Connect with us

Xuất Bản

Bề nổi và chiều sâu của văn hóa đọc

Được phát hành

,

Việc xây dựng văn hóa đọc không thể chỉ từ bên ngoài, từ bề nổi mà phải chăm chút cho cảm xúc đọc của mỗi con người cá nhân trong cộng đồng đọc bé nhỏ, gần gũi, thân thương.

Mới đây về dự Ngày hội Văn hóa đọc của một thư viện tỉnh, tôi bắt gặp hình ảnh các cháu nhỏ ngồi ở góc đọc sách của ngày hội, cứ mỗi lần một nhóm khách đến gần, các cháu lại… nhất loạt cầm sách lên đọc. Hình ảnh ấy cho thấy, đâu đó, người ta vẫn hiểu sai về khái niệm “văn hóa đọc”.

Từ khi biết đến những “ngày” được đặt tên, như: Ngày Sách và bản quyền thế giới; Ngày Sách Việt Nam; Ngày Sách và Văn hóa đọc… xã hội dường như sôi động hơn với câu chuyện… đọc sách. Mọi cơ quan đơn vị, mọi trường học các cấp, mọi nhà và mọi người… ai cũng tưng bừng “đọc” vào mỗi tháng tư hàng năm vì có các “ngày” như trên.

Những hoạt động bề nổi, tuyên truyền khiến xã hội ý thức hơn về việc đọc và xây dựng văn hóa đọc theo tính phong trào. Tuy nhiên, đã là phong trào thì không tránh khỏi tính hình thức và yếu tố thành tích, khó chạm được tới cá nhân từng người.

Nhiều người hô hào đọc sách, nhiều thày cô đi tập huấn về đọc sách mà bản thân không mấy khi sờ đến cuốn sách vì không có thời gian, đôi khi vì bận… tổ chức phong trào đọc.

Sau những ngày “hội sách” thật tấp nập ồn ào là lại bắt đầu chuỗi ngày chạy đua với chương trình học. Việc đọc sách (chưa bàn đến những việc như: Đọc gì, đọc như thế nào, chia sẻ ra sao…) lại phải đợi đến… tháng tư năm sau.

van hoa doc anh 1

Tiến sĩ Nguyễn Thụy Anh. Ảnh: Báo Nhân dân.

Từ cuối thế kỷ 18, ở Nga vấn đề văn hóa đọc cũng bắt đầu được đưa ra phân tích trên cơ sở lý luận.

Tác giả A.T Bolotov (1738-1833) viết về “ích lợi của việc đọc sách”, cho rằng việc đọc các ấn phẩm nhân bản, hiền hậu có ảnh hưởng tích cực đến nhân cách con người. Và lần đầu tiên việc đọc được hiểu như một khái niệm “văn hóa đọc”.

Năm 1760, học giả Nga lần đầu tiên phân biệt việc “hoạt động đọc” và “người đọc”, theo đó, ông cho rằng: Một người đọc sách chỉ trở thành người đọc thật sự khi biết chọn sách đọc và biết cách đọc, có nghĩa là “văn hóa đọc” được hình thành từ chất lượng người đọc – đọc có định hướng, có phương pháp.

Iu.P Melencheva, một nhà sư phạm, nhà khóa học chuyên ngành thư viện, khẳng định: Văn hóa đọc là khái niệm bên trong, rất cá thể và riêng tư.

Ở Việt Nam, trong một số ít các nghiên cứu khoa học liên quan đến “văn hóa đọc”, đáng chú ý là định nghĩa “văn hóa đọc” tác giả Nguyễn Hữu Viêm được đăng tải những năm 2009-2012, như sau: Theo nghĩa rộng, đó là ứng xử đọc, giá trị đọc và chuẩn mực đọc của cộng đồng xã hội, các cơ quan quản lý nhà nước và các nhà quản lý, các thành viên trong xã hội.

Ứng xử đọc, giá trị đọc, chuẩn mực đọc của các nhà quản lý và cơ quan quản lý nhà nước là chính sách, đường lối, kế hoạch, biện pháp cụ thể nhằm phát triển nền văn hóa đọc quốc gia.

Các hoạt động này đều nhằm tạo ra hành lang pháp lý thúc đẩy, phát triển tài liệu đọc có giá trị, chất lượng, phong phú, đa dạng và lành mạnh, đồng thời tuyên truyền, hướng dẫn đọc chúng cho mọi người đọc khác nhau, không phân biệt giàu nghèo, trình độ cao hay thấp, ở đô thị hay vùng nông thôn hẻo lánh đều có khả năng ngang nhau tiếp cận chúng (thông qua sự phát triển các loại hình thư viện, các loại cửa hàng sách).

Theo nghĩa hẹp, đó là văn hóa đọc của mỗi cá nhân trong xã hội, được thể hiện thành thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ năng đọc của họ. Thói quen đọc được gây dựng, nuôi dưỡng và định hình trong suốt cuộc đời.

Nếu không được nuôi dưỡng chu đáo; hoặc bị áp lực xã hội như công việc căng thẳng, chiếm hết thời gian trong ngày; hoặc bị các phương tiện nghe nhìn cuốn hút… thì thói quen đọc cũng có thể bị suy thoái, lụi tàn.

van hoa doc anh 2

Văn hóa đọc phải xuất phát từ nhận thức mỗi người. Ảnh: Thu Huệ.

Kelly Gallanger, một nhà giáo và một tác giả ở California, một chuyên gia về văn hóa đọc của Tổ chức đọc sách quốc tế (IRA) được biết đến với các bài viết bàn về việc dạy đọc và viết, cũng nói đến “văn hóa đọc” như thói quen và năng lực đọc của mỗi cá nhân.

“Văn hóa đọc” đi xuống trong những năm gần đây, theo ông, nằm ở mối quan hệ hệ quả: Những người trẻ giờ đây quan tâm đến tìm việc để làm, để chơi, để giải trí hơn là tìm cách trang bị kiến thức cho mình.

Việc ít đọc khiến cho kiến thức nền của họ ngày càng mỏng đi; và vì phông kiến thức, phông văn hóa nghèo nàn mà khi bắt đầu đọc, họ chỉ chạm được vỏ ngữ nghĩa của ngôn từ mà không cảm nhận được nó, không thấu hiểu, không thể tư duy…

Chính việc này khiến họ quay trở lại thấy việc đọc là nhàm chán, khó hiểu, năng lực đọc bị tiêu hủy kéo theo động lực đọc cũng biến mất.

Trong cuốn sách xuất bản năm 2009 nói trên, Kelly Gallanger chỉ ra 4 nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó: Một là nhà trường tập trung coi trọng luyện thi cho học sinh hơn là dạy chữ, dạy người.

