Connect with us

Sách hay

Cuộc đại di cư tiếp theo của loài người sẽ diễn ra thế nào?

Được phát hành

,

Richard O. Prum, nhà điểu học ở Đại học Yale, nhận xét quyển sách “Cuộc đại di cư tiếp theo” của Sonia Shah nêu ra vấn đề có tầm quan trọng với sự sống còn và hạnh phúc con người.

Mỗi mùa xuân, hơn 300 loài chim sẽ di cư về phía bắc. Chúng bay từ nơi trú đông ở Caribbean, Trung và Nam Mỹ đến nơi sinh sản ở Mỹ và Canada.

“Vào một ngày tháng 5, tôi có thể quan sát được chim hoét, những con chim lông xanh lục, vàng anh và 21 loài chim chích rừng – những loài nổi tiếng nhất trong mùa xuân – tại một điểm tập trung đông chim di cư ở gần nhà”, Prum viết trong bài bình sách đăng trên New York Times. “Được nhìn thấy nhiều con chim chích tuyệt đẹp là điểm nhấn duy nhất trong những tuần lễ phải giãn cách xã hội của tôi”.

Chuyện di cư luôn diễn ra xung quanh chúng ta, nếu chúng ta có đủ thời gian, kiên nhẫn và may mắn để quan sát, ông Prum nói.

Cuoc dai di cu tiep theo,  The Next Great Migration anh 1

Áo phao bị người di cư bỏ lại trên đảo Lesbos của Hy Lạp vào tháng 10/2019. Ảnh: Getty.

Chuyện di cư cũng xuất hiện trên tin tức. Trên hầu hết châu lục, người tị nạn đang chạy trốn chiến tranh, bạo lực sắc tộc, băng đảng, áp bức chính trị, nạn đói và biến đổi khí hậu. Chuyến đi của họ đã thúc đẩy các nỗ lực hỗ trợ nhân đạo và dẫn đến các hành động quân sự, khủng hoảng của chính phủ, phong trào chính trị, lời lẽ bài ngoại và các dự án xây dựng lớn ở biên giới.

Người tị nạn đang mạo hiểm mạng sống của họ để vượt Địa Trung Hải, sông Rio Grande và sa mạc Sahara. Họ cũng bị giam giữ trong các trại kiên cố ở Hy Lạp, đảo san hô của Australia và ở khu vực biên giới của Bangladesh và Texas.

Quan điểm lâu đời về sự di cư

Trong The Next Great Migration: The Beauty and Terror of Life on the Move (tạm dịch Cuộc đại di cư tiếp theo: Vẻ đẹp và đau thương trên hành trình), nhà báo Sonia Shah đã tìm hiểu lịch sử của mối liên hệ giữa tất cả hiện tượng di cư. Là con gái của một cặp vợ chồng di cư từ Ấn Độ đến New York, bà Shah nói việc tái định cư của cha mẹ “mang đến cho tôi cảm giác mình đang ở sai chỗ, một cảm giác cần đến 5 thập kỷ để phai mờ”.

Cuoc dai di cu tiep theo,  The Next Great Migration anh 2

Tác giả Sonia Shah. Ảnh: Glenford Nuñez.

Sau cả đời phải chịu đựng những câu hỏi của người Mỹ như gốc gác “thực sự” ở đâu, bà nhắm đến việc phân tích những đóng góp khoa học trong việc định hình nên suy nghĩ về mối quan hệ giữa con người và nơi chốn.

Trong Cuộc đại di cư tiếp theo, bà Shah nói từ lâu, quan điểm cho rằng di cư là động lực cho những bất thường và rối loạn đã ảnh hưởng đến văn hóa phương Tây. Quan điểm này có thể được nhìn thấy qua các chính sách ưu sinh và bài ngoại ở Mỹ vào thế kỷ 20, nạn diệt chủng của Đức Quốc xã và phong trào chống nhập cư ngày nay.

Bà đã tìm hiểu lịch sử trải dài hơn ba thế kỷ của những ý tưởng này, từ nhà thực vật học Thụy Điển vào thế kỷ 18 Carl Linnaeus đến nhà hoạt động chống nhập cư người Mỹ John Tanton thời hiện đại. Bà Shah đối chiếu tư tưởng khoa học truyền thống với tư tưởng trái ngược vào thời đó, từ nhà tự nhiên học người Pháp ở thế kỷ 18 Comte de Buffon (mặc dù ông cũng không tránh khỏi việc có tư tưởng phân biệt chủng tộc) đến Darwin. Họ xem di cư là quá trình tự nhiên và tích cực.

Tác giả Shah kết luận việc di cư của con người thời nay không phải hiện tượng đặc biệt trong lịch sử mà chỉ đơn giản là một biểu hiện của dòng di cư con người (Homo migratio).

Mối liên hệ giữa việc di cư của con người và động vật

Bà Shah kể câu chuyện của mình từ các khu vực có khủng hoảng tị nạn và các điểm nóng di cư trên toàn cầu. Trong đó, có các đảo ở Hy Lạp, thung lũng Himalaya, căn hộ các gia đình Eritrea nhập cư ở quê nhà Baltimore của bà và từ Cape May, New Jersey – nơi những người ngắm chim tụ tập vào mùa thu để quan sát chim săn mồi và chim chích chòe di cư.

Mối liên hệ giữa sự di cư của người và động vật đôi khi còn mạnh mẽ hơn tác giả Shah nhận ra. Ở phía đông Panama, bà Shah gặp một gia đình tị nạn Haiti đang tới Mỹ. Họ đã đi sáu ngày qua khu rừng ở Darién Gap, khu rừng nối liền lục địa Bắc và Nam Mỹ. Mỗi mùa xuân và mùa thu, hàng triệu con diều hâu cánh rộng và diều hâu Swainson cũng di cư trên con đường tương tự. Chúng bay từ nơi sinh sản trong các khu rừng ở Bắc Mỹ đến nơi trú đông ở Pampas, Argentina.

Eo đất của Panama đã tạo ra nút cổ chai cho việc di cư xuyên lục địa của người và chim. Tương tự, đảo Lesbos của Hy Lạp là một điểm nghỉ ngơi cho cả người và chim di cư qua Địa Trung Hải.

Phạm vi câu chuyện của bà Shah rất rộng. Bà cũng đi một số lối tắt trong khoa học, một số chúng làm suy yếu lập luận của bà.

Các nhà sinh học chia chuyển động của thực vật và động vật thành nhiều loại. Đó là di chuyển hàng ngày quanh nhà, di cư theo chu kỳ hàng năm, phân tán từ nguồn gốc tự nhiên đến nơi sinh sản, dòng gen trong một loài, mở rộng phạm vi của động vật, phân tán loài qua hàng rào địa lý, … Bà Shah gom tất cả lại và gọi đó là “di cư”. Điều này làm cho một số lập luận của bà trở nên khó hiểu. Làm thế nào mà nguồn gốc châu Phi của con người liên quan đến những thách thức mà báo sư tử phải đối mặt khi băng qua đường cao tốc ở Los Angeles hay việc những con chuột lemming nhảy xuống biển tự tìm cái chết.

Cuoc dai di cu tiep theo,  The Next Great Migration anh 3

Bìa quyển sách Cuộc đại di cư tiếp theo: Vẻ đẹp và đau thương trên hành trình được ra mắt ngày 6/6/2020 của tác giả Sonia Shah. Ảnh: New York Times.

Prum nói rằng trong khi đang chăm sóc cây táo ở ven biển Maine vào đầu tháng 5, ông bị phân tâm vì hai vết sưng ngứa ở sau gáy do những sợi lông sâu bướm siêu nhỏ rơi xuống cổ áo. Những sợi lông này là của loài bướm đêm đuôi nâu (euproctis chrysorrhoea), loài bướm vô tình được đưa vào bờ Đông nước Mỹ hơn 100 năm trước. Quần thể của loài này đã bùng nổ trong vài năm qua. Chúng phá hoại gỗ sồi và các loại cây gỗ cứng khác.

Ông Prum nói rằng ông bị khó chịu bởi việc bà Shah bỏ qua tác động của loài xâm lấn. Bà Shah liên hệ lịch sử của các hệ sinh thái có sinh vật xâm lấn với các chính sách và quan điểm chống nhập cư đương thời. Tuy nhiên, bà không nhận ra thiệt hại sinh thái thực sự mà những loài xâm lấn đang gây ra trên khắp thế giới.

Trong một thế kỷ qua, các khu rừng phía đông Bắc Mỹ đã mất dần các cây dẻ và cây du trước mầm bệnh từ những loài xâm lấn từ châu Âu. Ngày nay, các quần thể thông và nhiều loài tần bì đang bị phá hoại bởi các loài côn trùng gây hại từ châu Á. Tuy nhiên, bà Shah chỉ nói qua loa đến chuyện này.

Cuốn sách của bà cũng không đề cập đến tác động sinh thái to lớn mà sự di cư của con người để lại cho hành tinh này. Nhà cổ sinh vật học David Steadman ước tính việc con người sinh sống ở các đảo Thái Bình Dương từ 1.000-5.000 năm trước đã dẫn đến sự tuyệt chủng của khoảng 2.000 loài chim – khoảng một phần năm số loài chim trên thế giới. Quy mô tàn phá sinh thái một cách trung gian của con người không thể xem nhẹ.

Mặc dù không nêu thẳng ra trong quyển sách, bà Shah thể hiện sự di cư của con người là sự giao thoa giữa nhiều vấn đề. Đó là vấn đề chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo, giới tính, giai cấp, bất bình đẳng kinh tế, chính trị, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa thực dân và sức khỏe, chưa kể đến di truyền, tiến hóa, sinh thái, địa lý, khí hậu, biến đổi khí hậu và thậm chí kiến ​​tạo mảng.

Tất nhiên, bà Shah không thể tưởng tượng chủ đề của quyển sách này và quyển sách trước đó của bà Pandemic: Tracking Contagions, From Cholera to Ebola and Beyond (tạm dịch Đại dịch: Theo dõi bệnh truyền nhiễm, từ dịch tả đến Ebola và những thứ khác) lại có sự giao thoa trong tình hình hiện tại: sự di cư của con người trong đại dịch.

Điều này cho thấy sách của bà giải quyết các vấn đề có tầm quan trọng cơ bản đối với sự sống còn và hạnh phúc của chúng ta, tác giả bài bình sách kết luận.

Nguồn: https://zingnews.vn/cuoc-dai-di-cu-tiep-theo-cua-loai-nguoi-se-dien-ra-the-nao-post1106684.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng