Connect with us

Sách hay

Diễn từ nhận Nobel Văn học 2020 của Louise Glück

Được phát hành

,

Louise Glück nói về ý nghĩa “riêng tư, thân mật” của thi ca và “nỗi sợ” khi nhận giải Nobel Văn học 2020, trong diễn từ hôm 7/12.

Khi còn là một đứa trẻ khoảng năm hay sáu tuổi gì đó, tôi tự biên tự diễn một cuộc thi trong đầu, để quyết định bài thơ nào hay nhất thế giới. Có hai tác phẩm vào chung kết – The Little Black Boy của William Blake và Swanee River của Stephen Foster. Đi đi đi lại lại trong phòng ngủ nhà bà mình ở Cedarhurst, một ngôi làng ở bờ nam Long Island, tôi thích lẩm nhẩm trong đầu những bài thơ không thể quên của Blake hơn là đọc ra miệng, và tôi hát, cũng từ trong tâm trí, khúc hát ám ảnh, hoang vắng của Foster. Việc tôi tìm đọc Blake thật kỳ bí. Tôi nghĩ một tập thơ của ông đã lạc giữa những cuốn sách chính trị, lịch sử và tiểu thuyết của bố mẹ. Nhưng tôi nghĩ tôi đã đọc sách của ông ở nhà bà. Bà tôi không phải người mê sách. Nhưng bà có cuốn The Songs of Innocence and of Experience và vài cuốn sách nhỏ in bài hát trong các vở kịch của Shakespeare, nhiều bài trong số đó tôi đã thuộc lòng. Tôi đặc biệt yêu thích khúc hát trong vở kịch Cymbeline, dù chẳng hiểu từ nào, tôi thích nghe giai điệu, âm thanh, những câu mệnh lệnh, chúng kích thích một đứa trẻ rụt rè và hay sợ hãi. “Và mộ các ngươi sẽ được nổi tiếng”. Tôi đã hy vọng thế.

Những cuộc thi kiểu này, vì danh dự, vì phần thưởng lớn lao, dường như là lẽ tự nhiên với tôi; những huyền thoại đầu tiên mà tôi đọc có đủ những điều đó. Từ khi tôi còn nhỏ, bài thơ vĩ đại nhất thế giới với tôi dường như là bài thơ có sự vinh danh lớn lao nhất. Đây cũng là cách tôi và em gái mình được nuôi dạy, để cứu nước Pháp như Joan of Arc, để khám phá ra chất phóng xạ như Marie Curie. Sau này, tôi bắt đầu hiểu những nguy hiểm và hạn chế của tư duy thứ bậc, nhưng trong thời thơ ấu của tôi, việc trao giải vô cùng quan trọng. Một người đứng trên đỉnh núi có thể được nhìn thấy từ rất xa, họ là thứ duy nhất đáng chú ý trên núi. Những người ở dưới thấp hơn thì như thể vô hình.

Louise Glück sinh năm 1943 ở New York, là tác giả của 12 tuyển tập thơ, một tiểu luận về thi ca. Bà là chủ nhân giải Nobel Văn học 2020. Ảnh: Pw.

Louise Glück sinh năm 1943 ở New York, là tác giả của 12 tuyển tập thơ, một tiểu luận về thi ca. Bà là chủ nhân giải Nobel Văn học 2020. Ảnh: Pw.

Hoặc, trong trường hợp này, là bài thơ. Tôi cảm thấy chắc chắn rằng Blake đặc biệt biết đến cuộc thi của tôi, quan tâm đến kết quả của nó. Tôi hiểu ông đã chết, nhưng tôi cảm thấy ông vẫn còn đâu đây, tôi nghe thấy giọng nói của ông, dù nó đã được nguỵ trang, đích thị là ông. Tiếng nói ấy, tôi cảm thấy chỉ dành cho tôi, đặc biệt cho tôi. Tôi nghĩ mình là người được chọn để hưởng đặc ân này; tôi cũng cảm thấy Blake là người mà tôi khao khát được trò chuyện, cùng Shakespeare, người tôi từng đối thoại.

Advertisement

Blake là người chiến thắng cuộc thi. Nhưng sau này tôi đã nhận ra điểm giống nhau giữa hai bài thơ trữ tình đó; trong quá khứ và hiện tại, tôi bị cuốn vào giọng nói đơn độc của con người, cất lên giữa những khát khao, nuối tiếc. Và các nhà thơ tôi quay lại đọc khi lớn lên là những người mà tôi, một người nghe được chọn, được đóng một vai trò quan trọng trong tác phẩm của họ. Họ không nói với đám đông. Không nói với chính mình.

Tôi thích thỏa thuận này, thích cảm giác tin rằng những gì bài thơ truyền tải thật thiết thực và riêng tư, thông điệp được một linh mục hay nhà phân tích đều tiếp nhận.

Lễ trao giải trong phòng ngủ phụ nhà bà tôi, dường như sự bí ẩn của nó đã mở rộng mối quan hệ mãnh liệt mà một bài thơ tạo ra: mở rộng, chứ không phải xâm phạm.

Blake đã nói với tôi về cậu bé da đen bé nhỏ, ông là nguồn gốc của giọng nói bí ẩn đó. Ông không thể hiện hình, cậu bé da đen cũng không thể bị nhìn thấy, hoặc bị nhìn nhận một cách hời hợt bởi cậu bé da trắng thiếu nhạy cảm và khinh người. Nhưng tôi biết điều ông nói là đúng, rằng tấm thân phàm trần của ông chứa một linh hồn thuần khiết rực rỡ; tôi biết qua điều mà cậu bé da đen nói, lời kể của cậu về cảm xúc, những trải nghiệm của cậu, không có sự oán trách, không khao khát trả thù, chỉ có niềm tin rằng, trong thế giới hoàn hảo mà cậu được hứa hẹn sẽ đến sau khi chết, cậu sẽ được công nhận như chính con người mình. Và trong niềm vui sướng dâng trào, cậu nhắn nhủ hãy bảo vệ đứa trẻ da trắng khỏi những tia sáng chói lọi đột ngột. Đây không phải một hy vọng thực tế, nó đã bỏ qua những điều thực tế, khiến bài thơ trở nên chua xót và mang thông điệp chính trị sâu sắc. Sự tổn thương và nỗi uất hận chính đáng mà cậu bé da đen không cho phép mình cảm nhận, sự che chở của mẹ cậu, đã tác động đến người đọc. Kể cả khi độc giả đó chỉ là trê con.

Nhưng việc được công chúng tôn vinh lại là chuyện khác.

Advertisement

Những bài thơ mà tôi tâm huyết suốt đời thuộc kiểu tôi đã miêu tả, chúng có mối liên kết thân mật với người nghe hoặc người đọc – họ nhận mọi tâm sự, những tiếng than thở và đồng cảm. “Tôi chẳng là ai!”, Emily Dickinson nói. “Em cũng chẳng là ai/ Chúng ta là một đôi – đừng nói nhé!”. Hay Eliot: “Hãy cùng bỏ đi, anh và em/ Khi bóng đêm lan trên vòm trời/ Như gã bệnh nhân nằm trên bàn cấp cứu”. Eliot không triệu tập một đội hướng đạo sinh. Ông đang đòi hỏi điều gì đó từ độc giả. Ngược lại, trong câu thơ, “Liệu tôi có thể sánh em với một ngày hè?” của Shakespeare, ông không đang so sánh tôi với “ngày hè”. Tôi được phép nghe lỏm chúng, dù bài thơ không đòi hỏi có sự hiện diện của tôi.

Louise Glück trả lời báo chí sau khi chiến thắng giải Nobel Văn học tại nhà riêng ở Massachusetts (Mỹ). Bà sẽ xuất bản tác phẩm mới vào mùa thu năm sau. Ảnh: Reuters.

Louise Glück trả lời báo chí sau khi chiến thắng giải Nobel Văn học tại nhà riêng ở Massachusetts (Mỹ). Bà sẽ xuất bản tác phẩm mới vào mùa thu năm sau. Ảnh: Reuters.

Trong những tác phẩm tôi bị thu hút, tiếng nói, sự phán xét của đám đông vô cùng nguy hiểm. Những câu đối thoại thân mật làm gia tăng sức mạnh mong manh của nó và tiếp thêm nghị lực cho người đọc, những người lắng nghe được lời khẩn cầu, tâm sự bức bách ẩn trong đó.

Chuyện gì sẽ xảy ra với một nhà thơ kiểu này khi công chúng hoan nghênh và đề cao họ, thay vì chê bai hoặc phớt lờ. Tôi cho rằng họ sẽ cảm thấy bị đe dọa, áp đảo.

Đây là chủ đề Dickinson thường đề cập, không dày đặc, nhưng khá thường xuyên.

Tôi đọc Emily Dickinson say sưa nhất là hồi thiếu niên, thường là lúc đêm muộn, sau giờ đi ngủ, trên sofa phòng khách.

Advertisement

“I’m nobody! Who are you?
Are you nobody, too?”

(Tôi chẳng là ai! Em là ai?
Phải chăng em cũng chẳng là ai?)

Và, trong bản tôi đọc khi ấy, tôi thích nhất câu:

“Then there’s a pair of us – don’t tell!
They’d banish us, you know…”

(Vậy chúng ta là một đôi – đừng nói ra nhé
Họ sẽ lưu đày chúng ta, em biết không…)

Advertisement

Dickinson đã chọn tôi, hoặc nhận ra tôi, khi tôi ngồi đó trên sofa. Chúng tôi là một tinh hoa, những người bạn đồng hành vô hình, sự thật này chỉ chúng tôi biết, và mỗi bên lại chứng thực cho người kia. Trong thế giới này, chúng tôi chẳng là ai.

Nhưng điều gì sẽ tạo nên sự lưu đày đối với những người tồn tại như chúng tôi, trong nơi an toàn của mình, dưới một khúc gỗ? Sự lưu đày là khi khúc gỗ bị nhấc đi.

Ở đây, tôi không nói về tác động xấu của Emily Dickinson với các cô gái tuổi teen. Tôi đang nói về việc không tin tưởng vào cuộc sống đám đông hoặc coi đó là cõi mà sự khái quát làm lu mờ sự chính xác, và sự thật luôn bị giấu diếm. Ví dụ: nếu giọng nói của Dickinson bị thay thế bởi giọng quan tòa: “Chúng tôi chẳng là ai cả, anh là ai?”. Thông điệp bỗng trở nên nguy hiểm.

Thật bất ngờ, ngày 8/10 (ngày trao giải Nobel Văn học), tôi đã cảm thấy hoảng loạn như tôi từng miêu tả. Hào quang chói lóa. Tầm vóc lớn lao.

Nhiều người viết mong muốn tiếp cận nhiều độc giả. Nhưng một số nhà thơ không đề cao sự tiếp cận về mặt không gian, chẳng hạn như các căn phòng chật kín người. Họ đặt mục tiêu đạt được nhiều thứ theo tuần tự thời gian, ở thì tương lai, theo một cách sâu xa, những độc giả sẽ đến, lần lượt từng người một.

Advertisement

Tôi tin rằng khi trao cho tôi giải thưởng này, Viện Hàn lâm Thụy Điển đã chọn tôn vinh giọng nói thân mật, riêng tư, mà công chúng đôi khi có thể cùng góp lời để tăng thêm hoặc mở rộng, nhưng không bao giờ có thể thay thế.

>> Nguyên văn bản tiếng Anh diễn từ nhận giải Nobel của Louise Glück

Hà Thu (theo: Nobelprize)

Nguồn: https://vnexpress.net/dien-tu-nhan-nobel-van-hoc-2020-cua-louise-gl-ck-4203141.html

Advertisement
Tiếp tục đọc
Quảng cáo

Sách hay

Lịch sử chưa kể về ramen

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một khảo cứu thú vị về lịch sử món mì ramen ở Nhật Bản thông qua lăng kính phân tích và mối liên hệ chặt chẽ của món ăn với địa lý, chính trị, quan hệ đối ngoại, khoa học dinh dưỡng, truyền thông và bản sắc dân tộc.

Một bản ghi chép còn bảo toàn được từ tháng 7 năm 1665 cho thấy Zhu Shun Shui đã chỉ cho Mitsukuni (cận vệ của Tokugawa Mitsukuni) cách chế biến một món mì nước kiểu người Hoa.

Mì ramen được giới thiệu lần đầu đến Nhật Bản vào năm 1665, năm 1884 hay năm 1910? Tiền thân của nó liệu có phải là món ăn được gọi với cái tên ūshin udon, Nankin soba hay Shina soba? Tùy thuộc vào câu trả lời mà chúng ta sẽ nghiệm suy về từng món ăn khác nhau với một giai thoại nguồn cội riêng, cùng một quỹ đạo lịch sử đặc thù mang đến các góc nhìn cụ thể về đất nước Nhật Bản. […]

Mi ra men anh 1

Bìa cuốn sách

Giai thoại đầu tiên, và cũng sống động nhất, đã xuất hiện ban đầu trong công trình nghiên cứu mang tính tiên phong về lịch sử của mì ramen (được xuất bản năm 1987) của nhà sử học về ẩm thực Kosuge Keiko, trong đó ấn định thời điểm món ăn này được trình làng là vào những năm 1660, đồng thời cho rằng Tokugawa Mitsukuni (tên khác là Mito Kōmon, 1628 − 1701) – vị lãnh chúa huyền thoại thời phong kiến (daimyō) nắm hàng thứ hai sau Mạc chủ (shōgun) (1) – là người đầu tiên thưởng thức món mì ramen ở Nhật Bản.

Là nhân vật lịch sử nổi tiếng ở Nhật và từng được một bộ phim truyền hình dài tập mô tả như một vị hảo hán, ở gần cuối mỗi tập phim, Tokugawa Mitsukuni thường tiết lộ danh tính của mình cho những kẻ xấu bằng cách để lộ ra hình ảnh chiếc inrō (hộp đựng trang trí sơn mài kích cỡ nhỏ) có khắc gia huy của dòng họ ông, cho thấy ông là vị daimyō trong vùng.

Advertisement

Câu thoại “Ngươi không nhận ra gia huy này sao?” (Kono mondokoro ga me ni hairanuka?) được Kaku-san (cận vệ của Mitsukuni) nhắc lại trong đoạn cao trào của mỗi tập phim nhằm khôi phục lại trật tự và cấp bậc, và khiến những kẻ bất lương ngang ngược phải lập tức cầu xin sự khoan hồng.

Một bản ghi chép còn bảo toàn được từ tháng 7 năm 1665 về các hoạt động của Mitsukuni cho thấy rằng Zhu Shun Shui – một người Trung Quốc tị nạn khỏi chính quyền nhà Minh sống ở Mito vào thời điểm đó (2) – đã chỉ cho Mitsukuni cách chế biến một món mì nước kiểu người Hoa nhiều khả năng chính là món mì ramen ngày nay (3).

Mặc dù Mitsukuni được biết đến nhiều nhất trong lịch sử Nhật Bản khi đã khởi xướng kế hoạch kỳ vĩ biên soạn nên Dai Nihon Shi – hay Lịch sử vĩ đại của Nhật Bản – một cuốn sách mất gần 250 năm và mười thế hệ để hoàn thành, ông cũng là một người ca tụng triết học Lý học (Neo- Confucianism) (4) và đã tìm đến Trung Quốc để được soi đường chỉ lối cách trị nước.

Ông do vậy đã tham vấn và kết giao với Zhu, người trước đó từng nắm chức thượng quan ở Trung Quốc dưới thời nhà Minh nhưng quyết định đến Nhật Bản vào năm 1665 do phải lưu vong khỏi chế độ cai trị của Mãn Châu.

Mi ra men anh 2

Lãnh chúa Tokugawa Mitsukuni. Nguồn: wikipedia.

Zhu trở thành một trong những cố vấn quan trọng nhất của Mitsukuni, và làm việc trong chính quyền cai trị của ông này trong 17 năm tiếp theo cho đến khi qua đời vào năm 1682. Vai trò quan trọng của Zhu trong đội ngũ cố vấn của vị daimyō đã giúp ông có được một cuộc sống thoải mái, cùng một bia mộ nổi bật còn tồn tại cho đến ngày nay trong khu nghĩa trang của gia tộc Tokugawa nhánh Mito (5).

Advertisement

Trong thời gian hầu cận daimyō, Zhu biết được rằng Mitsukuni là một người rất thích ăn udon – loại mì nước hiện vẫn phổ biến ở Nhật Bản – với sợi mì làm từ bột mì sử dụng với nước dùng dashi (làm từ cá ngừ khô và tảo bẹ).

Vào thế kỷ 17, người Nhật thường ăn mì udon với quả mơ ngâm (umeboshi) và vừng. Thấy vậy, Zhu đã gợi ý về năm thành phần thường được sử dụng trong món mì nước Trung Quốc để vị daimyō vùng Mito có thể thêm vào nhằm cải thiện hương vị của món ăn. Năm thành phần (ūshin) mà ông chủ ý đề xuất gồm: rễ kiệu (rakkyō), tỏi, hẹ tỏi (nira), hành lá và gừng (6).

Từ những dữ kiện này, nhà sử học về ẩm thực Kosuge phỏng đoán rằng Tokugawa Mitsukuni chính là cha đẻ của tập tục ăn mì nước Trung Quốc ở Nhật Bản. Sau này Bảo tàng Ramen ở Shin-Yokohama đã phổ biến rộng rãi câu chuyện trên, và kết quả là vào năm 2003, Tập đoàn Thực phẩm Nissin của Nhật Bản nhà sản xuất mì ramen ăn liền lớn nhất thế giới – trong một thời gian ngắn đã cho ra – mắt nhãn hiệu mì ăn liền U-shin có in hình gia huy của gia tộc Tokugawa, được điểm tô bằng giai thoại về Mitsukuni và Zhu.

Mặc dù khó xác định liệu món ăn từng được ưa chuộng bởi vị lãnh chúa nổi tiếng của vùng Mito kia tương thích ra sao với món ăn ngày nay được gọi với cái tên “mì ramen”, cần ghi nhớ rằng câu chuyện được lưu truyền rộng rãi ở trên về sự xuất hiện tại Nhật Bản của món mì nước kiểu người Hoa đã thiết lập nên một giai thoại nguồn cội trong giai đoạn đầu của kỷ nguyên hiện đại – một thời đại được đánh dấu bằng việc người Nhật có xu hướng học hỏi người Trung Quốc.

Mặc dù câu chuyện trên được coi như một phiên bản bao trùm đầy lôi cuốn về nguồn gốc của món ăn, với đầy đủ các nhân vật ngoài đời thực cùng những tương tác tưởng tượng dựa trên các cách diễn giải không thành kiến đối với những ghi chép lịch sử, nó có ý nghĩa quan trọng trong việc nhấn mạnh sự ngưỡng mộ của người Nhật đối với một nước Trung Quốc thời tiền Thanh.

Advertisement

—————-

1. Một tước hiệu đặc biệt dành cho những vị tướng quân có chức vụ cao nhất trong thời kỳ phong kiến của Nhật Bản. (ND)

2. Khi triều đại nhà Thanh củng cố quyền lực của mình lên miền nam Trung Quốc, một số học giả Nho giáo làm việc cho chính quyền nhà Minh đã trốn sang Đại Hàn và Nhật Bản để làm cố vấn.

3. Kosuge Keiko, Nippon Rāmen Monogatari: Chūka soba wa itsu doko de umareta ka (Tokyo: Shinshindō, 1987), tr.45-59.

4. Tư tưởng triết lý Trung Quốc chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Lý học có thể được xem là nỗ lực hợp lý hóa cũng như thế tục hóa Nho giáo bằng cách loại bỏ các yếu tố mê tín, huyền bí của Đạo giáo và Phật giáo, vốn từng được đưa vào Nho giáo trong và sau đời nhà Hán. (ND)

Advertisement

5. Sĩ quan hải quân người Mỹ. (ND)

6. Cho đến năm 1854, khi Hiệp ước Perry đầu tiên có hiệu lực, triều đại Tokugawa ở Nhật Bản đã duy trì chính sách tránh tiếp xúc với các cường quốc phương Tây (ngoài Hà Lan) trong hơn hai thế kỷ để hạn chế tình trạng hỗn loạn do những nỗ lực cải đạo của các nhà truyền giáo Cơ đốc ở Nhật Bản. Riêng Hà Lan đã đồng ý giới hạn mối quan hệ giữa hai nước chỉ trong lĩnh vực thương mại, kết quả là Hà Lan trở thành quốc gia châu Âu duy nhất duy trì quan hệ thương mại và ngoại giao với Nhật Bản từ năm 1639 đến năm 1854.

Nguồn: https://znews.vn/giai-thoai-ve-su-xuat-hien-cua-mi-ramen-mon-an-quoc-dan-nhat-ban-post1455469.html

Advertisement
Tiếp tục đọc

Sách hay

Nóng giận là bản năng tĩnh lặng là bản lĩnh

Được phát hành

,

Bởi

Trong cuốn sách, tác giả Tống Mặc đã trò chuyện với độc giả về cách kiềm chế cơn nóng giận, học cách bao dung, kiểm soát cảm xúc của mình trước những tác động của cuộc sống.

Ai chẳng có lúc giận dữ, nóng giận là hạt mầm được gieo vào tâm ta từ lúc mới chào đời. Nhưng kìm chế cơn giận là bản lĩnh cần rèn luyện mỗi ngày.

Kim che con gian anh 1

Thái độ điềm tĩnh sẽ giúp con người dễ dàng vượt qua nghịch cảnh, đón nhận thử thách. Ảnh: P.G.

Điềm đạm là sự điềm tĩnh xuất phát từ nội tâm. Cổ nhân cho rằng: “Điềm tĩnh dưỡng thần, phật dịch ô vật.” Ý muốn nói, điềm tĩnh có thể dưỡng tâm, giúp con người không phụ thuộc vào thứ bên ngoài. Điềm tĩnh nói đến một thái độ sống “lùi”, vạn sự thuận theo tự nhiên, người giữ được tinh thần như vậy, chắc chắn có thể làm tốt việc dưỡng tâm.

Hiện giờ, ngày càng có nhiều người theo đuổi việc “dưỡng sinh”. Dưỡng sinh gồm có dưỡng tâm, dưỡng tính và dưỡng thân. Nhưng rất nhiều người chỉ quan tâm đến việc dưỡng thân, cho rằng chỉ cần chăm sóc cơ thể cho thật đẹp đẽ, khỏe mạnh, thì có thể hưởng thụ cuộc sống lâu dài. Cho nên, số người có thể kiên trì hàng ngày tập luyện thể thao, ăn uống lành mạnh thì nhiều, nhưng số người có thể kiên trì dưỡng tâm hàng ngày lại rất ít.

Advertisement

Có một bà mẹ cực kỳ chú trọng việc dưỡng sinh. Gặp ai cô ấy cũng thao thao bất tuyệt về đạo lý dưỡng sinh, về việc mỗi ngày phải ăn cái gì, ăn bao nhiêu, ăn thế nào, vận động bao lâu… Cô ấy nói hết lần này đến lần khác: Chỉ có làm như vậy, mới không bị bệnh! Nhưng mỗi lần nghe những điều này, tôi đều thấy rất lạ. Một người ngày nào cũng bận rộn chuẩn bị đồ ăn lành mạnh cho bản thân từ sáng đến tối, sợ mình ăn phải đồ ăn không tốt sẽ sinh bệnh, không thể sống thọ, ngày nào cũng lo lắng như vậy, liệu có vui vẻ được không?

Nếu như chúng ta dư ỡng sinh mà không bắt đầu từ việc dưỡng tâm dưỡng tính, trong lòng sẽ có nhiều phiền não, có nhiều ham muốn. Như vậy, “hạnh phúc” mà chúng ta được hưởng chỉ dừng ở mức ăn ngon mặc đẹp và cơ thể khỏe mạnh, đó không phải cuộc sống thăng hoa chân chính.

Đại sư Hoằng Nhất cho rằng điềm đạm là “điều đầu tiên của việc dưỡng tâm”. Điềm đạm mà ngài nói tới suy cho cùng là cần con người phải tĩnh tâm. Thế gian này bao chuyện phiền não, dễ ảnh hưởng đến tâm lý của con người.

Kim che con gian anh 2

Cuốn sách Nóng giận là bản năng, tĩnh lặng là bản lĩnh mang đến cho người đọc nhiều lời khuyên hữu ích. Ảnh: Chi.

Cho nên, nhiều người nghĩ rằng tâm mình không tĩnh là vì đang bị quá nhiều chuyện quấy nhiễu. Thật ra, ta bị quấy rầy không phải vì những chuyện phiền nhiễu trên đời, mà vì tâm không tĩnh. Khi chúng ta có thể tách khỏi tất cả sự vật bên ngoài, cho dù ở trong hoàn cảnh nào, ta cũng có thể hưởng thụ cuộc sống an nhàn thực sự.

Trong xã hội hiện thực này, rất nhiều chuyện sẽ làm cho chúng ta “dao động”.

Advertisement

Khi một người mỗi ngày kiếm được 10 đồng, chỉ đủ để ăn no, anh ta cảm thấy rất thoải mái, nhưng lại mơ mỗi ngày kiếm được 100 đồng; khi kiếm được 100 đồng mỗi ngày, anh ta lại cảm thấy mệt hơn trước rất nhiều, và không thấy hài lòng lắm, bởi vì có người mỗi ngày kiếm được 1.000 đồng.

Anh ta làm việc chăm chỉ hơn, cuối cùng cũng có thể kiếm 1.000 đồng mỗi ngày, anh ta bắt đầu mua xe, mua nhà, sống cuộc sống tốt đẹp mà anh ta từng ao ước, nhưng anh ta lại bắt đầu hướng về cuộc sống mỗi ngày kiếm được 10.000 đồng…

Chúng ta luôn rơi vào một vòng tròn kỳ lạ như vậy. Chúng ta luôn cho rằng khi đạt được điều gì mình mong đợi đã lâu, trong lòng sẽ cảm thấy yên tâm, hài lòng, từ đó có thể hạnh phúc. Nhưng sau khi đạt được điều mình muốn, ta lại có cảm giác cũng chỉ thế mà thôi. Những ham muốn lớn hơn nối tiếp nhau, mục tiêu ngày càng cao, và chúng ta càng ngày càng mệt hơn.

Do đó, một người sau khi có biệt thự, xe hơi, anh ta càng không hạnh phúc, bởi anh ta lo sợ một ngày nào đó sẽ mất đi cuộc sống như vậy, do đó đành phải dốc sức làm việc nhiều hơn, ép bản thân phải kiếm được 100.000 mỗi ngày, nếu chỉ kiếm được 80.000 thì thở dài ngao ngán.

Ngày nào cũng sống trong nỗi sợ mất đi danh lợi, gánh áp lực khủng khiếp, làm sao mà không sinh bệnh cho được? Dĩ nhiên, không phải con người không thể sống như vậy, danh lợi vốn là sự theo đuổi lớn nhất cuộc đời đối với một người bình thường.

Advertisement

Nhưng ý ở đây muốn nói, nếu như cuộc sống như vậy làm cho chúng ta cảm thấy thêm áp lực, thêm phiền muộn, không hề có cảm giác hạnh phúc, thì bạn hoàn toàn có thể suy nghĩ theo hướng khác.

Không nhất thiết phải từ bỏ những thứ như biệt thự, xe hơi, chỉ cần từ bỏ việc cố chấp gắn bó với những thứ này, dù kiếm được 1.000.000 mỗi ngày cũng không ngạo mạn, mà mỗi ngày kiếm được 10 đồng cũng không chán chường, muốn ăn thì ăn, muốn ngủ thì ngủ, không cần gượng ép bản thân, bạn có thể cảm nhận được sự hạnh phúc ngay lập tức.

Người có nội tâm điềm đạm là người ngay cả khi mặc một chiếc áo vải, ăn một bữa cơm đạm bạc, vẫn có thể an nhàn thoải mái, không có chút cảm giác khó chịu hay không vui nào. Cho dù đối mặt với phiền não và sinh tử, họ cũng có thể thản nhiên đối diện, trong lòng không một chút gợn sóng đau khổ, không cần ăn ngon mặc đẹp vẫn cảm thấy yên bình và hạnh phúc.

[…]

Nguồn: https://znews.vn/kim-che-con-gian-la-ban-linh-can-co-cua-nguoi-truong-thanh-post1455101.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tuổi ấy mình yêu

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn tản văn “Tuổi ấy mình yêu” ghi lại nhiều ký ức về Hà Nội của thế hệ 6X, 7X. Khi ấy thành phố tuy còn nhiều gian khó nhưng đầy lãng mạn với những biệt thự cổ rêu phong, cùng những thanh niên tha thiết yêu đời!

Dòng thời gian miên man đưa ta về những kỷ niệm ấu thơ không thể nào quên. Mùa hè nóng như đổ lửa, chẳng có điều hòa lẫn quạt điện, chỉ đành phe phẩy quạt nan xua đi cái nóng.

Tuoi ay minh yeu anh 1

Cảnh mấy đứa trẻ ngồi ở bể nước công cộng để mẹ tắm rửa là hình ảnh quen thuộc thời bao cấp. Ảnh: Fclikr.

Ở miền ôn đới mà nhiệt độ lên tới 40 thì không thể không coi là sự kiện. Vì thế mà ai chưa kịp trẻ lại, gầy đi, chết vì nóng thì cứ, rất nhiều người thích, tranh thủ cởi gần hết cho da có màu suy nghĩ. Cái màu này, Tây và ngay cả ta chưa từng trải đời này dăm chục năm tha hồ suy nghĩ cũng chả biết là màu gì.

[…]

Advertisement

Thành phố uể oải trong hơi nóng làm người cứ lơ mơ, thương chả ra thương nhớ chẳng ra nhớ, cứ dằng dai lừng khừng. Chẳng biết có phải dân ở những xứ nóng động cái là sùng sục hừng hực lên là vì một năm mấy mùa đã tha hồ uể oải rồi không?

Chiều qua thứ bảy, chỉ còn mấy tiếng nữa cửa hàng cửa họ đóng, đóng cửa luôn ngày chủ nhật là ngày đến Chúa cũng không làm gì (mà còn làm làm gì, sửa sai thế nào được nữa sau khi đã tạo ra con người) nhưng nắng vẫn còn chấp chới trên bờ tường, ngọn cây, mái nhà. Say nắng trưa rồi, không dám đi xa, chỉ lếch thếch ra đầu phố xem có quả dưa hấu nào nhẹ hơn một yến để tha về ăn giải nhiệt chờ mưa.

Mưa thì chưa, dưa thì không nhẹ, chẳng mua bán gì nữa, đi về. Ngang qua cái quán nhỏ đầu phố thấy bàn nào cũng có người ngồi lơ mơ. Có ông lẩn mẩn lúc quờ cốc cà phê đưa lên môi lúc sờ cây bút bi chơi đố chữ.

Có mẹ nạ dòng cháu sớm phom dáng cực kì hùng tráng vẫn chẳng ngần ngại gọi cốc kem to cho xứng người, ăn thi với cháu. Có bà già lim dim mắt xếp tà váy rồi ngồi vắt chân đầy vẻ quý phái khiêu khích kiểu Marlene Dietrich, thay vì điếu thuốc trên tay lại thấy phảy một cái quạt giấy thật là xinh.

Kỷ vật của những ngày nắng hạ Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Tuynidi gì đó đây, không biết cụ mua hay cụ trai nào tặng, mùa hạ vừa đi qua hay từ đời thăm thẳm nỗi niềm nào.

Advertisement

Bất chợt thấy mình chậm bước. Bất chợt hình dung lại, ngày xưa, cũng quạt giấy như này. Bà tóc bạc vấn lẳn trong vành khăn trắng để “trở” ai trong họ chẳng biết. Bà đứng chờ tàu điện chỗ Ô Cầu Dền. Bà luôn luôn có cái quạt trong tay phe phảy cho cháu bám quẩn bên chân.

Bà ngồi chân co chân duỗi đầu tấm phản sau này hạ xuống che cái hầm trú ẩn đào ngay dưới gậm giường rồi cúi người vuốt ngay ngắn ống quần, mở âu giầu, tỉ mẩn tiện miếng vỏ quạch, xé mảnh lá giầu không, bổ nhỏ miếng cau đã bổ sáu từ trước, quết chút vôi trắng, nhúm chút thuốc lào rồi đưa lên miệng, rồi bận bịu dọi lại vành cái quạt nan, xếp lại cái quạt giấy, lầm thầm không biết là mắng đứa cháu nào dùng đồ xong buông quăng bỏ vãi, vô ý vô tứ chẳng biết của bền tại người.

Chao ôi những buổi chiều Hà Nội hết chiến tranh, đã khó nghèo càng thêm khó nghèo vì mẹ mất, nhưng bà còn đó cho chị em mình nương dựa, bà còn đó, giữ lại cho chị em mình những gì còn có thể giữ được, là sự ngây ngô quý giá nhất của tuổi ấu thơ.

Tuoi ay minh yeu anh 2

Cuốn tản văn Tuổi ấy mình yêu của nhà văn Lê Minh Hà. Ảnh: NXB Trẻ.

Cũng cái quạt giấy này, trong bàn tay con gái những ngày cuối cùng đến lớp, giấy trang kim màu tím, nan tre, thằng bạn ngồi bên giằng lấy hỏng luôn chỗ tay cầm, những cái nan rời nhau ra, thế mà nó ra sức khoát tay quạt cho cả mình với nó. Tức mà nghĩ tới những ngày sắp xa đi, gặp lại không biết có đủ tự tin như giờ vẫn hay gây sự với nhau, nghĩ tới cái compa dở hơi nó vẫn nhường mình trong giờ hình học, thôi im vậy.

Bà già váy hoa vẫn đang lơ mơ bên cốc kem phe phẩy cái quạt giấy rõ là xinh. Uể oải thì mình đang uể oải lắm rồi, nhưng có mơ đâu, mà cảm như từ đâu xưa hơi gió từ cái quạt giấy muôn đời. Chỉ phảy nhẹ phảng phất thôi đã đủ làm xao động hơi nóng ngày tháng hạ vì cái mùi hơi thum thủm của những nan quạt vót từ tre ngâm ao bùn.

Advertisement

Ở Hà Nội giờ hay gặp các bà đi tập dưỡng sinh. Khi biểu diễn dưỡng sinh, các bà mặc cả bộ sa tanh đỏ, cứ từng lúc lại khuỵu đầu gối trong tư thế cảm tử lao về phía trước, trong tay là cái quạt hình thù như cái quạt giấy mình quen pạch một cái đồng loạt xòe ra.

Chưa tới gần nên không biết nan quạt bằng tre bằng gỗ hay bằng nhựa, nhưng cái quạt cũng màu đỏ rực, lại có tua rua, xòe ra đều còn hơn các diễn viên hội đoàn tập múa, chỉ còn thiếu hai bím tóc ngắn vểnh ngang tai và trẻ đi dăm chục tuổi là gần bằng diễn viên kinh kịch Bắc Kinh nhảy một cái, xoạc chân một cái, cao giọng á a a trên sân khấu Hà Nội một thời.

Về với Hà Nội, cứ lần nào nhìn thấy những mảnh tam giác đỏ rực ấy chói lọi trong nắng sớm cũng giật mình.

[…]

Nguồn: https://znews.vn/mua-he-da-xa-post1455038.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Xu hướng