Hai là chính cấu trúc quyền lực trong nhà trường và lớp học cùng phương pháp giảng dạy tiêu cực đã làm suy giảm trải nghiệm đọc tự do và chân thành của trẻ.

Ba là giáo viên giảng về một tác phẩm quá kỹ, triệt tiêu trí tưởng tượng của học sinh.

Bốn là giáo viên giảng về một tác phẩm quá sơ lược, không kích thích được trí tưởng tượng của học sinh. Trong cuốn sách này, Gallanger cũng đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục hiện trạng trên.

Cùng với những biểu hiện thái quá trong việc “đọc sách bề nổi”, còn có những rào cản tâm lý cho các cá nhân đến với sách tự nguyện, lâu dài, bền bỉ.

Ngược lại với những biểu hiện hình thức “bề nổi”, người ta lại “trí thức hóa, quan trọng hóa” việc đọc, đưa ra những “mác nhãn, danh hiệu” nhằm đánh giá, con người thông qua việc họ đọc sách hay không đọc sách, đọc truyện tranh hay truyện chữ, đọc sách “nghiêm túc, hàn lâm” hay truyện ngôn tình…

Thậm chí là đọc có phong cách, có sành điệu hay không. Việc áp đặt cho người trẻ phải đọc sách, hoặc áp đặt những loại sách nên đọc và không nên đọc… cũng là một động thái nguy hiểm, triệt tiêu cảm hứng đọc ở những độc giả tiềm năng.

Năm 1992, nhà văn Pháp Daniel Pennac từng đề xuất 10 quyền của người đọc, trong đó có “Quyền không đọc” bên cạnh “Quyền được đọc mọi thứ mình thích mà không cần bảo vệ quan điểm” cho sở thích ấy. Việc định hướng sự đọc cá nhân từ thói quen của tập thể, áp đặt sở thích sẽ giết chết động lực đọc.

Điều thú vị là chính “Quyền không đọc” lại là một trong những yếu tố thúc đẩy động lực đọc nhất ở trẻ em. Theo chúng tôi hiểu, với nghĩa: Không ép trẻ đọc mà nên mời trẻ đọc hoặc tham gia hoạt động đọc cùng mình; đồng thời, vẫn tôn trọng quyền lựa chọn “đọc” hoặc “không đọc” của chúng.

Việc không kết nối được hoạt động đọc sách với chương trình học tập của trẻ cũng là một cách cản trở văn hóa đọc.

Dù hô hào cho văn hóa đọc, còn hiếm nhà trường hay phụ huynh chấp nhận một khoảng thời gian trong ngày cho phép trẻ dùng để đọc sách.

Chúng tôi từng nhắc đến hình ảnh những tủ sách, thư viện trường học bị khóa trái. Nhiều bố mẹ cho phép trẻ chỉ được đọc khi… nghỉ hè, để không ảnh hưởng đến việc học.

Các bạn nhỏ phải tập trung học kiến thức, đắm chìm vào các kỳ thi, rảnh ra chút nào lại đăng ký học các lớp thể thao, nghệ thuật, kỹ năng sống… thì lấy đâu ra thời gian cho sách?

Sau này, nghiên cứu thời gian biểu của rất nhiều bạn nhỏ, thời khóa biểu ở trường… chúng tôi nhận thấy, việc đọc sách trên thực tế trở nên là một hoạt động phụ, chỉ được sắp xếp vào những “cửa sổ trống” hay tiết “sinh hoạt” để không ảnh hưởng đến việc đảm bảo chương trình học các môn chính của trẻ.

Thiết nghĩ, việc đọc cũng phải được tôn trọng như việc học và việc thi, cần phải đưa vào chương trình như những tiết độc lập, giống tiết kể chuyện trong chương trình phổ thông trước đây.

Đó phải là một hoạt động riêng được xây dựng phương pháp và quy trình riêng để hướng dẫn các em tự đọc, tự khám phá. Tiết đọc sách cũng không nên được diễn ra như một tiết dạy Tiếng Việt hay Ngữ văn.

Những chia sẻ thu hoạch sau khi đọc của các em phải thực sự là cảm xúc, suy nghĩ riêng tư của mỗi em. Nghĩa là các em phải được cổ vũ nghĩ tiếp theo cách của mình mà không theo cách chung của mọi người.

Bằng không, các nhiệm vụ nặng nề và áp đặt liên quan đến việc đọc như “rút ra bài học, kể lại tóm tắt, phân tích nhân vật…” sẽ dần triệt tiêu cảm xúc đọc của trẻ, khiến chúng không còn tin ở cảm nhận cá nhân về tác phẩm. Và như vậy chúng ta tự làm mất đi một thế hệ bạn đọc mới ngay từ khi họ chớm tiếp cận với thế giới văn chương.

Ngoài ra, việc không được sống hòa đồng với thiên nhiên; không quan sát, lắng nghe cuộc sống, ít trải nghiệm… cũng là rào cản cho kỹ năng đọc của trẻ, triệt tiêu năng lực tưởng tượng, liên tưởng, tư duy.

Những đứa trẻ ở nước ta hiện nay đang dần trở thành “những đứa trẻ thi” chứ không phải “những đứa trẻ sống”.

Sự thiếu “cuộc sống” cũng khiến các em khó hình dung ra bối cảnh được nhà văn tả trong truyện, không thể cảm nhận ngôn từ của nhà văn để liên hệ tới những gì mình trải nghiệm.

Trong xã hội hiện đại ngày nay, khi mà những thông tin về hiện tượng trẻ bị trầm cảm hay nạn tự tử ở thanh thiếu niên tăng lên, thì việc lôi cuốn trẻ đến với sách cũng có thể đồng nghĩa với việc tìm cho trẻ thêm một chỗ dựa, một người bạn tinh thần, một phương án vượt qua khủng hoảng, giúp trẻ tìm được sự cân bằng và những ý nghĩa tích cực của cuộc sống.

Nhu cầu đọc của trẻ có thể nảy sinh và được nuôi dưỡng bằng việc khích lệ thực chất, thận trọng, có phương pháp, có quan tâm đến từng đối tượng riêng biệt, sở thích cá nhân của trẻ.

Thiết nghĩ, rất cần xây dựng một cộng đồng đọc và duy trì các hoạt động đọc chung giữa cộng đồng. Cộng đồng ấy có thể là gia đình nhỏ (bố, mẹ, con), thông qua đọc sách có thể giao lưu cảm xúc với nhau mỗi ngày. Cộng đồng ấy có thể là gia đình lớn (ông bà, bố mẹ, cô chú, anh chị em họ…).

Cộng đồng ấy có thể là một nhóm bạn thân hoặc, đặc biệt là các Câu lạc bộ đọc và trao đổi sách, được xây dựng có kế hoạch, phương pháp và nội dung lâu dài…

Đọc cũng có thể là một hình thức giao tiếp thú vị, độc đáo và tinh tế giữa các thành viên trong cộng đồng, có khả năng lôi cuốn, làm xuất hiện nhu cầu đọc thông qua nhu cầu giao tiếp và luôn được củng cố bằng những buổi đọc, trò chuyện, chia sẻ, đi thực tế… cùng nhau.

Trên thực tế, với sự hỗ trợ của cộng đồng đọc sách nho nhỏ ấy, những “tủ sách bị khóa trái” như vừa nêu trên hoàn toàn có thể phát huy tích cực ích lợi trong việc học của trẻ, chưa nói là có thể trở thành một người thầy thực sự, với dẫn dắt mềm mại của mình khiến đứa trẻ tham gia vào quá trình tự học, tự đào tạo một cách tự nhiên nhất.

Trước hết là mở rộng vốn từ, sử dụng các cấu trúc ngữ pháp nhuần nhuyễn từ lúc nào không biết thay vì khổ sở với mớ lý thuyết từ loại mà trẻ phải học ra rả để trả bài thi.

Từ vựng của nhà văn được đặt trong không gian câu chuyện, khơi gợi tưởng tượng và cảm nhận thế giới bằng mọi giác quan.

Chẳng hạn, trong buổi sinh hoạt CLB Đọc sách cùng con của chúng tôi, khi cùng đọc Những chiếc áo ấm của Võ Quảng theo phương pháp tương tác, các em nhanh chóng nhớ được những từ và cụm từ “mưa phùn”, “gió bấc”, “lất phất”, “run lên bần bật”…

Các em có thể minh họa bằng động tác cơ thể cho mỗi từ, mỗi hình ảnh và sau đó ngay lập tức vận dụng chúng cho lời nói, câu văn của mình vừa chính xác, vừa tràn ngập cảm xúc. Các em chia sẻ thoải mái những suy nghĩ của mình từ những liên tưởng mà câu chuyện đem lại, không e ngại có đúng, đủ ý theo barem, lạc đề hay có giống các bạn khác hay không.

Và đây chính là điều tuyệt vời nhất mà sách có thể mang đến cho trẻ: Đó là cảm xúc! Khả năng rung động trước một tác phẩm văn học, trước cái đẹp, trước những câu chuyện giữa con người và con người – đó chẳng phải là điều mà môn Ngữ Văn trong nhà trường hướng tới sao?

Và từ những cảm xúc nhiều cung bậc có thể nhận được qua sách, trẻ được hướng dẫn về các giá trị sống và kỹ năng xã hội. Có thông điệp nào mà trẻ không thể nhận được qua sách?

Tình yêu thương, tình mẫu tử, phụ tử, sự trung thực, lòng quả cảm, niềm trắc ẩn… và nhiều giá trị nhân văn khác nữa! Nó sẽ có hiệu quả mạnh hơn hàng trăm, hàng nghìn lần so với việc trẻ phải ra rả các kết luận của bài học Giáo dục công dân.

Một bạn nhỏ đọc xong cuốn Anaruk, cậu bé ở Greenland (Nhà xuất bản Kim Đồng, 2014) đã chia sẻ rất ngây thơ: “Đọc xong, con thấy quý những… món ăn mẹ nấu hơn, cô ạ”. Bạn khác lại phát biểu: “Con sẽ bắt chước người Eskimo, kể chuyện cười để khỏi cãi nhau với bạn!”.

Đó là cách giải quyết mâu thuẫn của các bạn nhỏ ở Bắc cực. Cách hành xử của nhân vật, những câu chuyện nhà văn kể lại luôn có mục đích mà dễ hiểu, dễ tiếp thu thông qua rung cảm cá nhân giúp cho trẻ có nhiều trải nghiệm mới, từ đó xây dựng cho mình một bộ giá trị tinh thần là điều mà việc đánh giá hạnh kiểm ở trường không thể bao quát được.

Những điều đó lại được nói ra dễ chịu giữa một cộng đồng dễ chịu của riêng các em. Văn hóa đọc sẽ được hình thành từ những hoạt động đọc và chia sẻ nho nhỏ như vậy…

Một lần, đọc truyện Cánh buồm đỏ thắm của A. Grin tại CLB Đọc sách cùng con, chúng tôi đề nghị các bạn nhỏ lắng nghe đoạn văn và miêu tả mọi cảm giác nhận được thông qua các giác quan của mình.

Trong tưởng tượng, em nghe thấy gì, ngửi thấy gì, nhìn thấy gì, cảm thấy những gì…? Một em tả lại cảnh cô bé A-xôn đứng trên bờ biển, tóc rối tung trong gió, hai tay đưa ra chờ đợi. Phía xa thấp thoáng cánh buồm đỏ và những gợn sóng biếc chạy dài đuổi nhau đến tận chân trời. Bên cạnh những lời miêu tả thi vị, có đôi chút khuôn sáo ấy, em nói thêm: “Em nghe thấy một tiếng nhạc cô ạ. Hình như là violon?”.

Lúc ấy, tôi đã vui mừng xiết bao khi em nghe được tiếng nhạc – tiếng nhạc lòng. Chỉ khi người ta đắm chìm vào câu chuyện, bị lôi cuốn bởi sức biểu cảm tuyệt vời của ngòi bút nhà văn, tiếng nhạc ấy mới có thể ngân lên.

Những cuốn sách cũng vậy. Trong thời đại “nghe nhìn” này, để tạo thói quen đọc một mình, tạo nhu cầu đọc tự thân cho trẻ, chúng ta có thể bắt đầu từ việc đọc trong cộng đồng nhỏ với nhiều “hoạt động đọc” khác nhau, một trong số đó là đọc và cùng trình diễn một đoạn trích tại chỗ trên cơ sở đọc văn bản.

Khác với việc sân khấu hóa tác phẩm, nên xây dựng một kịch bản tương tác gồm các hoạt động đọc, nghe, diễn giải, vẽ, hát, động tác cơ thể… làm sao cho việc đọc cũng cuốn người nghe theo dòng cảm xúc của mình và người đọc tham gia tích cực vào quá trình này, rơi vào không gian của câu chuyện rất tự nhiên…

Như vậy, việc xây dựng văn hóa đọc không thể chỉ từ bên ngoài, từ bề nổi mà phải chăm chút cho cảm xúc đọc của mỗi con người cá nhân trong cộng đồng đọc bé nhỏ, gần gũi, thân thương.

Nguồn: https://zingnews.vn/be-noi-va-chieu-sau-cua-van-hoa-doc-post1326300.html

Xuất Bản

Liên hoan Văn chương Hòa bình ở Khu Phi quân sự

Được phát hành

,

Bởi

Nhà văn là nhân chứng sáng suốt, là người tỉnh táo, đủ trí tuệ để ghi lại rất nhiều sự kiện xảy ra trong cuộc sống.

Le Minh Khue anh 1

Nhà văn được giải Nobel Svetlana Alexievich và nhà văn Lê Minh Khuê tại liên hoan.

Lịch sử chỉ nói được về sự kiện đó trong vài dòng. Nhưng nhà văn nhìn sự kiện đó thấu đáo thông qua các số phận, ghi chép lại cho các thế hệ tiếp theo.

Văn chương hòa bình ở thành phố sách Pazu

Từ nhiều năm nay, có rất nhiều cuộc gặp gỡ văn chương được Hàn Quốc tổ chức, quy tụ nhiều nhà văn ở các nước đến để dự liên hoan và hội nghị về các vấn đề lớn. Các nhà văn thường đại diện cho những vùng đất ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latin. Ít khi có khuôn mặt đại diện của châu Âu và Bắc Mỹ. Giáo sư Kim Jae Yong, người trong ban tổ chức các hội thảo nói với tôi: “Tôi thích đại biểu của châu Á, châu Phi và Mỹ Latin”.

Năm 2008, tôi được dự hội nghị có hàng trăm nhà văn nhiều màu da. Những cuộc gặp gỡ, những ý kiến khác nhau, nhiều tiếng nói của các miền đất. Nhưng cũng giống như các hội nghị trên thế giới, không ai biết người đang đối thoại của mình từng viết gì. Vui vẻ như vậy, và cũng biết là đã đến các cuộc gặp gỡ này thì ai cũng có “thành tựu” nào đấy, nhưng chẳng ai biết rõ về ai, cuộc sống, tài năng, công việc hàng ngày… Mà có lẽ như thế lại hay.

Nhìn thấy nhau đột nhiên thấy quý mến vì nụ cười, vì màu da, vì xa cách địa lý nhưng cũng có một công việc và cũng có sự quan tâm sâu sắc tới cuộc sống của đất nước mình.

Cuối tháng 11/2023, tôi được mời đến Liên hoan Văn chương Hòa bình ở Khu Phi quân sự DMZ (De-military Zone) do Quỹ văn hóa tỉnh Gyeong-gi chủ trì. Gyeong-gi là tỉnh lớn, một đơn vị hành chính rất quan trọng của Hàn Quốc, có 13 triệu dân, ở ngay cạnh Thủ đô Seoul. Liên hoan tổ chức ở thành phố xuất bản Pazu, nơi chỉ có các nhà xuất bản, và chỉ sách là sách. Khi nhận lời mời tôi nghĩ chắc liên hoan sẽ đặt trọng tâm vào vấn đề về chiến tranh. Chiến sự Nga – Ukraine đang ác liệt. Và từ mấy hôm trước chiến sự ở dải Gaza đang làm cả thế giới thấy bất an.

Đến dự liên hoan, người đầu tiên tôi chú ý nhìn là nhà văn Adania Shibli đến từ Palestine, một người phụ nữ gầy gò, khuôn mặt thông minh nhưng trông có gì đó như thảng thốt. Quê hương của cô ở dải Gaza đang hứng chịu bom đạn chết chóc, trẻ con chết hàng ngày. Tôi bắt tay cô, không nói với nhau được gì nhưng có vẻ cô thấu hiểu tình cảm của người chia sẻ.

Liên hoan có 12 tác giả nước ngoài và 38 tác giả Hàn Quốc, toàn người rất nổi tiếng. Sáu nhà văn trong ban tổ chức là các giáo sư kiêm tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà thơ. Giáo sư Kim Jae Yong rất bận rộn. Ông có những giờ giảng bài ở các trường đại học nên khi đến muộn, ông bắt tay tôi rất chặt. Chúng tôi quen nhau từ năm 2008 và khi tôi tới Hadong nhận giải thưởng văn học quốc tế mang tên văn hào Byeong-ju Lee, ở xa ông đã gọi điện chúc mừng.

Các nhà văn đến từ Nigeria, Ấn Độ, Tunisia, Peru, từ Đài Loan (Trung Quốc), Philippines, Nhật Bản đều ở độ tuổi từ 50 đến 70. Nhà văn da đen Niyi Osundare là người gốc Nigeria nhưng là công dân Mỹ, sống ở bang Louisiana. Ông cười cởi mở, thân thiện với tôi và hát một bài hát gì đó mà điệp khúc nhắc đi nhắc lại Việt Nam… Việt Nam. Ông hát say sưa và bảo với tôi: Đấy, người dân châu Phi rất yêu quý Việt Nam. Ông cùng tuổi với tôi, có ba người con trai, ông hay khoác tay tôi và bảo: Nào, các ông bà già hãy ngồi xuống! Rồi nhắc đi nhắc lại: Việt Nam – Mọi chuyện đều ổn!

Những khi như vậy lại cứ tiếc là chưa được đọc tác phẩm của họ. Cô gái người Philippines cũng vậy. Xinh đẹp, sinh động, tuổi chỉ hơn 40, cô hỏi tôi: Đột nhiên chị gặp tôi ở Hà Nội thì chị sẽ thế nào? Rồi cười tươi tắn bảo: Tôi sẽ tới Việt Nam!

Tham luận của các nhà văn đều hướng đến những vấn đề ở đất nước họ. Xung đột vùng đất, sắc tộc, cách để tồn tại ở một nơi xa lạ. Tôi nói đến những người mẹ trong chiến tranh Việt Nam. Giáo sư Kim Jae Yong bảo tham luận của tôi rất gần với tiêu chí của hội thảo. Thực ra ở Việt Nam đề tài chiến tranh gắn kết với cuộc đời của nhiều thế hệ, cho đến rất lâu sau chiến tranh vẫn chưa thể ra khỏi vùng đất mà nhà văn đề cập.

Trong bữa sáng ở khách sạn, Priya Basil, nhà văn gốc Ấn Độ hiện sống ở Đức có hỏi tôi: Thế khi tham gia chiến tranh chị sợ ai nhất? Cô ấy hỏi ai chứ không hỏi cái gì. Tôi bảo tôi sợ cái chết. Chị có căm thù người Mỹ không? Không. Lúc ấy thì không. Tôi chỉ sợ hãi. Sợ hãi choán hết tâm trí con người. Còn căm thù thì có. Nó tới dần dần. Qua nhận thức, qua thời gian.

Ở Khu Phi quân sự, biên giới giữa Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên, trong khi đứng bên này nhìn sang phía Bắc Triều Tiên, hôm ấy mù trời, không thấy rõ, chỉ thấy thấp thoáng cánh đồng lúa, nhà văn người Ấn Độ nhìn tôi cười: Việt Nam có hoàn cảnh như thế này lâu không? Tôi bảo hơn hai mươi năm. Anh ấy trầm ngâm: Ừ, cũng phải bao nhiêu xương máu…

Diễn đàn khơi gợi ký ức

Mọi người đều có vẻ cảm thông, chia sẻ với nhau. Nhất là khi lúc này bom đạn đang làm thế giới chao đảo, bất ổn. Các bản tham luận đều nói tới ước mong hòa bình cho các vùng đất. Bản tham luận của nhà văn đoạt giải Nobel nói rất nhiều đến ký ức chiến tranh, khi nước Pháp bị xâm chiếm và đội quân xâm lược có những lúc như muốn lấy lòng người dân. Tên lính Đức đưa cho tác giả, lúc ấy còn bé, mấy thanh sôcôla. Lát sau bà ngoại của ông phải giấu vứt đi, vì sợ bị đầu độc. Ông nói nhiều tới ký ức chiến tranh trong các buổi giao lưu, ông nhắc tới những cuộc đối đầu với quân Đức và ký ức bạo lực hầu như theo ông suốt đời.

Le Minh Khue anh 2

Các nhà văn quốc tế dự Liên hoan Văn chương Hòa bình ở Khu Phi quân sự DMZ Hàn Quốc, tháng 11.2023

Jean-Marie Gustave Le Clézio – một cái tên không xa lạ với độc giả Việt Nam. Tôi đã đọc tiểu thuyết Sa mạc của ông. Đọc các truyện ngắn. Đặc biệt là tiểu thuyết Sa mạc, rất khác với các tiểu thuyết có vẻ hơi nhẹ nhõm bóng bẩy ở một số nhà văn Pháp, tiểu thuyết của ông tràn đầy chi tiết, sự kiện, dày đặc tình huống về đời sống trên sa mạc, rất hấp dẫn và không dễ đọc. Ông là một trong ba nhà văn Pháp nổi tiếng, tiêu biểu, là người đã xuất bản trên 30 tác phẩm.

Le Clézio nhận giải Nobel Văn chương năm 2008. Trong lần đi thăm Khu Phi quân sự DMZ, nơi chia cắt hai miền Triều Tiên, ông ngồi giữa hai người phụ nữ, chắc một người là thư ký. Ông cao dong dỏng, thẳng thớm, rắn rỏi, dù đã ngoài 80. Trông ông rất trẻ. Chắc thời trẻ ông cực kỳ hấp dẫn. Tôi chỉ nói được với ông hai ba câu, nhờ Choi Hana dịch qua tiếng Anh. Tôi nói ở Việt Nam sách của ông nhiều người đọc nhất là thanh niên. Ông bình thản gật đầu. Tôi hỏi ông có đọc một vài nhà văn gốc Việt ở Pháp không. Ông bảo ông biết Linda Lê. Ông hỏi sách của tôi có được dịch ở Pháp không? Không, tôi chỉ được in sách ở Mỹ. Ông bảo sắp tới ông sẽ đi Mỹ, ông sẽ tìm đọc…

Tôi biết đó là điều không thể, vì ông hiếm thời gian, vì đi tìm một cuốn sách in đã lâu là điều không thể. Và vì sự quan tâm đến một nhà văn xa lạ cũng rất không thể. Nhưng tôi cảm động vì cách cư xử lịch sự của ông, nó gây nên thiện cảm, sự ấm áp và trân trọng… Những ngày ở Hàn Quốc, giữa các cuộc hội thảo và tham quan, Le Clézio rất trầm lặng, thậm chí có vẻ xa cách. Cũng không thấy nhà văn của nước nào ngồi trò chuyện với ông ngoài các cuộc hội thảo ông ngồi trên diễn đàn, trả lời vài câu hỏi, bàn tới vấn đề chiến tranh – hòa bình và điều ông nói trong hội thảo cũng như trong bản tham luận làm ta suy nghĩ.

Ông nói đến những bi kịch lớn của lịch sử thế giới, những cuộc chinh phục thuộc địa, sự tàn sát người vô tội ở châu Mỹ da đỏ, buôn bán nô lệ từ châu Phi, các cuộc chiến tranh thế giới… Không điều nào trong số đó bị văn chương ngăn chặn. Có lẽ đó không phải là vai trò của văn chương. Nhà văn không phải là nhà tiên tri hay nhà chính trị. Trên hết họ là nhân chứng… Tác phẩm của họ cộng hưởng, đôi khi khuếch đại những sự kiện xảy ra cùng thời với họ, nhưng chúng không ảnh hưởng đến tiến trình chung…

Người cùng ngồi trên diễn đàn với ông là bà Svetlana Alexievich, nhà văn người Belarus được giải Nobel Văn chương năm 2015. Tôi chú ý khuôn mặt hiền hậu của bà, nhưng cái vẻ không khoan nhượng của bà giống như một đặc điểm của các nhà văn nữ hay quan tâm đến các đề tài khó như chiến tranh, như chính trị và thuyết phục người đọc bằng quan điểm cứng rắn. Tôi chú ý tìm bà ngay từ đầu khi bà đi ra cùng hai cô thư ký. Tôi nói với bà: Tôi là nhà văn Việt Nam. Tôi đã trải qua chiến tranh.

Đôi mắt bà nhìn rất nhanh qua tôi. Như nắm bắt nhanh một ấn tượng. Cái nhìn vừa như muốn quen biết vừa như dò hỏi. Nhưng thiện cảm thì rất rõ. Chúng tôi bắt tay nhau nhưng nói chuyện lại khó. Bà nói tiếng Nga. Phải có một phiên dịch tiếng Anh biết tiếng Nga. Đành chỉ biết cười vậy!

Svetlana Alexievich gây ấn tượng với tôi từ lâu khi tôi đọc quyển Chiến tranh không có khuôn mặt phụ nữ của bà. Sách được ông Nguyên Ngọc chuyển ngữ thu hút người đọc Việt Nam hơn vì tác giả và dịch giả cùng trải qua chiến tranh, có sự đồng cảm lớn.

Trong quyển sách của bà có một chi tiết làm tôi xúc động ngay từ lần đọc đầu tiên. Một nhóm nữ du kích bị bọn Đức bắt giam. Những tên Gestapo độc ác. Một người phụ nữ có đứa con nhỏ hơn một tuổi chưa biết nói. Khi bọn lính lôi người mẹ đi, đứa trẻ lần đầu tiên trong đời hét lên: Mẹ!

Quyển sách sắp xuất bản của bà cũng thuộc thể loại văn xuôi phi hư cấu. […]

Rất nhiều câu chuyện Svetlana nói trên diễn đàn. Cuộc chiến đang diễn ra và chuyện của bà thu hút người nghe.

Những tác giả Nobel Văn chương đến Hàn Quốc là một sự kiện. Hội trường đông nghẹt người nghe. Buổi giao lưu quan trọng có vị phó tỉnh trưởng tỉnh Gyeong-gi cầm trịch. Vị quan chức của tỉnh là người rất am hiểu văn chương. Ông dẫn dắt, gợi ý, từ đại biểu đến thính giả đều như hướng về cách gợi mở của ông. Trong dàn người đông đúc khi chụp ảnh lưu niệm, ông nhìn về phía tôi rồi tiến tới hỏi tôi ở đâu. Tôi ở Việt Nam đến! Ông cười rạng rỡ, nói như chúc mừng: Chào Việt Nam!

Nhìn cách đón tiếp trân trọng, sự nể nang của mọi người mới thấy người được giải Nobel cực kỳ hạnh phúc. Những điều ông Le Clézio nói làm tôi vừa tâm đắc vừa lấy lại niềm tin vào công việc mà lâu nay mình đã xem nhẹ. Văn chương đích thực phải được nuôi dưỡng trong môi trường tương xứng. Không khí tinh thần ô nhiễm khiến người viết chán nản, tự rẻ rúng với nghề. Nhà văn ta cũng có nhiều sự đáng bị xem thường, nhưng nếu như cần lấy lại sự tôn trọng thì cần hiểu hơn nữa cái nghề mình theo.

Bởi theo nhà văn đoạt giải Nobel mà tôi gặp, văn chương không giúp ích trực tiếp cho bất kỳ một mặt nào của cuộc sống. Văn chương không ngăn cản được chiến tranh, không ngăn cản được đói nghèo, không làm dịu được sự phẫn nộ của thiên nhiên. Nhưng nhà văn là nhân chứng sáng suốt bậc nhất, là người tỉnh táo, đủ trí tuệ để ghi lại rất nhiều sự kiện xảy ra trong cuộc sống. Lịch sử chỉ nói được về sự kiện đó trong vài dòng. Nhưng nhà văn nhìn sự kiện đó thấu đáo thông qua các số phận, ghi chép lại cho các thế hệ tiếp theo.

Nhà văn – có lẽ cũng là người cần thiết.

Nguồn: https://znews.vn/lien-hoan-van-chuong-hoa-binh-o-khu-phi-quan-su-post1453329.html

Tiếp tục đọc

Xuất Bản

Những dự án lan tỏa tình yêu sách

Được phát hành

,

Bởi

Không chỉ đầu tư nâng cao chất lượng sách, các đơn vị xuất bản còn tổ chức nhiều hoạt động nhằm lan tỏa tình yêu sách, góp phần xây dựng thói quen đọc.

Du an tang sach anh 1

“Chia sẻ yêu thương – Chào xuân mới” là chương trình Nhà xuất bản (NXB) Phụ nữ Việt Nam phối hợp cùng Ban Quản lý Phố sách Hà Nội và Câu lạc bộ Gia đình người tự kỷ Hà Nội tổ chức trong tuần này với mong muốn đáp ứng mong ước của các gia đình có con tự kỷ là được đưa con ra phố, để con mình vào nhịp sống thường nhật, và có một ngày hội để con được biểu diễn, được xem các tiết mục văn nghệ, được gặp gỡ nhau.

Ngày hội ấy còn là dịp để các phụ huynh và các giáo viên làm việc trong lĩnh vực giáo dục trẻ đặc biệt có cơ hội gặp gỡ, chia sẻ thông tin, hỗ trợ và động viên nhau.

Đây chỉ là một trong số nhiều hoạt động vì cộng đồng mà NXB Phụ nữ Việt Nam tổ chức thường xuyên trong nhiều năm qua như đưa sách về vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, tặng sách đến các không gian đọc cộng đồng và các không gian đọc do những người khuyết tật quản lý, tổ chức các buổi trò chuyện chuyên đề và trao tặng sách tới các trại giam.

Đại diện NXB cho biết những năm gần đây, trung bình mỗi năm NXB Phụ nữ Việt Nam tổ chức khoảng 50 sự kiện khuyến đọc. Năm 2022, một Quỹ sách Cộng đồng cũng đã được NXB Phụ nữ Việt Nam cho ra mắt, từ đó nhận được sự đồng hành của nhiều cá nhân, tổ chức để có được nhiều chương trình trò chuyện khuyến đọc và tặng sách tới cộng đồng.

Điểm đặc biệt, không chỉ khuyến đọc ở vai trò của một đơn vị xuất bản mà nhiều cán bộ của NXB Phụ nữ Việt Nam cũng luôn mang trong mình một tình yêu với sách và truyền lửa đọc ấy đến xung quanh. Như một cán bộ truyền thông của NXB Phụ nữ Việt Nam đã thành lập Quỹ Khuyến đọc trong nhóm facebook “Mạng lưới cha mẹ” với mong muốn quyên góp sách tặng của nơi có sách tới nơi cần sách, quyên góp tiền ủng hộ mua sách, giá sách, các trang thiết bị liên quan tới việc đọc sách, và góp phần thúc đẩy văn hóa đọc trong cộng đồng.

Hướng tới cộng đồng bằng Quỹ Chibooks Kết nối yêu thương, năm vừa qua Công ty sách Chibooks hoạt động mạnh mẽ với dự án xây dựng 300 tủ sách thư viện miễn phí vào các trường học trên cả nước, từ tiểu học, THCS, THPT đến các trường cao đẳng, đại học. Đây là dự án đã được triển khai từ năm 2011 đến nay với tổng kinh phí ước tính 12 tỷ đồng nhằm nâng cao ý thức đọc sách trong cộng đồng. Đọc sách để chúng ta thêm hiểu và yêu thương con người, mở rộng cánh cửa tâm hồn ra với thế giới xung quanh. Chibooks mong muốn dự án sẽ lan tỏa ảnh hưởng sâu rộng về ý thức đọc sách đến học sinh từ tiểu học, THCS, gieo mầm tìm hiểu, khát khao khám phá, mở rộng trí tưởng tượng và tri thức cho các em thông qua sách vở.

Dịch giả Nguyễn Lệ Chi, Giám đốc Công ty sách Chibooks, cho biết: “Riêng năm 2023, Quỹ Chibooks Kết nối yêu thương đã trao tặng 32 tủ sách thư viện với 14.242 bản sách, tổng trị giá trên 1,61 tỷ đồng, trong đó gồm 14 tủ sách thư viện cho các trường học và trao tặng sách tới 18 thư viện cộng đồng, 15 thư viện của 15 nhà văn hóa bản”.

Với hoạt động tặng sách cho học sinh tại các trường học ở những nơi chưa đủ điều kiện để thiết lập tủ sách, chương trình “Sách đến tay em” là một trong những Dự án của Câu lạc bộ Vườn yêu thương Thái Hà được triển khai từ cuối tháng 7/2022. Bên cạnh đó, Thái Hà books cũng tổ chức nhiều chương trình khuyến đọc như “Tết sách”, “Sách đồng hành cùng sinh viên”, “ATM sách miễn phí – phiên bản 2”, “Đổi sách lấy cây – gây quỹ khuyến đọc”…

Omega Plus books chọn hướng đi là hỗ trợ xây dựng tủ sách cộng đồng cho các doanh nhân muốn xây dựng thư viện cho cộng đồng, doanh nghiệp, cho các cá nhân, nhóm muốn xây dựng thư viện cho gia đình, quê hương, dòng họ, thư viện cho bệnh viện hay thư viện cho trường học… Danh mục sách là các tác phẩm kinh điển, nền tảng do Omega Plus books tuyển chọn và xuất bản ở nhiều chủ đề khác nhau từ lịch sử Việt Nam, lịch sử thế giới, chính trị, kinh tế, khoa học vật lý, văn học thiếu nhi, giáo dục, y học, nghệ thuật, âm nhạc…

Với NXB Kim Đồng, hoạt động khuyến đọc và trao tặng sách được tổ chức thường xuyên, liên tục như chương trình “Một triệu cuốn sách cho trẻ em nghèo”, tặng tủ sách cho các trường học ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, cho cộng đồng trẻ em nghèo người Việt tại nước ngoài – những nơi còn khó khăn, không có điều kiện tiếp cận với sách vở, tài liệu trong nước; bảo trợ, thường xuyên tặng sách cho các thư viện, không gian đọc.

Mỗi đơn vị chọn một cách làm riêng nhưng điểm chung là đều hướng đến vì cộng đồng, đặc biệt với những cộng đồng còn khó khăn, nhằm mang tri thức đến với lớp trẻ, lan tỏa tình yêu sách và góp phần xây dựng thói quen đọc.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho ZNews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. ZNews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/nhung-du-an-lan-toa-tinh-yeu-sach-post1454645.html

Tiếp tục đọc

Xuất Bản

‘Hồn Trương Ba da hàng thịt’ – Một cách tiếp cận thế hệ công chúng mới

Được phát hành

,

Bởi

Kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Tsuyoshi Sugiyama là sự tiếp cận ráo riết thế hệ người xem mới, song gây ra tiếng thở dài cho phần công chúng còn luyến nhớ những mẫu mực.

Hon Truong Ba anh 1

Đạo diễn người Nhật Bản Tsuyoshi Sugiyama từng gây được dư luận ở Việt Nam với cách xử lý độc đáo hai vở kịch kinh điển Cậu Vanya (Anton Chekhov) và Hedda Gabler (Henrik Ibsen) ở Nhà hát Tuổi Trẻ. Lần này, vẫn với tư duy sân khấu độc đáo đó, anh mang đến cho bản dựng Hồn Trương Ba da hàng thịt nhiều nét lạ.

Một tổng thể những nét lạ

Cái lạ đầu tiên là hóa trang và trang phục. Tất cả nhân vật đều ăn mặc khá hiện đại và có phần được Nhật hóa. Vợ chồng con cái nhà Trương Ba như những người nông dân đâu đó bên nước Nhật. Vợ anh hàng thịt, đặc biệt là đám tiên nữ nhà trời, không khác gì những vũ nữ tân thời trong một màn tạp kỹ (nói như một ông quan thiên đình trong kịch “thiên đình gì mà như cái chợ”, thì ở bản dựng này thiên đình gì mà như sân khấu tạp kỹ). Hai ông quan liêu tùy tiện ở thiên đình là Nam Tào Bắc Đẩu trang phục như công chức, nhưng được phân biệt với người hạ giới bằng cách đội trên đầu cặp sừng trâu và sừng dê, vừa như quỷ sống vừa như đám đầu trâu mặt ngựa.

Các nhân vật phần nhiều mang điểm nhấn hóa trang bôi mặt trắng như kiểu kịch Nô của Nhật, cũng có khi là những vạch vằn vện kiểu tuồng Tàu hoặc thổ dân đâu đó. Hóa trang và phục trang gây không khí Nhật hóa và gợi liên tưởng một câu chuyện dân gian không chỉ riêng một đất nước nào.

Cái lạ nữa là đạo diễn chuyển đổi giới tính cho một số nhân vật. Đế Thích cao cờ không phải là phi giới tính như cách thể hiện của nghệ sĩ Trần Tiến trong bản dựng đầu tiên gần bốn chục năm trước, mà là một… bà, bà tiên Đế Thích.

Lý trưởng bê bối tham nhũng ngày trước là nghệ sĩ Phạm Bằng thì nay là một người đàn bà, một bà có chức có quyền và cũng không hẳn là giới tính nữ. Một số nền văn minh cổ coi thần thánh mang trong mình cùng lúc nhiều giới tính, và kẻ tham nhũng trong kịch này có lẽ cũng đa sắc như vậy.

Đạo diễn dụng công tạo ra những mảng miếng lạ, chẳng hạn trong vở Cậu Vanya, ông để cho nghệ sĩ Lê Khanh và các diễn viên khác lăn lộn trong nhem nhuốc cát bụi. Cát thật. Cát mịt mù trên sân khấu. Còn ở Hồn Trương Ba da hàng thịt, lối sử dụng các nguyên vật liệu làm đạo cụ vẫn còn đó. Cái chậu tiết anh hàng thịt hất văng ra nhuộm đỏ một mảng sân khấu. Cốc nước của bà quyền chức cũng màu máu. Xô nước mà người con dâu hắt vào cái hồn-Trương-Ba-da-hàng-thịt để thức tỉnh phần hồn ông Trương Ba cũng là… nước thật.

Đạo diễn không ngần ngại để cho nước lênh láng trên sàn diễn, mà theo một quan niệm sân khấu nào đó thì không nhiều mỹ cảm. Nhưng chỉ có cách tự lý giải: đó là chủ ý của riêng đạo diễn Tsuyoshi Sugiyama. Các động tác lên thiên đình xuống trần gian của Đế Thích và bà vợ Trương Ba là ước lệ không gian kiểu chiếu chèo nhưng cũng là phép ước lệ của sân khấu dân gian nhiều nước.

Cuộc giằng co giữa thể xác hàng thịt và linh hồn của Trương Ba được cụ thể bằng một vật kết nối như sợi dây thừng, lại cũng như những khúc dồi hoặc dây xúc xích của anh hàng thịt. Ấy vậy, người xem vừa tưởng như có thể kết luận rằng sử dụng ước lệ và biểu tượng là căn tính của đạo diễn thì lại va ngay vào những động tác hình thể quá cụ thể như động chạm cầm nắm sờ soạng. Diễn viên đã làm thật, như có dụng ý bác bỏ ước lệ mà khẳng định họ đang làm dạng kịch truyền hình trong nhà ngoài phố.

Nhiệt tình mang đến cái lạ cũng có thể đã làm cho kịch thiếu đi những khoảng lặng, những phút lắng lại, trầm sâu trong tâm tưởng và gieo vào người đọc những cảm xúc mà kịch bản đã sẵn có. Những yếu tố kỹ thuật tân thời và sự mải mê thủ pháp mảng miếng lạ có khi đã khiến cho kịch thiên về tính kỹ nghệ và duy lý.

Hon Truong Ba anh 2

Tạo hình tiên Đế Thích và bà vợ Trương Ba trong vở kịch. Ảnh: Se sẽ chứ.

Chiến trường của linh hồn và thể xác

Dù có tránh bớt liên tưởng đến cây cao bóng cả, thì cũng thấy sau mấy thế hệ của sân khấu kinh điển như Trọng Khôi, Mỹ Dung, Trần Tiến, Lan Hương (Quắm), Phạm Bằng… truyền thống dựng kịch kinh điển duy mỹ có thể đã dừng lại sau thế hệ của những Lê Khanh, Ngọc Huyền, Chí Trung, Anh Tú (và Thành Lộc ở Sài Gòn)…

Trong tình thế hiện nay, chạm đến những vở kịch kinh điển giàu tính biểu tượng và ẩn dụ, đạo diễn vẫn phải thỏa hiệp với lớp diễn viên mới để làm nên một thứ “tân cổ giao duyên” – chỉ nói về nghệ thuật diễn xuất. Phải chấp nhận pha trộn giữa động tác hình thể cách điệu và cách diễn tả thật, pha trộn lối diễn xuất giữa sân khấu và phim truyền hình. Đến thế mới thấy diễn viên đóng vai hồn-Trương-Ba-da-hàng-thịt nỗ lực rất nhiều mà cái gánh nặng ấy vẫn là quá sức.

Diễn viên không làm cho người xem thấy được cơn vật vã giằng giật của hồn bên trong xác, một khi hình thể khô cứng thiếu sinh sắc. Đài từ các diễn viên vốn quen được hỗ trợ khuếch âm của các phương tiện âm thanh hiện đại, khi bị khước từ dùng micrô, phải dùng giọng mộc, dùng âm thanh gốc, thì nỗi hoang mang không tự tin vào giọng mình bộc lộ qua những phát âm nhả chữ thiếu tròn vành, thậm chí nhiều khi díu và dính, nhòe và hụt hơi.

Trở lại với cách xử lý của đạo diễn. Kết thúc vở kịch, hồn ông Trương Ba chấp nhận cái chết và anh hàng thịt được sống lại. Đạo diễn Nguyễn Đình Nghi khi xưa đã để cho anh ta vùng dậy, nhìn quanh rồi thô lỗ quát mắng cô vợ – ngựa quen đường cũ, thói xưa khó bỏ.

Nhưng đạo diễn Tsuyoshi Sugiyama đã xử lý cách khác. Không chỉ ông Trương Ba chết, tất cả nhân vật từ anh hàng thịt, vợ chồng con cái nhà anh cho đến gia đình Trương Ba và bạn bè, cả tiên nữ và Đế Thích đều đi những bước giật lùi, họ đi ngược không gian và thời gian, để rồi tất thảy cùng đổ xuống, cùng lăn ra chết. Mới trước đó các nhân vật còn luận về chuyện hồn nọ xác kia, hồn không cần cậy nhờ cái xác, xác cũng chẳng phải mượn hồn, giờ thì hồn nào xác nào cũng chết. Tại sao vậy? Rằng không phải chỉ có một ông Trương Ba mới phải mượn thể xác người khác? Có khi cả thế gian này đều là hồn nọ xác kia, chẳng có ai được nguyên vẹn là mình, có khi ai ai cũng đều là những thực thể lắp ghép, để mà sống với đời?

Trên cái thế gian mà hóa ra chẳng có ai nguyên vẹn, chỉ còn lại một nhạc công ôm cây đàn ghi ta, đi như trên một bãi chiến trường sau trận đấu hồn và xác. Anh ta cũng là người dẫn chuyện bằng âm thanh trong suốt vở diễn. Và những âm thanh cuối cùng được cất lên, có thể là khúc cầu siêu, cũng có thể là khúc hoan ca.

Ở bản Hồn Trương Ba da hàng thịt của Tsuyoshi Sugiyama, đài từ và hình thể của các diễn viên nếu đạt chuẩn kịch kinh điển, sẽ chuyển tải nội dung trọn vẹn, và cái trải nghiệm sân khấu lạ lùng này sẽ thật sự là cách xử lý sân khấu kinh điển có ý nghĩa cho người xem hôm nay.

Tất nhiên sự tiếp cận ráo riết thế hệ người xem mới sẽ gây ra tiếng thở dài cho phần công chúng còn luyến nhớ những mẫu mực. Nhật hóa và quốc tế hóa một vở kịch Việt như vậy, không chỉ vì đạo diễn Nhật Bản nhớ quê hương, mà biết đâu Tsuyoshi Sugiyama cũng mong một ngày nào đó bản dựng này sẽ đến với người xem ở quê hương anh và cả đâu đấy bên ngoài đất Việt.

Hồn Trương Ba da hàng thịt, kịch của Lưu Quang Vũ, đạo diễn: Tsuyoshi Sugiyama, sản xuất: Nguyễn Hoàng Điệp, diễn viên của nhiều nhà hát: Chiều Xuân, Kim Oanh, Xuân Tùng, Hương Thủy, Hoàng Tùng, Mạnh Hoàng, Thanh Lê, Hirota, Trường Khang… Ba buổi công diễn tác phẩm diễn ra từ 12 đến 14/1 tại rạp Công Nhân, Hà Nội.

Nguồn: https://znews.vn/hon-truong-ba-da-hang-thit-mot-cach-tiep-can-the-he-cong-chung-moi-post1454673.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng