Connect with us

Sách hay

Đại dịch mới quá và lớn quá nên ta chưa thấy hết mọi hệ quả của nó

Được phát hành

,

Nhà nghiên cứu, tác giả, dịch giả Nguyễn Tường Bách trò chuyện với Tuổi Trẻ về quan điểm, chia sẻ chiêm nghiệm của một nhà khoa học, một tác giả, dịch giả trước cuộc khủng hoảng đại dịch COVID-19 đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu…

Đại dịch mới quá và lớn quá nên ta chưa thấy hết mọi hệ quả của nó - Ảnh 1.

Tác giả Nguyễn Tường Bách trong vườn nhà

Cuộc trao đổi này được thực hiện qua email, theo đề nghị của nhân vật là gửi và hồi đáp từng câu hỏi một. Cách chuyện trò nhỏ nhẹ, từ tốn và chừng mực này cũng là phong thái mà chúng tôi cảm nhận được ở TS Nguyễn Tường Bách trong đời thường.

Sự đấu tranh giữa các giá trị tinh thần

* Trong tác phẩm Mùi hương trầm, ông như một hành giả trong thế giới hiện đại, nỗ lực dẫn dắt người đọc trở về suối nguồn thiêng liêng và minh triết từ Ấn Độ đến Nepal, Tây Tạng, Trung Hoa…

Trong đại dịch COVID-19, truyền thông hằng ngày đang trình thuật bức tranh tai ương bao trùm lên những vùng “đất thánh” và “sông thiêng” trên hành trình mà ông đã từng đi qua. Những hình ảnh thảm khốc đó hẳn gợi lên trong ông nhiều suy tư?

– Mật độ dân cư quá cao và thái độ bất chấp của dân chúng đối với dịch bệnh đã làm COVID-19 lan truyền dễ dàng trong xã hội Ấn Độ. Thật là đau buồn khi thấy số lây nhiễm và tử vong tại đó quá cao.

Nhưng tôi không ngạc nhiên lắm khi thấy các cảnh dân chúng tắm gội và thiêu xác bên dòng sông Hằng. Tâm thức người bình dân Ấn Độ rất khác, họ có khuynh hướng xem dịch bệnh là một chuyển động của vũ trụ tâm linh và cam mình chịu đựng.

* Rõ ràng đại dịch lần này đòi hỏi một cách tiếp cận hiểu biết để giảm thiểu mất mát và vượt qua bằng những nỗ lực nghiên cứu khoa học hướng tới phục vụ nhân sinh trong tinh thần liên đới. Nhìn lại thì các đại dịch trong lịch sử đều thúc đẩy những cuộc định hình lại thế giới…

– Đại dịch lần này mới quá và lớn quá nên có lẽ ta chưa thấy hết mọi hệ quả của nó. Nhưng trước mắt thì nhờ đại dịch mà nhân loại có loại thuốc tiêm chủng mRNA, một đột phá mới trong ngành y khoa để phòng ngừa các bệnh nan y như corona, như ung thư.

Tiếp đến, ngành y học sẽ đóng một vai trò quan trọng hơn trong sự tổ chức xã hội. Khoa học kỹ thuật và kinh tế sẽ lấy đó làm tiêu chuẩn đo lường hiệu quả. Các thể chế chính trị cũng phải dùng hiệu quả của ngành y tế để xây dựng tính chính danh của mình.

Xa hơn nữa, con người phải nhìn lại những vấn đề của môi trường sống do mình gây ra, phải xét lại sự tàn phá thiên nhiên, sự biến đổi khí hậu… Còn một mối nguy đáng sợ hơn là trước sự tàn phá ghê gớm của dịch bệnh, không khỏi sẽ có những đầu óc muốn biến nó thành một loại vũ khí sinh học…

* Trong cuốn tiểu luận Lưới trời ai dệt, từ lịch sử tiến hóa của tri thức khoa học và triết học, ông đã có những phân tích tường minh về sự cách biệt đến đối kháng giữa tôn giáo và khoa học, giữa thực nghiệm và tín điều.

Nhưng ông có nghĩ rằng trong cuộc khủng hoảng hiện nay, khi phương pháp thực nghiệm chưa đem lại những giải đáp thỏa đáng về những vấn nạn chung, thì xây dựng lại ngôi nhà tinh thần lành mạnh là cách thế để con người vượt qua những suy kiệt và khủng hoảng?

– Vấn nạn hiện nay của nhân loại là một mặt con người đạt được những thành tựu phi thường về khoa học kỹ thuật, phát hiện những điều bất ngờ nhất về vũ trụ và vật chất, tìm ra rất nhiều khả năng đem lại sức khỏe và ấm no cho con người, nhưng đời sống tinh thần không hề lành mạnh hơn so với thời xưa.

Bạo lực bất công và dối trá lan tràn khắp nơi, trong mọi châu lục. Làn sóng di dân xưa nay từng có, nhưng chưa bao giờ mạnh như bây giờ dù trong nạn dịch. Khi con người bỏ nước ra đi, từ châu Phi qua châu Âu hay từ Nam Mỹ lên Bắc Mỹ, điều đó nói lên sự tuyệt vọng trước sự bế tắc tương lai.

Đặc trưng của thế hệ chúng ta hiện nay là sự đấu tranh giữa các giá trị tinh thần, thể hiện trong các nhà nước, giữa các thể chế. Sự đấu tranh này rất phức tạp, ẩn náu dưới nhiều hình thức và nhân vật chính trị khác nhau. Không ai có thể nói nó sẽ đi về đâu. Ta chỉ có thể nói chung nhân loại sẽ chịu đựng “cộng nghiệp” chung của chính mình.

Nếu cần hành động thì hãy “thuận pháp”

* Trong một cuộc phỏng vấn mới đây, triết gia Edgar Morin cho rằng cuộc khủng hoảng này sẽ kích thích tính tự lập, sự sáng tạo. Ông nghĩ sao về điều này?

– Sự sáng tạo là một dạng đột biến của tư tưởng. Nó chỉ đến khi ta không bị kinh nghiệm của quá khứ trói buộc, khi tâm thức được tự do.

Sự sáng tạo dễ sinh ra khi tâm hoàn toàn thư giãn nhưng nó cũng xuất hiện khi tâm bị các điều kiện mới mẻ gây bức xúc tột độ. Cuộc khủng hoảng này với con số tử vong gần 4 triệu người và quy mô tàn phá của nó là một chấn động xưa nay chưa có.

Một hệ quả tất yếu của nó là những phát minh về y khoa ra đời như đã nói. Người ta bừng tỉnh trước thái độ của chính mình đối với thiên nhiên, về sự mong manh của sức khỏe con người trong thế giới sinh vật.

Cũng nhờ cơn đại dịch mà người ta thấy mặt trái của sự phụ thuộc lẫn nhau quá mức về kinh tế và xã hội của xu hướng toàn cầu hóa. Một thí dụ là phần lớn thuốc men của thế giới đều được sản xuất tại Ấn Độ và Trung Quốc, chẳng qua là do yếu tố kinh tế.

Sự “phân công” này đã đạt tới mức bất hợp lý. Qua đó con người thấy lại mặt tích cực của tính tự lập, sự tổ chức hoàn thiện trong từng khu vực, từng quốc gia trên thế giới.

* Là một người thấm nhuần tư tưởng Phật giáo, luận điểm nào đem lại cho ông cái nhìn sáng sủa về hiện tượng cuộc khủng hoảng đang xảy ra?

– Đã nhiều năm tôi nhận thức sự vật theo cách nhìn “Duyên khởi” của Phật giáo. Tức là trước mọi biến chuyển, từ chuyện giản đơn hằng ngày đến mọi hình thái vận hành trên thế giới, tôi thử tìm nguyên nhân nào, điều kiện nào mà sự vật phát sinh và diễn biến. Và dừng lại tại đó.

Không phán đoán đúng sai, không đánh giá tốt xấu hay thiện ác. Tôi nhìn hiện tượng như nhìn một dòng sông, xem tại sao nó chảy đến đây và không phê phán chảy về hướng bắc hay hướng nam là tốt hay xấu.

Kinh nghiệm của tôi là cái nhìn như thế rất thuận tiện để nhìn lịch sử một quốc gia, thí dụ lịch sử Việt Nam. Đối với một vị cựu tổng thống từng gây tranh cãi như ông Trump chẳng hạn, ta cũng có thể gác chuyện thương ghét qua một bên, dùng “duyên khởi” mà nhìn thì có thể giải thích tất cả một cách thỏa đáng…

Cuối cùng, sau quá trình nhận thức, nếu cần hành động thì ta hãy “thuận pháp”, tức cố gắng làm sao cho tất cả đều an vui.

* Nước Đức cũng đã trải qua những đợt bùng phát dịch và có những đợt giãn cách kéo dài. Trong thời gian giãn cách, ông thường làm gì để thoát khỏi nhàm chán và tái tạo năng lượng tích cực?

– Tại Đức người ta chống dịch rất thoải mái. Ai bị nhiễm thì được khuyên nên tự cách ly, ở nhà 14 ngày. Nếu bệnh nặng thì vào nhà thương. Không ai truy cứu F0, F1 gì cả. Sát nhà tôi có cô hàng xóm tiếp viên của Hãng hàng không Lufthansa bị nhiễm mà tôi cũng chẳng hay.

Ngày cuối cùng cách ly, đứng bên hàng rào cô nói ngày mai đi làm lại sau khi cách ly, tôi mới biết cô từng mang bệnh. Hỏi ai lây cho cô, cô cũng chỉ đoán chừng do cậu con trai học cấp II. Người ta vẫn đi chợ, mua hàng, thể dục thể thao. Tôi thì làm vườn và chơi thể thao nên không nhàm chán.

Tái bản 3 cuốn sách của Nguyễn Tường Bách

sach nguyen tuong bach tai ban 6(read-only)

Ba cuốn sách vừa được tiếp tục tái bản của Nguyễn Tường Bách – Ảnh: N.V.N.

TS Nguyễn Tường Bách sinh năm 1948 tại Thừa Thiên Huế; du học Đức năm 1967, hiện sống ở một thị trấn nhỏ, cách trung tâm Frankfurt (Đức) 50 cây số. Ông là nhà nghiên cứu vật lý, tác giả của các tác phẩm được yêu thích như: Mùi hương trầm, Lưới trời ai dệt,Đêm qua sân trước một cành mai, Mộng đời bất tuyệt và là dịch giả của các tác phẩm: Con đường mây trắng (Anagarika), Đạo của vật lý (Fritjof Capra), Đối diện cuộc đời (Jiddu Krishnamurti), Sư tử tuyết bờm xanh (Surya Das), Thiền trong nghệ thuật bắn cung (Eugen Herrigel). Trong đó, tác phẩm Mùi hương trầm, Lưới trời ai dệt, Đêm qua sân trước một cành mai của ông vừa được tái bản.

Chia sẻ về việc lâu nay không xuất bản tác phẩm mới, TS Nguyễn Tường Bách nói: “Thật lòng tôi không hề ngờ các cuốn sách khô khan của mình mà cũng có độc giả. Tôi chỉ viết khi có một điều gì thôi thúc trong tâm. Không thôi thúc thì không viết, hiện nay có vẻ không có gì cả. Như giếng cạn nước rồi”.

Nguồn: https://tuoitre.vn/dai-dich-moi-qua-va-lon-qua-nen-ta-chua-thay-het-moi-he-qua-cua-no-20210624001931614.htm

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng