Connect with us

Văn mẫu 8

Cảm nhận về bài thơ “Chiêu hồn nước”

Được phát hành

,

Phạm Tất Đắc một con người mang trong mình ý thức sớm về việc cách mạng chủ nghĩa, sớm thấu nỗi lòng, chứng kiến nhiều đau khổ của người dân, căm thù bọn giặc Pháp xâm lược. Tuy ông mất khi tuổi đời còn rất trẻ dưới sự khắc nghiệt của bọn thực dân, nhưng khả năng của ông đã được công nhận rõ nhất qua thơ ca với sự thành công của tập thơ Chiêu hồn nước.

Tập thơ nhỏ gồm 198 câu song thất lục bát, với lời lẽ thống thiết, lúc lại sôi sục căm hờn dấy lên lòng yêu nước của người Việt qua các thời đại, đặc biệt trong cảnh đô hộ của người Pháp, chạm được vào tấm lòng của rất nhiều thế hệ thanh niên thời đó, được đón nhận rất nồng nhiệt.Trong trích đoạn này gồm có 34 câu thơ dường như mang được ý nghĩa bao hàm sâu sắc của cả tập thơ vang vọng, có độ ấn tượng không thua kém gì những khúc ca bi tráng của đất nước được cất lên.

Nhan đề của bài thơ dường như là một sự rất mới lạ ở thời kì này, sự mạnh mẽ, nhiệt huyết trong từng suy nghĩ,len lỏi vào mạch máu của người thanh niên trẻ tuổi này mới từ chính tâm hồn, con người ông. Chiêu hồn chính là gọi hồn đất nước. Trong thời kì lầm than, nô lệ, đất nước thiếu sự sống chỉ có một cách là gợi về lịch sử hào hùng của dân tộc để phần nào phục hồi lại lòng yêu nước trong nhân dân.

Cũng nhà cửa, cũng giang san

Thế mà nước mất nhà tan hỡi trời!

Nghĩ lắm lúc đang cười hoá khóc

Muốn ra tay ngang dọc, dọc ngang

Vạch trời thét một tiếng vang

Cho thân tan với giang san nước nhà!

Bài thơ được mở đầu khá ấn tượng với lời than nhuốm màu nô lệ của một đất nước vốn tự do, mạnh mẽ, dòng tự sự chân thật của tác giả theo cảm xúc tự nhiên khi nghĩ về đất nước khiến “Cười hoá khóc”. Nước mất thì đó là nghịch cảnh nỗi nhục nhã bi ai lớn nhất. Với một đất nước với bề dày lịch sử, có “giang sơn, nhà cửa” đã được Trời định mà dường như các thế hệ tiếp nối dễ để sơ hở cho những điều xấu xa nhất trong lịch sử thâm nhập quá dễ- Chế độ phong kiến hà khắc, Bọn thực dân tham lam, tàn ác làm cho đất nước đến mỗi nếp nhà đau đớn oằn mình chịu đựng. Là người trí thức sức trẻ ngùn ngụt với suy nghĩ mới, đau nỗi đau chung dân tộc tác giả phải thốt lên những lời mạnh mẽ xé lòng có thể thấy qua ngòi bút đẫm tình muốn bứt ra khỏi vòng nô lệ mà chiến đấu. Tâm sự điển hình ấy không chỉ của mỗi người thanh niên trẻ mà là của biết bao con người ở thời thế đó làm cho mỗi câu thơ thêm thúc giục vào những tâm hồn đang ngủ quên với lòng yêu nước.

Đồng bào hỡi con nhà Đại Việt

Có thân mà chẳng biết liệu đời

Tháng ngày lần lữa đợi thời

Ngẩn ngơ ỷ lại ở người, ai thương?

Sự khích lệ vào sự tự do là cái ta có thể thấy rõ nhất thức tỉnh về sự chần chừ trong thời điểm cứu nước, cứ lặng yên mặc cho bọn thực dân giày xéo, ở đây vẫn thấy được sức trẻ, suy nghĩ trẻ hoá giúp tình yêu nước không chỉ dừng lại ở lời nói mà sẵn sàng hy sinh, phải hành động để cứu nước. Sự khơi gợi về lòng tự tôn dân tộc, trở về với cội nguồn, truyền thống cao cả thiêng liêng chốn

“Nhị, Nùng” còn thể hiện ở những câu thơ tiếp đây:

Nên mau mau dậy ngay kẻo muộn….
Cũng tai cũng mắt như đời khác chi

Trong giọng thơ toàn bài có thể thấy có sự mỉa mai nhẹ từ phía tác giả nhưng hơn hết đó là sự đau lòng quá sâu của tác giả để thốt ra được những lời nói kích thích vào lòng tự trọng để mong mỗi người đọc hiểu mà thấm về hoàn cảnh của quốc gia đang có nguy cơ suy vong, nỗi đau nhục nhã đến bờ vực của cảm xúc để cùng đồng cảm với tác giả.

Cảnh như thế, tình thì như thế,

Sống mà chi, sống để mà chi?

Đời người đến thế còn gì nước non!

Tác giả sử dụng thành thạo biện pháp tu từ, câu cảm thán, điệp ngữ “đến thế còn gì, sống mà chi…” làm tăng độ xoáy vào trong tâm hồn người đọc làm thấm thía hơn từng câu chữ.

Không chỉ thương xót cho đất nước tác giả đã quay về thương cho chính bản thân mình một chút dường như suy nghĩ về tội ác giặc quá lớn quá đau làm tác giả trẻ tuổi đã phải suy nghĩ mông lung một chút về hoàn cảnh của mình khi đứng ra giúp nước, một câu hỏi lớn được đặt ra “liệu sức của mình có đủ để làm việc gì đó làm cho đất nước như các vị anh hùng thời đại?” nhưng hiện hữu vẫn là những tình cảm quá nhiệt huyết, sâu sắc của tác giả rất mong muốn đóng góp cho sự nghiệp chung thể hiện qua suy nghĩ, thơ văn đến những hành động đậm tính khởi đầu cho phong trào chủ nghĩa xã hội sẵn sàng bỏ tất cả lại để được chết cho tự do, chứ quyết không sống nhục như con người đương thời.Câu thơ nhuốm đầy máu,nước mắt của tác giả càng làm cho người đọc thêm cảm thông một cách thật lòng, gần gũi nhất với tác giả.

Nghĩ thân thế héo hon tấc dạ,

Trông non sông lã chã giòng châu,

Một mình cảnh vắng đêm thâu,

Muốn đem máu đỏ nhuộm màu giang san.

Những vần thơ trên đã xứng đáng với kì vọng muốn cất lời trong một bài thơ sâu sắc để đời, khúc tráng ca mãi mãi trường tồn cùng thời gian. Phải hun đúc cho mình ngọn lửa sự tự do của đất nước. Lay động nhiều con người yêu nước, giục giã họ lên đường cho tự do góp một phần công sức nhỏ bé như tác giả không mong được công nhận chút nào để tiến hành cách mạng kể cả có đổ máu, có sự hy sinh nhưng đất nước được sống đó mới là ý nghĩa của “chí làm trai – sống cùng đại cuộc”.

Bài thơ mang vừa mang tính lịch sử cao mang tính nghệ thuật dù có trải qua bao nhiêu sự kìm hãm, vùi dập của bọn thực dân tàn ác nhưng ngọn lửa ấy vẫn âm ỉ cháy rạo rực trong lòng giúp ta hiểu được, càng tự hào hơn về một gương mặt như tác giả xuất thân một nhà thơ, một chí sĩ yêu nước vô cùng trẻ tuổi làm cho đất nước luôn được mang sức sống của tự do dù có trải qua bao nhiêu sự dày vò của bọn xâm lược khắc nghiệt.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 8

Bình luận bài thơ “Ông đồ”

Được phát hành

,

Bởi

Đấy là một thế hệ người. Mà nhiều khi chỉ còn dăm bảy người. Lúc đầu, đông đúc, rôm rả lắm, nhưng mà cái gì cũng thế thôi, ngày càng thưa thớt dần, quạnh quẽ dần…

Ông Vũ Đình Liên dừng lại, không nhìn vào tôi, ông nhìn đi đâu, xa chừng, hun hút:

– Tôi nói quạnh quẽ lắm, nghe mà thương, anh ạ. Anh có thấy thương không, một lớp người họ từng ngồi vào cái chỗ anh và tôi đương ngồi, nói cái chuyện anh và tôi đương nói, chuyện năm, chuyện tháng, chuyện thời gian… Đang nói vui vẻ thế thì tự nhiên hết năm, hết tháng, và họ cũng hết nốt… Cho nên, bức xúc thì mình đã có sẵn, bây giờ chỉ lựa chỗ để đưa họ vào, vào thật êm mà không bật ra:

Mỗi năm hoa đào nở

Lại thấy ông đồ già

Bày mực tàu giấy đỏ

Bên phố đông người qua.

Đừng để câu thơ trống, gánh một gánh chữ mà không làm được việc gì. Anh thấy tôi viết như chơi ấy. Thế là đã có một ông đồ rồi đấy nhé. Bốn câu, câu nào cũng có nhiệm vụ văn học của nó. Khác thể anh kéo ra một tấm màn sân khấu, tấm màn màu hoa đào hực hỡ, rồi cho ông đồ lọt thỏm vào giữa. Mỗi năm nghĩa là năm nào cũng thế. Hoa ấy, cứ đến tiết thì lại trồi. Người ấy, cứ đến tiết thì lại nở. Cho nên mới nói Lại thấy ông đồ già. Cứ Khoắng chữ lên là gặp. Ông đồ đang làm gì? Ông ta không làm gì ra trò. Ấy là tôi nói đã vào cái thời tàn. Ông cụ cứ loay hoay bày đặt. Ông bò ra, giữa cái nhí nhố của cuộc sống này mà bày mực tàu giấy đỏ. Phố thì đông, ông thì quạnh. Bày ra, là bày cái ở trong lòng ra giữa thanh thiên bạch nhật. Như vậy thì ông phải trân trọng lắm, và cái chỗ ông ngồi bên mái phố là một chỗ thiêng:

Bao nhiêu người thuê viết

Tấm tắc ngợi khen tài

Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa rồng bay

Đấy là vào thời hạnh phúc nhất của ông. Bao nhiêu người là đông người lắm. Tấm tắc ngợi khen, không phải chỉ ngợi khen suông mà lời khen đọng lại trên khoé miệng, thầm thì, nắc nỏm. Đây là khổ thơ cao trào. Nó bắn lên như pháo hoa rồi tàn lụi dần. Phượng múa rồng bay là vẽ vời ra lắm thứ ngoạn mục rồi trở về với hư vô:

Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu

Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu.

Nhưng mỗi năm mỗi… Cứ hiu hắt dần đi. Cây thì rụng lá, hoa thì rụng cuống. Thời gian làm một cuộc hành trình đi về phía vô tận. Ông đồ, hững hờ mà cuống quít ném vào giữa đời một câu hỏi, cũng chẳng là hỏi ai. Người thuê viết nay đâu? Hỏi thời gian? Hỏi không gian? Không, không hỏi ai cả. Hỏi chính lòng mình, tức là hỏi cái quy luật khắc nghiệt và buồn thảm. Trước câu hỏi ấy, giấy đỏ buồn không thắm, đỏ mà lại không thắm thì đỏ cái nỗi gì? Và mực mài ra là để viết, chứ sao lại để đọng? Đọng không ngoài nghiên mà trong nghiên, vì thế cái nghiên cũng phải sầu!

Đến đây, cái thời tàn nó rõ mồn một:

Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài trời mưa bụi bay.

Ông đồ, thì cứ vẫn ông đồ, chứ chả lẽ ông gì? Đâu thì lại ngồi đấy thôi. Dưới tấm màn mưa bụi, nghĩa là tấm màn đan bằng những hạt mưa nhỏ tí xíu như là hạt bụi, bụi thời gian, ném vào ông đồ từng đợt sóng lãng quên, ông bị va đập và níu kéo, bào mòn. Thôi rồi, không còn thể thống gì nữa cái ông đồ, ông vẫn ngồi đấy, tưởng là định vị, nhưng hình tượng hăm hở ấy cứ mờ nhoè, ngút ngấm… cho đến một lúc tả ra như lá, như bụi mưa… Ngoài trời mưa bụi bay… Anh có thấy ra cái điều này không? Bụi mưa, mưa bụi, nó thoảng thớt là thế, mà khắc nghiệt là thế. Nó ưu ái bám lấy con người ta, nhào nắn, rút tỉa, nó cũng gạt gẫm và phỉnh phờ kia đấy, cho đến một ngày, nó nâng bổng người ta lên, ném vào nơi ký ức xoá mờ…

Năm nayđào lại nở

Không thấy ông đồ xưa

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?

Những người muôn năm cũ, là những người không thể nào cũ hơn được. Những con người ấy bây giờ đang ở đâu? Phàm ở đời, cái mới không ngừng nảy sinh, trong lúc cái cũ không ngừng tàn tạ. Như thế nó mới là cuộc sống con người.

Bài thơ nó còn là cái chỗ này: Làm một nơi cư ngụ mong manh cho hồi ức con người về một thế hệ đã tàn phai, và đấy phải chăng là sứ mệnh của văn học?

Đông Trình – Báo Thừa Thiên Huế, xuân 2000

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 8

Cảm nghĩ về hành động của các nhân vật trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”

Được phát hành

,

Bởi

Trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ, thái độ của chị Dậu đối với tên cai lệ và người nhà lí trưởng có cả một quá trình diễn biến. Khi anh Dậu run rẩy bưng bát cháo, vừa mới kề vào miệng thì cai lệ và người nhà lí trưởng sầm sập tiến vào. Trước thái độ hống hách của tên cai lệ và người nhà lí trưởng, lúc đầu, chị Dậu hết sức nhún nhường. Chị lễ phép run run nói: “Nhà cháu đã túng, lại phải đóng cả suất SƯU của chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bê tiền SƯU của nhà nước đâu? Hai ông làm phúc nói với ông lí hãy cho cháu khất…”. Nhưng chị Dậu càng van xin tha thiết, tên cai lệ càng sừng sộ, sai tên người nhà lí trưởng trói anh Dậu lại, điệu ra đình. Khi thấy người nhà lí trưởng hình như không dám hành hạ một người ốm nặng, tên cai lệ sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu. Chị Dậu hốt hoảng chạy đến đỡ lấy tay hắn và một lần nữa, khẩn thiết xin tha: “Cháu van ông, nhà cháu mới tỉnh lại được một lúc, ông tha cho!”. Cai lệ tát vào mặt chị Dậu rồi nhảy vào trói anh Dậu. Hành động tàn bạo của tên cai lệ đã thổi bùng ngọn lửa căm thù trong lòng chị Dậu. Chị nghiến hai hàm răng: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Rồi bằng sức mạnh của lòng căm thù, chị đã lần lượt quật ngã tên cai lệ và người nhà lí trưởng.

Như vậy là, trước hành động tàn bạo của tên cai lệ và người nhà lí trưởng, chị Dậu đã từ thái độ van xin ôn hoà đến chỗ quyết liệt, vùng lên quật ngã bọn tay sai hung ác.

Hành động của chị Dậu trong hoàn cảnh đó không thể khác. Để bảo vệ tính mệnh cho chồng, chị không thể không vùng dậy chông lại hành động tàn bạo của bọn tay sai. Sức mạnh bất ngờ kì lạ của chị Dậu chính là sức mạnh của lòng căm thù bọn tay sai bất nhân, tàn ác.

Đoạn văn trích cho ta thấy người nông dân lao động vốn hiền lành, nhẫn nhục, nhưng khi bị dồn đến cùng đường, họ cũng biết vùng lên chống cự lại một cách dũng cảm. Hành động đánh lại tên cai lệ và người nhà lí trưởng của chị Dậu thể hiện sức mạnh tiềm tàng, tinh thần kiên cường, bất khuất của người nông dân Việt Nam, người phụ nữ Việt Nam. Hành động của chị Dậu cũng phản ánh qui luật “tức nước vỡ bờ”, “con gian xéo mãi cũng quằn, “có áp bức, có đấu tranh”.

Trong đoạn trích, Ngô Tất Tố cũng đã thành công trong việc khắc hoạ bộ mặt tàn ác, đểu cáng, không chút tính người của tên cai lệ và người nhà lí trưởng.

Với những “roi song, tay thước và dây thừng”, tên cai lệ và người nhà lí trưởng hùng hổ xông vào nhà chị Dậu. Tên cai lệ ra oai, hách dịch ngay từ những giây phút đầu tiên. Gõ đầu roi xuống đất, hắn lên giọng quát anh Dậu phải mau mau nộp thuế. Trước lời van xin nhũn nhặn của chị Dậu, hắn “trợn ngược hai mắt”, lớn tiếng quát tháo: “Mày định nói cho cha mày nghe đó à! Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất!”. Không một chút mủi lòng trước cảnh anh Dậu đang đau ốm, bỏ ngoài tai lời van xin tha thiết của chị Dậu, tên cai lệ doạ dỡ nhà, quát tên người nhà lí trưởng, rồi trói cổ anh Dậu lại, điệu ra đình. Khi tên người nhà lí trưởng còn đang “lóng ngóng ngơ ngác” thì tên cai lệ đùng đùng “giật phắt lấy cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu”. Chị Dậu vẫn nhẫn nhục van xin. Nhưng không một chút tình người, tên cai lệ đã đấm vào ngực, tát vào mặt chị Dậu rồi nhảy tới anh Dậu, không kể gì tới mạng sống của anh. Hành động của tên cai lệ thật đểu cáng, bất nhân, không còn chút tình người.

Tên người nhà lí trưởng cũng đểu cáng, bất nhân không kém. Hắn cười mỉa mai khi thấy anh Dậu vì sợ hãi quá mà lăn đùng xuống phảng. Rồi hắn “sấn cổ bước đến giơ gậy chực đánh chị Dậu”. Hành động tàn ác của cả tên cai lệ và người nhà lí trưởng đã đẩy chị Dậu tới chỗ không thể không vùng lên chông trả để bảo vệ mạng sông cho anh Dậu.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 8

Cảm nhận của em về đoạn trích “Hai cây phong”

Được phát hành

,

Bởi

Hai cây phong là phần đầu của truyện Người thầy đầu tiên của nhà văn xứ Cư-gơ-rư-xtan – một nước Cộng hoà ở vùng Trung Á thuộc Liên Xô trước đây. Bài văn có hai mạch kể và tả xen lẫn vào nhau rất nhuần nhuyễn tạo nên một sắc thái đặc biệt về cảm nhận.

Trước hết, bằng lối miêu tả đầy xúc động của một tầm hồn nhạy cảm, người kể chuyện tự giới thiệu mình là hoạ sĩ. Bức tranh vẽ giữa ngọn đồi có hai cây phong. Tuy nhiên đầy không phải là nét vẽ bằng cây cọ, mà bằng lời kể và tả thật duyên dáng, sâu lắng.

Bức tranh ấy chỉ thể hiện lên mỗi lần “chúng tôi” (lời xưng hô của chủ thể trữ tình) đi xa và nghĩ thầm với một nỗi buồn da diết: “Ta sắp được thấy chúng chưa, hai cây phong sinh đôi ấy? Mong sao chóng về đến làng, chóng lên đồi mà đến với hai cây phong!”.

Như vậy, cảnh sắc quê hương được cảm nhận bằng những hình ảnh đậm nhạt, cao thấp, xa gần, khác nhau. Đó là tâm tình của người hoạ sĩ tài hoa trước phong cảnh đầy cảm xúc dâng trào.

Nhưng ở một góc độ cảm nhận, tác giả (nhân vật trữ tình) đã kết hợp tự sự với miêu tả và biểu cảm tạo nên sức hút kì lạ. Bởi vì người kể đã khơi dậy hoài niệm của tuổi thơ.

Đó là vào năm học cuối cùng, bọn trẻ đã reo hò, huýt còi ầm ĩ rồi công kênh nhau bám vào các mắt mấu của hai cây phong mà leo lên. Quên làm sao được “lũ nhóc đi chân đất” ấy “làm chấn động cả vương quốc loài chim” ở trên “những cành cao ngất”. Ôi, ở đây, “bọn nhóc” còn vô cùng sung sướng ngắm nhìn cảnh vật một cách vừa trịnh trọng, vừa yêu thương.

Chúng giương hết tầm mắt nhìn vào nơi xa biêng biếc của thảo nguyên. Chúng “nép mình ngồi trên các cành cây lắng nghe tiếng gió ảo huyền và tiếng lá cây đáp lại lời gió…”. Hai cây phong đã làm cho tuổi thơ rạo rực, bị quyến rũ về vẻ đẹp vừa uy nghi vừa hoang sơ của nó.

Như vậy, đoạn trích Hai cây phong chan chứa một thi vị của quê hương. Nghệ thuật tả và kể của bài văn đã làm cho mạch kể hết sức sinh động.

Đoạn văn thể hiện tâm hồn riêng của hai cây phong là hay nhất, rung động nhất. Đoạn trích chính là một bài ca về tình nghĩa quê hương và về người thầy vĩ đại đã “trồng cây và trồng người”.

Tiếp tục đọc

Xu hướng