Vi sinh vật tồn tại không chỉ xung quanh mà còn ở trên và trong mỗi chúng ta. Chúng chịu trách nhiệm cho nhiều hoạt động sinh hóa liên quan tới cơ thể. Bẩn cũng tốt (tác giả Jack Gilbert, Rob Knight và Sandra Blakeslee) là nỗ lực giúp các ông bố, bà mẹ hiểu được lợi ích của “vi trùng” thông qua những câu hỏi thiết thực và những câu trả lời khoa học nhưng không kém phần hóm hỉnh.
Được sự đồng ý của Nhã Nam, Zing trích đăng một phần cuốn sách.
Con tôi có nhận những vi trùng xấu từ bạn bè nó ở trường không?
Gần như chắc chắn là con bạn trao đổi vi sinh vật với những đứa trẻ khác và nhân viên ở trường. Việc trẻ nhận thêm nhiều vi khuẩn tốt hơn là vi khuẩn xấu thì lại là đề tài gây tranh cãi.
Theo kinh nghiệm của tất cả các bậc cha mẹ, bao gồm cả chính chúng tôi, trường mẫu giáo giống như một ổ bệnh truyền nhiễm. Bọn trẻ về nhà với cảm lạnh, cúm, thủy đậu, những đám mẩn đỏ bí hiểm, chấy rận và những thứ ký sinh khó chịu khác.
Để con trẻ vui chơi không ngại bẩn cũng là điều tốt. Ảnh: Nhã Nam. |
Những thứ đó có thể lây sang những thành viên khác trong nhà nhanh như tốc độ của một đứa trẻ chạy qua hành lang. Jack nhớ lại lần đầu tiên bọn trẻ nhà anh bị lây chấy ở trường.
Lúc đó, anh đang tham dự hội nghị ở Ấn Độ và vợ anh, Kat, đã cuống hết cả lên. Từ xa, anh đã cảm nhận được điều ấy từ vợ khi thấy cô luộc quần áo, tẩy trùng toàn bộ căn nhà và sử dụng đủ loại dầu gội cũng như lược chải để loại bỏ trứng chấy.
Cuối cùng, khi anh về tới nhà sau một chuyến bay rất dài và mệt mỏi, Kat đã yêu cầu anh cởi toàn bộ quần áo ngay khi anh vừa bước chân qua cửa. Tất cả quần áo của anh đã bị luộc và anh cũng phải gội dầu gội chống chấy.
Anh rất bối rối với mức độ tiệt trùng này vì anh đã không ở nhà khi dịch chấy xảy ra. Nhưng Kat đã rất cứng rắn, rằng anh phải làm như vậy. Do đó, dù rất mệt mỏi do thay đổi múi giờ, anh cũng đã tuân theo.
Nhìn chung, gia đình Jack hiếm khi mắc các bệnh cấp tính có vẻ bị lây từ trường học, có thể nhờ một sự thật rằng trường tiểu học của con họ có những quy định rất nghiêm khắc về những trẻ có dấu hiệu ốm.
Ví dụ, nếu trẻ nói rằng nó cảm thấy nóng, một cuộc điện thoại sẽ gọi tới bố hoặc mẹ trẻ để cách ly và đưa trẻ ra khỏi trường. Jack chắc chắn rằng các con anh đã dùng chính sách này của trường như cái cớ để có một ngày nghỉ học nhiều hơn một lần.
Nhưng những dịch bệnh vi mô đó có hoàn toàn xấu không? Chúng tôi đã và đang lý luận rằng bạn muốn con mình tiếp xúc với các vi sinh vật đa dạng nhất có thể, cả tốt và xấu, nhưng không xấu đến mức đe doạ tới sức khỏe lâu dài.
Khi trẻ ở ngoài, hãy để chúng tự do vui chơi và đừng lo nghĩ quá nhiều. Ảnh: Behance. |
Có một khác biệt lớn về mặt phát triển hệ miễn dịch giữa việc bị cảm lạnh và sa sút vì viêm gan. Tiếp xúc với bệnh truyền nhiễm là điều không tránh khỏi trong bối cảnh trường học, vì vậy chúng tôi khuyên bạn đừng bực dọc về chuyện đó.
Phần lớn các bệnh nhiễm khuẩn đều tự khỏi và bạn có thể tiếp cận dịch vụ chăm sóc y tế tiên tiến nếu cần.
Nói về việc tiếp xúc với vi sinh vật đa dạng, phong phú, nếu con bạn được tiếp xúc với một đứa trẻ nước ngoài trong một thời gian dài, việc này thật ra có thể giúp tăng cường tính đa dạng vi sinh của chúng, như vậy có thể mang lại những lợi ích sức khỏe không biết trước được.
Và bạn cũng đâu thể biết: Con bạn có thể học thêm một ngoại ngữ nữa thì sao.
Tôi có nên nuôi chó không?
Có, và càng sớm càng tốt. Bạn có thể nhận thấy em bé của bạn không nao núng bò đến chỗ bất cứ con chó nào trong tầm với.
Một phần lý do là con người vốn có niềm đam mê bẩm sinh với chó, một phần vì mối quan hệ vô hình giữa bạn và chú chó mà bạn có thể chưa nhận ra.
Mỗi khi chú chó chạy lon ton vào trong nhà, nó mang theo vi khuẩn từ bên ngoài, do đó làm tăng sự đa dạng cũng như số lượng vi khuẩn mà con bạn được tiếp xúc.
Điều này nghe có vẻ đáng báo động nhưng đó là điều tốt. Hệ miễn dịch đang phát triển của con bạn tương tác với những vi khuẩn đó và nhờ đó trở nên tốt hơn.
Các nhà nghiên cứu gần đây đã nuôi cấy một vi khuẩn thuộc chi Lactobacillus từ chó, truyền nó sang chuột bị hen suyễn và thấy khả năng chuột bị lên cơn hen giảm đáng kể.
Nuôi chó có lợi về mặt tương tác với vi sinh vật trong nhà. Ảnh: The Spruce. |
Điều này có thể giải thích tại sao xác suất mắc bệnh hen suyễn và dị ứng của trẻ em lớn lên cùng với chó giảm 13%.
Một nghiên cứu khác mà chúng tôi đã đề cập ở trên do phòng thí nghiệm của Rob thực hiện đã tuyển chọn 60 gia đình có và không có trẻ nhỏ hoặc chó.
Có 17 gia đình trong số đó có con từ 6 tháng đến 18 tuổi. Còn 17 gia đình khác có chó nhưng không có con. Và 8 gia đình vừa có trẻ con và chó, trong khi 18 gia đình không có cả hai. Đáng kinh ngạc là việc nuôi chó làm tăng đáng kể số vi khuẩn chung giữa những cặp đôi cho chó ở trong nhà.
Có vẻ như chó làm tăng sự trao đổi vi khuẩn trong gia đình. Những cặp đôi đó cũng chia sẻ vi khuẩn của nhau nhiều hơn. Nói cách khác, việc nuôi một con chó đưa hai người lại gần nhau hơn về mặt vi sinh vật, nhưng việc nuôi một đứa trẻ thì không thế.
Những chú chó giúp định hình nên hệ gien vi sinh của những cặp đôi đó. Trong một nghiên cứu ở phòng thí nghiệm của Jack, một gia đình nọ cũng có tác động tương tự về trao đổi vi sinh vật với một con mèo hoang sống bên ngoài nhà họ.
Chưa có thí nghiệm thật sự nào xác định xem mèo sống trong nhà có tác động khác với mèo sống ngoài nhà không. Nhưng chúng ta biết rằng mèo sống trong nhà ít có khả năng là một yếu tố kích thích lớn đối với hệ miễn dịch.
Tuy nhiên, chỉ cần có bất cứ con vật ở quanh thôi cũng sẽ làm tăng số lượng vi sinh vật mà con bạn được tiếp xúc. Tất cả những điều này đều có lý khi bạn ngẫm nghĩ về chúng. Tổ tiên của chúng ta đã thuần hóa chó và có ưu thế hơn những người không đưa động vật vào cuộc sống của họ.
Chúng tôi giả thiết rằng những người thường xuyên tương tác với chó phát triển hệ miễn dịch thích nghi với vi khuẩn của chó. Khá đơn giản là chúng ta đã quen thuộc với chúng.
Có lẽ chúng ta đã được “chỉ dẫn” để gặp gỡ các vi khuẩn của chó và nếu không như vậy thì có thể, ở một số người, hệ quả sẽ là một trục trặc miễn dịch.
Chúng ta không có cỗ máy thời gian để chứng minh điều này, nhưng chúng ta có khá nhiều bằng chứng từ những nghiên cứu trên động vật và từ những quan sát ở người để hỗ trợ cho giả thiết này.