Connect with us

Sách hay

Đâu là đặc trưng của tình yêu nhục cảm?

Được phát hành

,

Tình yêu nhục cảm có bản chất “từ hai thành một” – có nghĩa là, hai cá thể riêng biệt, vì yêu nhau, mà có mong muốn được hòa vào làm một.

Nghe thuat yeu anh 1

Nghệ thuật yêu (tên tiếng anh là The Art of Loving) được nhà phân tâm học Erich Fromm xuất bản năm 1957. Cuốn sách đã được dịch ra 34 thứ tiếng với hàng triệu bản in.

Tại Việt Nam, trước năm 1975, từng có hai bản dịch tác phẩm này, của Tuệ Sỹ với nhan đề Tâm thức luyến ái, và của Giáo sư Thụ Nhân với tên gọi Phân tâm học về tình yêu.

Mới đây, sách được mua bản quyền theo ấn bản 2006 có bổ sung lời giới thiệu của nhà phân tâm học người Mỹ – Peter D. Kramer và phần phụ lục nói về cuộc đời và tác phẩm của Erich Fromm. Tác phẩm do dịch giả Lê Phương Anh chuyển ngữ và dịch giả Phạm Anh Tuấn góp ý, hỗ trợ về các thuật ngữ.

Năm loại tình yêu căn bản

Cuốn sách Nghệ thuật yêu ra đời trong bối cảnh của một xã hội phương Tây chìm đắm trong tư tưởng của chủ nghĩa lãng mạn. Tác phẩm hấp dẫn không hẳn vì nhan đề mà còn vì cuốn sách cung cấp những hiểu biết sâu về bản tính người liên quan đến “vấn đề của mọi vấn đề”: Lòng yêu thương.

Tuy tiếp cận yêu thương dưới cái nhìn của một nhà phân tâm học, Erich Fromm đã cố gắng diễn giải vấn đề bằng những ngôn từ khả dĩ mang ít tính chuyên môn nhất.

Bởi vậy, độc giả có thể coi cuốn sách này, vừa là một công trình nghiên cứu lý thuyết quan trọng, vừa là một cuốn sách tâm tình kín đáo, với những vấn đề gợi mở cho chúng ta hiểu rõ bản chất của yêu thương, và bản chất của con người.

Nghe thuat yeu anh 2

Sách Nghệ thuật yêu. Ảnh: Omega Plus.

Ở phần đầu, Yêu phải chăng là một nghệ thuật?, tác giả Erich Fromm đã khuyến khích bạn đọc coi yêu thương như một nghệ thuật, giống như sống cũng là một nghệ thuật vậy.

Khi đã ý thức được, yêu thương là một nghệ thuật, chúng ta sẽ có những cách cụ thể để tiếp cận nó, giống như cách chúng ta tiếp cận với hội họa hay âm nhạc vậy. Hai cách thức ấy, không là gì khác ngoài (1) tinh thông lý thuyết và (2) nắm vững thực hành.

Đến với phần hai của cuốn sách, Lý thuyết về tình yêu, Erich Fromm đã đề cập đến năm loại tình yêu căn bản. Đó lần lượt là: (1) Tình yêu đồng loại, (2) Tình mẫu tử/ phụ tử, (3) Tình yêu nhục cảm, (4) Lòng tự yêu mình (self-love), và (5) Tình yêu thượng đế.

Từ đó, tác giả lần lượt đề cập đến bản chất cũng như một vài dẫn chứng đời thực cho năm loại tình yêu căn bản này.

Theo Kinh Cựu Ước, tình yêu đồng loại là thứ tình yêu căn nguyên nhất của con người. Không phải ngẫu nhiên mà Kinh Thánh có răn dạy chúng ta “Hãy yêu người lân cận như yêu chính mình”. Thứ tình yêu này bao la, quảng đại, không dành riêng cho bất kỳ ai, và xuất phát từ chính bản thể con người của chúng ta.

Tiếp theo, khi nhắc đến tình mẫu tử, phụ tử, Erich Fromm đã nhắc đến hai khái niệm rất cụ thể mà tình yêu cha mẹ dành cho con cái có thể mang lại – đó là “sữa” và “mật”. Theo quan điểm của Fromm, bất cứ người mẹ nào cũng có thể cho con “sữa”, nhưng chỉ có những bà mẹ thực sự hạnh phúc mới có thể cung cấp được cho con “mật ngọt”.

Khi đề cập tới loại tình yêu thứ ba, Tình yêu nhục cảm, Erich Fromm đã nêu lên những khác biệt cơ bản giữa tình yêu cha mẹ dành cho con cái và tình yêu nhục cảm chúng ta có được trong độ tuổi trưởng thành.

Tình mẫu tử có bản chất “từ một thành hai” – đứa con rồi một ngày cũng phải tách ra khỏi cha mẹ của mình và trở thành một cá thể riêng biệt. Ngược lại, tình yêu nhục cảm lại có bản chất “từ hai thành một” – có nghĩa là, hai cá thể riêng biệt, vì yêu nhau, mà có mong muốn được hòa vào làm một.

Ngoài ra, tình cảm của cha mẹ và con cái được Erich Fromm nhận định là có bản chất giống tình yêu dành cho kẻ yếu thế, trong khi tình yêu nhục cảm lại phát sinh giữa những cá thể bình đẳng, ngang hàng.

Trong quá trình làm rõ bản chất của lòng yêu chính mình (self-love), Fromm đã đề cập đến quan điểm của nhiều nhà phân tâm học đi trước, cho rằng tình yêu thương với chính bản thân mình là một thứ tiêu cực, xấu xa.

John Calvin đã coi lòng tự yêu mình là “một bệnh dịch” (a pest), trong khi Freud cho rằng yêu thương chính mình đồng nghĩa với tính chất của sự vị kỷ (narcissism). Freud còn đi xa hơn nữa trong việc nói rằng tình yêu và sự tự yêu mình có tính loại trừ lẫn nhau: cái này càng nhiều thì cái kia càng ít.

Với lập luận của mình, Fromm đã phản bác lại, rằng lòng yêu thương chính mình không phải là một thứ gì tồi tệ, xấu xa.

Nếu xét khái niệm “yêu người lân cận” được đề cập đến trong Kinh Thánh là một đức hạnh, thì yêu thương bản thân không phải là một thói xấu – bởi bản thân mỗi chúng ta cũng đều là một con người.

Cuối cùng, khi đề cập đến tình yêu thương dành cho Thượng Đế, Fromm đã chỉ ra đặc điểm chung giữa tình yêu nhân loại dành cho những nền tôn giáo lớn nhỏ tưởng chừng như rất khác nhau, đó chính là nhu cầu vượt qua sự chia cắt, cái cá nhân và hướng tới sự hợp nhất.

Nghe thuat yeu anh 3

Tác giả Erich Fromm. Ảnh: Müller-May/Rainer Funk.

Kinh tế thị trường ảnh hưởng tiêu cực đến tình yêu?

Trong phần thứ ba, Tình yêu và sự tan rã của tình yêu trong xã hội phương Tây hiện đại, From đã nêu lên những vấn đề mấu chốt về cách nền kinh tế tư bản thị trường có ảnh hưởng tiêu cực thế nào đến tâm sinh lý của con người.

Tác giả cho rằng “sống trong xã hội tư bản, con người hiện đại sống xa lánh với chính mình, với đồng loại, và với cả thiên nhiên. Người hiện đại bị biến thành một loại hàng hóa, nghiệm cảm cuộc sống xung quanh mình như một sự đầu tư phải mang lại lợi nhuận tối đa”.

Mỗi chúng ta đều cố gắng trở nên “hấp dẫn hơn” – một đặc tính thường được dùng để miêu tả một món đồ, đẹp đẽ, có những phẩm chất được ưa chuộng phổ thông, và được tìm kiếm trên “thị trường tính cách”.

“Yêu đương bỗng chốc mang bản chất của một loại giao dịch”, tác giả viết.

Quan điểm này của Fromm cho đến hiện tại vẫn được cho là đúng đắn, và được tiếp tục nhắc lại cũng như củng cố thêm trong các tác phẩm kinh điển về tình yêu khác, như “Nội tình của ngoại tình” của nhà tâm lý học Esther Perel.

Trong phần cuối của cuốn sách, Thực hành yêu, Fromm đã nêu rõ ngay từ đầu rằng “Yêu là một thể nghiệm cá nhân mà mỗi người chỉ có thể có bởi và có cho chính mình”, nên sẽ không thể có một công thức chung cho mọi người trên thế giới thực hành yêu.

Fromm chỉ nêu ra bốn yêu tố căn bản của tình yêu: Quan tâm, trách nhiệm, tôn trọng, và hiểu biết, cùng năm đức tính con người cần rèn luyện trong việc nắm vững bốn yếu tố căn bản của tình yêu ấy: Kỷ luật, tập trung, kiên nhẫn, hết lòng quan tâm và rèn luyện.

Một lần nữa, Fromm khẳng định muốn làm chủ nghệ thuật yêu thương cần phải có rất nhiều học hỏi và nỗ lực.

Yêu thương là việc tự nhiên của con người, song cần phải học!

Nguồn: https://zingnews.vn/dau-la-dac-trung-cua-tinh-yeu-nhuc-cam-post1109533.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng