Connect with us

Văn mẫu 7

Biểu cảm về loài cây em yêu: cây vải quê em (1)

Được phát hành

,

Sinh ra và lớn lên ở một vùng quê nghèo làm nghề nông nghiệp nên từ nhỏ em đã có điều kiện tiếp xúc với những con vật, những loài cây đặc trưng của miền quê Việt Nam. Ngoài cây lúa, các loài cây lương thực thực phẩm như: ngô, khoai, sắn….thì quê hương em còn trồng rất nhiều loại cây ăn quả khác, có thể kể tên như: xoài, cam, ổi, mãng cầu, thanh long…. Nhưng loài cây mà quê hương em trồng nhiều nhất mà nhắc đến tên loài cây này thì người ta sẽ nghĩ ngay đến quê  hương em. Đó chính là trái vải thiều.

Quê hương em là một vùng quê nghèo nằm ở tỉnh Bắc Giang, ở đây, mọi người ngoài trồng trọt, canh tác cây lúa nước, phát triển nông nghiệp như bao vùng quê khác thì quê hương em còn phát triển nghề trồng cây ăn quả. Có rất nhiều loài cây ăn quả được trồng ở quê em, nhưng loài cây được trồng phổ biến nhất, nhiều nhất chính là cây vải thiều. Đất đai quê em tuy không được màu mỡ, tươi tốt như các vùng quê khác nhưng lại vô cùng thích hợp đẻ trồng cây vải thiều.

Cây vải thiều hay còn có tên gọi khác là cây lệ chi, đó là một cây ăn quả nổi tiếng ở khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa ở nước ta. Trên khắp các vùng miền đều có thể trồng được vải vì đây là một loài cây khá dễ sống, dễ trồng. Nó có thể thích nghi trên mọi loại đất, đặc biệt phát triển tốt trên đất phù sa mùa mỡ. Tuy nơi nào cũng trồng được vải thiều nhưng không phải hương vị vải ở vùng quê nào cũng giống nhau. Như Bắc Giang quê em nổi tiếng với đặc sản vải thiều vì do các yếu tố như đất đai, nguồn nước, khí hậu ở quê hương em đều thích hợp phát triển cây vải thiều nên chúng sinh trưởng tốt, cho năng suất cao và những trái vải thơm ngon, mọng nước tạo ra hương vị đặc trưng mà những vùng quê khác không có được.

Cây vải thiều là cây ăn quả thân gỗ, khi cây trưởng thành thì có thể cao từ năm đến mười mét, cây có rất nhiều cành, tán cây khá um tùm nên ngoài cho thu hoạch trái thì cây vải thiều còn dùng để che nắng, che mưa rất tốt. Khi trời nắng, đứng trú ở dưới gốc cây vải thiều sẽ mang lại một cảm giác khoan khoái, dễ chịu vô cùng. Lá của cây vải dẹt và dài, mặt lá bóng bẩy, vân lá rõ ràng, lá vải thường mọc theo cành, một cành lá nhỏ khoảng từ bảy đến mười chiếc lá. Lá vải thiều có màu xanh lục, thân cây màu nâu và thường sần sùi. Khác với lá và thân cây, quả vải khi chín lại có màu đỏ ối vô cùng bắt mắt, hương thơm khi chín của vải thiều có thể làm xao xuyến bất cứ ai, dù là khó tính nhất.

Để phát triển thành quả vải thì phải trải qua cả một quá trình, trước hết thì cây vải thiều sẽ ra hoa, những bông hoa vải màu trắng nhỏ li ti và nở thành chum, loài hoa này không có mùi nhưng khi chúng nở rộ nhìn vô cùng đẹp mắt, sau khi hoa rụng thì kết thành những quả nhỏ, khi này quả vải thiều có màu xanh, nếu ăn lúc vải chưa chín thì sẽ thấy có vị chát, vị chua, nhưng chỉ khoảng nửa tháng sau, khi quả vải thiều đã chín thì chúng lại chuyển sang màu đỏ ối, quả to khoảng bằng hai, ba đầu ngón tay, hình dáng của nó tương đối giống quả dâu nhưng tròn hơn, da nó sần sùi, nổi lên những đường vân như vẩy của con cá nhưng nhỏ li ti.

Lúc vải được thu hoạch thì chúng có một mùi thơm vô cùng hấp dẫn, chúng không thơm lừng như những loài quả khác mà hương thơm dịu ngọt vô cùng dễ chịu. Vải là loại quả thanh mát, nhưng khi ăn quá nhiều sẽ bị nóng, nhưng hương thơm dịu ngọt của nó đã làm biết bao nhiêu người say mê, yêu thích, nó đã trở thành một loại hoa quả hàng đầu mà người ta lựa chọn mỗi khi mùa hè về. Vải sau khi thu hoạch sẽ được bó thành trùm và mang đi bán, đặc biệt vải quê em vì có hương vị đặc trưng và được những người thương nhân khắp nơi về thu mua để mang về địa phương mình bán, phục vụ cho nhu cầu sử dụng của người dân.

Không chỉ có thương nhân trong nước mà thương nhân nước ngoài cũng sang thu mua và mang về nước của mình. Do đặc trưng khí hậu nóng ẩm nên cây vải chỉ phát triển ở Việt Nam, nên vải thiều trở thành đặc sản ở các đất nước khác và được mua với giá rất cao. Em nghe các bác kể lại rằng khi  xưa có một bà hoàng hậu người Trung Quốc rất thích ăn vải thiều ở Việt Nam nên năm nào cũng sai người sang mua lại rất nhiều vải về nước của mình. Ngày nay cũng vậy, các thương nhân người Trung Quốc thu mua rất nhiều, đôi khi là mua cả vườn để có đủ số lượng mang về.

Bán vải mang lại thu nhập cao cho người dân quê em bên cạnh việc trồng lúa nước, vì vậy đã có rất nhiều gia đình đã trồng vải thiều trên một quy mô rất lớn, và lấy đó làm thu hoạch chính cho gia đình của mình. Ngoài bán vải tươi thì người ta còn sấy vải khô để bán, những quả vải khô sẽ nhẹ hơn rất nhiều nên giá thành cũng cao hơn, đặc biệt là hương vị thơm ngon càng thêm đậm đà, có thể dùng để tiếp khách, dùng dần trong khoảng thời gian rất dài, hoặc cũng có thể dùng để ngâm rượu chữa bệnh.

Cây vải có rất nhiều lợi ích và công dụng, hơn hết là nó có thể mang lại thu nhập cho người dân quê em, nhờ trồng vải thiều mà người dân quê em cải thiện được cuộc sống một cách rõ rệt. Em vô cùng yêu thích loài cây này, ngon ngọt thanh mát lại có hiệu quả kinh tế cao.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 7

Biểu cảm về loài cây em yêu: cây bàng

Được phát hành

,

Bởi

Trước sân nhà em có một cây bàng. Trường em cũng rất nhiều bàng. Hai bên hè phố nơi em ở lại là những dãy bàng xanh ngút ngái. Những cây bàng đứng đó, nhìn em lớn lên và lưu giữ bao kỷ niệm ấu thơ. Em yêu cây bàng như yêu một người bạn gần gũi nhất, thân thương nhất và không bao giờ vắng mặt trong cuộc sống của em.

Vào mùa nào, cây bàng cũng có một vẻ đẹp riêng, khi trẻ trung xanh mướt khi già cỗi, sắt siu. Cây bàng lúc tươi tắn, lúc trầm ngâm, lúc vui, lúc buồn như con người vậy.

Em thích nhất là ngắm nhìn cây bàng vào xuân. Đó là mùa hồi sinh của vạn vật. Trong làn mưa bụi, hơi lạnh se se, những chồi non chúm chím hé nở trên những nhành cây gầy mảnh vươn dài, xoè rộng. Màu xanh non nớt, mượt mà ấy làm dãy phố sáng bừng lên sau một mùa đông dài xanh xám. Có lúc em thấy cây bàng đang cháy lên những ngọn nến xanh. Có lúc em lại thấy dường như bàng là một cô gái đang múa đèn duyên dáng. Cây bàng biến hoá với bao hình dáng kỳ diệu.

Những chồi bàng lớn rất nhanh. Khi trong những vòm lá bắt đầu lấp ló nhánh hoa li ti ấy là lúc mùa xuân sắp tàn nhường quyền tạo hoá cho mùa hè rực rỡ. Mùa hè sang mang đến cho cây bàng một sức sống mạnh mẽ. Cả phố phường ngợp bóng mát xanh um của những tán bàng toả rợp. Em lại được nô đùa chơi đồ hàng, chơi nhảy dây với lũ bạn dưới gốc bàng. Cây bàng đu đưa, rì rào hiền như một người bạn lớn tốt bụng xoè rộng cánh tay cầm ô che nắng cho chúng em vui chơi. Và mỗi buổi trưa hè, em lại mở cửa sổ ngủ dưới tiếng ve bàng râm ran êm ả, dưới vòm hương lá bàng nồng dịu và những chùm quả xanh non chao chao trong nắng.

Lũ trẻ trong xóm em bao giờ cũng háo hức đón cây bàng vào thu. Bởi khi ấy những chùm quả bàng bắt đầu chín toả hương thơm nồng nàn ngai ngái phảng phất quyến rũ khắp phố phường. Em còn nhớ một buổi chiều đi lao động ở trường, cả cô trò tụ tập dưới gốc bàng to nhất sân trường đẩy bàng chín ăn. Cô cứ đẩy được chùm nào cả bọn lại xúm xút tranh nhau. Em cắn ngập răng vào quả chín cảm nhận cái vị ngọt rất riêng, bùi ngùi như vị của nắng thu mà thêm yêu da diết cây bàng thân quen ấy. Cây bàng sần sùi, nâu xám. Mỗi vết nám là một kỷ niệm học trò được lưu giữ. Một ngày nào đó, khi em xa rời mái trường yêu dấu, em sẽ về đây đặt tay lên những vết chai sần này để tìm lại bao ký ức đẹp tuổi thơ.

Thương nhất là khi cây bàng vào đông. Dãy bàng ngoài phố thỉnh thoảng lại rùng mình khi cơn gió lạnh lướt qua. Trong nắng đông hao hao, những chiếc lá bàng đỏ sạm buồn buồn. Bà bán xôi đầu ngõ gói xôi bằng chiếc lá đỏ ấy cầm gói xôi vừa thổi vừa ăn, em mới thấy cây bàng dù khi tươi tốt hay khi tàn úa vẫn luôn luôn có ích cho đời. Dưới gốc bàng đơn côi, trơ trọi khẳng khiu ngoài phố, quán cóc mọc lên nhiều hơn, lũ trẻ xóm em ít ngồi chơi hơn. Còn ở sân trường thì thật vắng vẻ. Chúng em chẳng muốn ra ngoài vì lạnh. Lúc ấy trông cây bàng thật tội. Cái dáng gầy guộc, khô se thỉnh thoảng lại lay lay như muốn gọi chúng em “Lại đây chơi với tôi đi, tôi buồn lắm”! Nhưng chắc chắn bàng sẽ vượt qua mùa đông buốt giá một cách dễ dàng thôi. Trong cái giá rét ấy, những nhánh cây ngày nào cũng giơ ngón tay gầy gom nắng đông lại chăm chút, ấp ủ một cái gì đó để khi mùa xuân về thì tách lên những búp nõn xanh tươi. Cây bàng lại hồi sinh, lại bắt đầu một vòng sống mới đẹp đẽ hơn, rực rỡ hơn. Em rất khâm phục sức sống bất diệt của cây bàng.

Em yêu cây bàng như yêu một người bạn lặng thầm bình dị và gần gũi. Người bạn ấy lúc nào cũng ở bên cạnh em, có mặt trong cuộc sống của em. Một ngày nào đó, em không còn được ăn trái bàng chín thơm nồng, không được cầm gói xôi bọc lá bàng đỏ đầu đông nóng hổi, không được nghe tiếng ve bàng rộn rã thì cuộc sống khi ấy sẽ tẻ nhạt biết bao. Cây bàng là nhà ở, là phố phường, là trường học, là kỷ niệm… là tất cả những gì mà em gắn bó và yêu quý.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 7

Biểu cảm về loài cây em yêu: cây dừa

Được phát hành

,

Bởi

Có một loài cây từ lâu đã trở thành sự sống của người dân và trở thành hình tượng bất tử của nhiều vùng quê Việt Nam. Loài cây ấy cũng là nỗi nhớ mong trong lòng của tôi về tuổi thơ êm đềm nơi quê ngoại. Cây dừa ơi! Tôi mãi gọi tên dừa như gọi tên quê hương mình.

Quê ngoại tôi là xứ sở của dừa. Ở đây không chỉ có vài cây, vài rặng dừa mà là cả liếp dừa nối tiếp nhau nhìn xa xa như một cánh rừng. Cây dừa thân to tròn như một chiếc cột lớn giữa nhà. Lá dừa như những ngọn gươm khua xào xạc có lúc lại mềm mại như bàn tay cầm quạt của cô gái đang múa hát. Tôi yêu cái dáng đứng thẳng của dừa và cái ngẩng đầu thách thức dù mưa giông, bão tố. Hứng chịu bao cơ cực của cuộc đời, dừa lại chắt lọc những gì tinh tuý nhất vào quả của mình. Có lần tôi đã nghĩ quả dừa giống như những hủ rượu ngàn năm của Tề thiên đại thánh bỏ quên nơi trần gian. Chỉ khác một điều chắc gì rượu quý kia lại thơm ngon bằng nước dừa. Tôi thích thú với những chiếc rễ dừa to to vươn lên mặt đất. Ngày đó, tôi chưa học dừa là loại cây rễ chùm, chỉ biết rằng bộ rể đồ sộ kia lại có sự sống bền bỉ và bám chặt vào đất giành lấy sự sống của mình.

Làm sao có thể kể hết những lợi ích mà loài cây này mang đến cho con người. Ở quê ngoại tôi, dừa chính là nguồn lợi lớn nhất giúp người dân thoát nghèo, có cuộc sống đầy đủ hơn. Nước dừa vừa ngọt vừa thanh lại là thức uống bổ, rẻ nên được hầu hết mọi người ưa chuộng. Thân dừa già làm gỗ, lá dừa, cọng dừa khô làm củi, chiếc chổi bà tôi quét nhà cũng được làm từ những sóng lá nhỏ….Hình như người dân chúng tôi không bỏ đi thứ gì kể cả vỏ trái dừa. Hiếm có loài cây nào lại hữu ích đến thế và cũng hiếm loài cây nào được người dân chúng tôi trân quý đến thế. Hễ thấy một trái dừa khô nào ra mọng là bà tôi lại chọn một nơi tốt nhất để trồng.

Đối với chúng tôi, dừa là cả một miền thơ mộng. Dưới gốc dừa mát rượi, chúng tôi chơi trốn tìm, chơi nhảy dây, chơi nhà chòi. Có khi lại thích thú cuộn những chiếc lá dừa thành kèn rồi thổi tí te vui tai. Tôi yêu dừa như yêu những đứa bạn thân cùng xóm, yêu người dì tốt bụng gần nhà. Ai biết một ngày có cô bé nhớ mẹ ngồi khóc dưới gốc cây, mẹ đi chợ về mua ít bột, lấy nải chuối chín cây, bẻ thêm trái dừa khô làm bánh. Cô quên làm sao được cái hương vị thơm béo của nước cốt dừa hoà vào từng miếng bánh ngọt lịm ăn mãi vẫn không biết ngán. Ôi, cái hương vị của tuổi thơ là những ngọt, bùi của dừa mang lại khiến bao năm tháng trôi qua vẫn không thể nào quên.

Ai dám bảo mình chưa bao giờ thử uống một ngụm nước dừa thanh mát? Ai dám bảo mình sẽ quên hình bóng một loài cây của quê hương? Tôi có cố nhớ đâu sao cái dáng dừa soi bóng nước những trưa hè vẫn in hằn trong trí nhớ. Phải chăng đó sẽ mãi là kí ức, là kỉ niệm tươi đẹp trong đời. Cảm ơn dừa đã cho tôi bóng mát giữa đời thường và cho tôi những ngày tháng tuyệt vời của tuổi thơ.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 7

Biểu cảm về loài cây em yêu: cây đa làng em (1)

Được phát hành

,

Bởi

Đầu làng em có một cây đa có lẽ đã vài trăm tuổi. Thân cây lớn lắm! Rễ đa ngoằn ngoèo như những con trăn khổng lồ uốn khúc. Xung quanh gốc chính là hàng chục gốc phụ khiến cho cây thêm bề thế và vững chãi. Cách xa hàng cây số đã nhìn thấy bóng đa cao vượt khỏi luỹ tre làng, sừng sững in trên nền trời xanh biếc.

Bóng đa che mát một khoảng đất rộng. Chim chóc làm tổ trên cành, suốt ngày ríu rít. Đang đi trên đường nắng chang chang, khách ghé chân vào quán tranh nghỉ tạm, uống một bát nước chè tươi hãm đặc, tận hưởng cơn gió nồm nam lồng lộng thổi, quả là không có gì sung sướng bằng, bao nhiêu mỏi mệt đều tan biến hết.

Tuổi thơ chúng em cũng tìm được ở cây đa nhiều điều kì thú. Lá đa to, dày và xanh bóng đem cuộn tròn lại, xé hai bên mép lá làm sừng, buộc một mẩu dây chuối khô vào cuống rồi luồn vào trong, khe khẽ kéo… Thế là đã được một con trâu lá đa, cặp sừng cong cong, cái đầu gục gặc như sẵn sàng nghênh chiến. Nào là trâu bố, trâu mẹ, nghé tơ… nằm quây quần bên nhau, nhìn mới thích làm sao!

Những chiếc búp đa khô quăn queo màu nâu rơi trên mặt cỏ có thể nhặt về làm kèn. Kèn búp đa ngậm vào miệng rồi phồng má thổi, nó kêu “toe” lên một tiếng, kèm theo chuỗi cười trong, trẻo vang xa.

Chiều hè, chúng em thường túm năm tụm bảy dưới gốc đa để thi thả diều. Bờ con mương chạy ngang cảnh đồng lang là nơi thả diều lí tưởng. Những cánh diều chấp chới bay cao; tiếng sáo diều vi vu ngân nga giữa không trung bát ngát.

Ông em kể rằng cây đa đã chứng kiến bao sự kiện buồn vui của làng. Lá cờ đỏ sao vàng đầu tiên phất phới bay trên ngọn đa. Cuộc mít tinh đầu tiên của dân làng thành lập chính quyền cách mạng cũng diễn ra dưới gốc đa. Trong hai cuộc chiến tranh chông Pháp và chống Mĩ, những cuộc tiễn đưa thanh niên lên đường nhập ngũ cũng được tổ chức ở đây… Rồi chuyện làm ăn hằng ngày, chuyện đổi mới không ngừng của làng của nước, bà con trao đổi với nhau dưới bóng mát cây đa. Cây đa cổ thụ quả đúng là nhân chứng lịch sử của làng.

Tiếp tục đọc

Xu hướng