và bài học của Jeff Immelt, cựu CEO của General Electric (GE), từ thời gian lãnh đạo tập đoàn này.

Tôi là một gã chăm “cày cuốc” đích thực, một tín đồ chân chính, đã có hình xăm “thịt viên” của GE (cách người trong nhà gọi logo của công ty) bên eo trái để làm bằng chứng.

Năm 2001, tôi trở thành CEO của một công ty, nơi nhận thức không tương đương với hiện thực. Công ty tôi kế thừa từ Jack Welch có một văn hóa hùng mạnh và những con người tuyệt vời. Nhưng chúng tôi đã cạn kiệt ý tưởng. Một năm trước, khi đang điều hành GE Healthcare, tôi đã cố mua một công ty siêu âm tên Acuson, nhưng Jack gạt đi vì nó nằm ở Mountain View, California và “dân ở đấy điên lắm”.

Tôi không đồng tình; địa điểm của nó sẽ cho chúng tôi một bàn đạp (như nó đã mang lại cho đối thủ Siemens của chúng tôi, tập đoàn về sau đã mua lại nó) tại Thung lũng Silicon, thiên đường của đổi mới. Trong khi một số người trong nội bộ GE tin rằng công ty chắc chắn sẽ ăn nên làm ra mãi mãi, song tôi lại lo lắng rằng chúng tôi đã trở nên quá trì trệ và thiếu óc tò mò.

Than chu anh 1

Hình ảnh Jeff Immelt gắn liền với thương hiệu GE. Ảnh: CNBC.

Trong ít nhất một thập kỷ, chúng tôi đã sử dụng gã khổng lồ dịch vụ tài chính GE Capital để thúc đẩy tăng trưởng và hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp của mình. Nhưng khi tôi tiếp quản chức vụ, rất hiếm nhà quan sát hiểu được rằng chúng tôi đã đầu tư ít ỏi đến mức nào vào các doanh nghiệp công nghiệp đó.

Chúng tôi là một tập đoàn đa ngành cồng kềnh, ôm đồm đủ mọi thứ từ động cơ phản lực đến mạng truyền hình hay hợp đồng bảo hiểm cho chó mèo. Tuy nhiên, chúng tôi được định giá như một công ty công nghệ, về cơ bản là được giao dịch ở mức cao hơn đáng kể so với giá trị của các doanh nghiệp mà chúng tôi có.

Vì vậy, khi lên làm CEO, tôi đã nỗ lực cải tổ công ty, tái đầu tư vào danh mục đầu tư công nghiệp, cải thiện công nghệ và mở rộng dấu ấn toàn cầu của chúng tôi. Và tôi đã làm điều đó mà không hở một lời tiêu cực nào về Jack Welch.

Đó là một lựa chọn đầy rủi ro. Rất khó thúc đẩy thay đổi trong khi đội ngũ của bạn cảm thấy mọi thứ đều đã hoàn hảo. Nhưng vào thời điểm đó, cách tiếp cận này có vẻ đúng đắn. Người tiền nhiệm của tôi được xem là CEO tốt nhất trong lịch sử. Hy vọng của tôi là bảo tồn di sản của ông bằng cách khắc phục những chỗ mà tôi thấy là đã hỏng hóc trước khi chúng kịp hủy hoại chúng tôi.

Nhưng quá thường xuyên trong nhiệm kỳ của tôi, mong muốn bảo vệ GE bằng cách phát triển nó phải bị đặt xuống hàng thứ yếu khi các cuộc khủng hoảng đe dọa thành công của công ty – và nhiều khi là chính sự tồn vong của nó.

Đối với tôi, GE là một câu chuyện không thể đậm tính cá nhân hơn. Tôi là con trai của người đã làm đại diện thu mua của GE suốt 38 năm. Trước khi trở thành CEO, tôi đã bước lên từng nấc thang trong công ty, học hỏi tại ba mảng của GE. Tôi là một gã chăm “cày cuốc” đích thực – một tín đồ chân chính, đã có hình xăm “thịt viên” của GE (cách người trong nhà gọi logo của công ty) bên eo trái để làm bằng chứng. (Tôi sẽ nói thêm về vụ đó sau).

Tôi là gã cuối tuần nào cũng làm việc, là gã không bao giờ tiêu một xu để trang trí văn phòng của riêng hắn, là gã mang tem mình tự mua đến công ty để dán lên thư cá nhân. Nếu tôi có một câu thần chú, thì đó sẽ là: Tôi không phải trung tâm, GE mới là trung tâm.

Nguồn: https://znews.vn/than-chu-cua-ceo-tap-doan-da-quoc-gia-post1533409.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Bộ não đau buồn

Được phát hành

,

Bởi

Sách mang đến một góc nhìn mới nhưng không kém phần hấp dẫn về ảnh hưởng của nỗi đau đối với bộ não và phương pháp bộ não mã hóa tình yêu của con người đối với người thân, giúp chúng ta hiểu rõ nguồn gốc của nỗi đau khi không còn người thân bên cạnh và giải pháp vượt qua các cảm xúc khủng hoảng đó.

Bạn đang sử dụng bản đồ não để đi tới đi lui trong không gian quen thuộc này, thân thể bạn sẽ đến nơi mà não bạn đã gửi nó đi.

Khi giải thích mặt sinh học thần kinh của nỗi đau buồn, tôi thường bắt đầu bằng một phép ẩn dụ dựa trên một trải nghiệm quen thuộc. Tuy nhiên, để phép ẩn dụ này dễ hiểu, bạn phải chấp nhận một giả thiết. Giả thiết ấy là có kẻ nào đó đã trộm mất chiếc bàn ăn nhà bạn.

Tưởng tượng là bạn trở mình dậy khát khô lúc nửa đêm. Bạn bước khỏi giường và đi tới phía bếp lấy một ly nước. Xuống hành lang, bạn băng qua phòng ăn tối đen về phía nhà bếp. Đúng lúc hông bạn đáng ra sắp va vào góc cứng bàn ăn, bạn cảm thấy… hừm, bạn cảm thấy gì? Không gì hết. Bạn đột nhiên nhận ra là bạn không cảm thấy có bất cứ điều gì ở chỗ cao ngang hông bạn.

Đó là điều bạn nhận ra được, bạn không cảm thấy có điều gì đó, điều gì đó cụ thể. Chuyện vắng mặt thứ gì đó là điều đã thu hút bạn chú ý. Điều này thật lạ kỳ, ta thường nghĩ phải là điều gì đó mới thu hút ta chú ý, làm sao không gì cả có thể thu hút ta chú ý?

Ban do anh 1

Não bộ có một cơ chế vận hành đặc biệt. Ảnh: Science Magazinee.

Vâng, thực tế là bạn không chỉ bước đi trong mỗi thế giới này. Hay chính xác hơn, hầu hết thời gian là bạn đang cùng bước đi trong hai thế giới. Trong đó một thế giới là bản đồ thực tế ảo được tạo nên hoàn toàn trong đầu bạn. Não bạn đang dịch chuyển con người bạn xuyên qua bản đồ ảo mà nó đã tạo ra, đó là lý do tại sao bạn có thể đi lại quanh nhà khá dễ dàng trong bóng đêm; bạn hiện không sử dụng thế giới bên ngoài để định hướng. Bạn đang sử dụng bản đồ não để đi tới đi lui trong không gian quen thuộc này, thân thể bạn sẽ đến nơi mà não bạn đã gửi nó đi.

Bạn có thể coi bản đồ não ảo về thế giới này như bản đồ Google trong đầu bạn. Bạn đã từng bao giờ trải nghiệm làm theo chỉ dẫn di chuyển bằng giọng nói mà hoàn toàn không chú ý nơi mình đang lái xe tới chưa? Có lúc giọng nói yêu cầu bạn rẽ vào một con đường, song bạn phát hiện ra đó thực ra là đường cho xe đạp.

GPS và thế giới thực không phải lúc nào cũng khớp nhau. Giống bản đồ của Google, bản đồ não dựa trên thông tin trước đó nó có về khu vực. Tuy nhiên, để giữ an toàn cho bạn, não có những khu vực chuyên dành phát hiện lỗi, nhận biết bất kỳ tình huống nào bản đồ não và thế giới thực không khớp nhau. Nó chuyển sang thông tin thị giác nhận vào mỗi khi một lỗi được phát hiện (và nếu trời tối, thì ta sẽ quyết định bật đèn).

Ta dựa vào bản đồ não vì việc dẫn dắt cơ thể theo bản đồ tâm trí sẽ bớt tốn công tính toán lại rất nhiều so với xuyên qua ngôi nhà quen thuộc như thể đó là trải nghiệm đầu tiên, như thể mỗi lần lại phải khám phá lại vị trí của ô cửa, bức tường và đồ nội thất, rồi quyết định làm sao định vị và đi qua từng thứ.

Không ai mong đợi bàn ăn nhà họ bị trộm mất. Và càng không ai mong đợi người thân yêu mất. Ngay cả khi một người bị bệnh trong một thời gian rất dài, cũng không ai biết được để bước tiếp trên thế giới này mà không có họ thì sẽ ra sao.

Là một nhà khoa học, đóng góp của tôi là nghiên cứu nỗi đau buồn từ góc độ của não, từ góc độ mà não đang cố giải quyết một vấn đề khi đối diện việc người quan trọng nhất cuộc đời ta không còn.

Nỗi đau buồn là một vấn đề đau lòng thắt ruột mà não phải giải quyết và việc đau buồn đòi hỏi bạn phải học cách sống trong một thế giới vắng mặt người bạn yêu thương đậm sâu, người đã khắc ghi vào hiểu biết trong bạn về thế giới. Điều này có nghĩa là đối với não, người thân yêu của bạn mất đi nhưng đồng thời cũng còn mãi, và bạn đang bước xuyên qua hai thế giới cùng một lúc. Bạn đang phải lèo lái cuộc sống của mình dù thực tế là nó đã bị cướp mất khỏi bạn, một giả thiết vô nghĩa, vừa khó hiểu vừa khó chịu.

Nguồn: https://znews.vn/vi-sao-ban-di-chuyen-duoc-trong-bong-dem-post1533397.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng